Lê Thái Dũng
Tưởng rằng, 1 vị vua ở phương Đông sẽ chỉ quen với văn chương, thơ phú nhưng ít ai ngờ Gia Long đã khiến nhiều người châu Âu phải kinh ngạc về kiến thức khoa học sâu rộng của mình.
Thân thế vua Gia Long
Vua Gia Long là người sáng lập ra nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam.
Ông tên thật là Nguyễn Phúc Ánh (còn có tên khác là Nguyễn Phúc Chủng, Nguyễn Phúc Noãn), sinh ngày 15 tháng giêng năm Nhâm Ngọ (tức ngày 8 tháng 2 năm 1762), cha là Nguyễn Phúc Luân, con thứ hai của chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, mẹ là Nguyễn Thị Hoàn.
Họ Nguyễn làm chúa, xưng vương ở Đàng Trong được khoảng 200 năm thì bị lật đổ bởi cuộc khởi nghĩa Tây Sơn.
Tháng 9 năm Đinh Dậu (1777), quân Tây Sơn bắt sống Tân chính vương Nguyễn Phúc Dương và đến tháng 10 cùng năm thì bắt được Thái thượng vương Nguyễn Phúc Thuần đưa về Gia Định xử tử; chính quyền của họ Nguyễn đến đây coi như chấm dứt.
Tuy nhiên một nhân vật nổi bật là Nguyễn Phúc Ánh đã quyết tâm khôi phục quyền vị của dòng họ.
Để có chính danh, năm Canh Tý (1780) Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vương ở Gia Định, đúc ấn "Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi bảo", xây dựng lực lượng, thậm chí cầu viện đến sự giúp đỡ của ngoại bang như Xiêm La (Thái Lan), Phú Lang Sa (Pháp)…
Trải qua hàng chục năm gian nan, vất vả, kiên trì trong cuộc chiến với nhà Tây Sơn, cuối cùng nhân khi nội bộ triều đình Tây Sơn suy yếu do mâu thuẫn bè phái đã cơ hội tốt cho Nguyễn Phúc Ánh dần chiếm ưu thế.
Sau khi chiếm được kinh đô Phú Xuân (Huế ngày nay) vào tháng 5 năm Tân Dậu (1801) rồi tấn công ra Bắc, đến ngày mồng 2 tháng 5 Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Gia Long, lập ra triều Nguyễn.
Ngày 21 tháng 6 cùng năm, thành Thăng Long thất thủ, quân Tây Sơn thua to, vua Cảnh Thịnh bỏ thành cùng các các bề tôi qua sông Nhĩ Hà (sông Hồng) chạy về hướng bắc nhưng đến Kinh Bắc thì bị bắt, triều Tây Sơn đến đây chấm dứt.
Chúng ta thường nghe nói đến "Chín chúa, mười ba vua triều Nguyễn", nhưng thực ra họ Nguyễn có 10 đời chúa và Nguyễn Phúc Ánh chính là vị chúa thứ 10 - đời chúa cuối cùng của chính quyền Đàng Trong; ông cũng là vị vua đầu tiên của nhà Nguyễn.
Như vậy, xét trong lịch sử Việt Nam, Nguyễn Phúc Ánh là người duy nhất làm chúa rồi lại làm vua.
Vua Gia Long và những hiểu biết khiến người Tây nể phục
Chính sử nước ta hầu như không nhắc đến những hiểu biết rộng rãi của vua Gia Long về châu Âu nói chung và về khoa học, kỹ thuật tiên tiến đương thời nói riêng, thế nhưng qua một số nguồn tư liệu của những người phương Tây có may mắn gặp gỡ, tiếp xúc đều thể hiện sự ngưỡng mộ về trí tuệ và tài năng của ông.
Trong cuốn Souvenirs de Hue (Hồi ký Huế) của Michel Đức Chaigneau, con trai một phụ tá người Pháp của vua Gia Long là Jean Baptiste Chaigneau (tên Việt là Nguyễn Văn Thắng) đã cho biết vị vua đầu tiên của triều Nguyễn là một người hòa nhã, giản dị, tài năng, có những ý tưởng khoáng đạt và cả sự hào hiệp.
Cuốn sách cũng cho biết "trong sự tâm giao, vua Gia Long rất thích hỏi cha tôi về các trường học và những phong tục của nước Pháp" và "vua Gia Long được công nhận là một người có khả năng nhất của vương quốc vì đã có đầy đủ trong mình những đức tính cần thiết cho một người đứng đầu nhà nước.
Lòng quả cảm và đức tính kiên trì theo đuổi tất cả những mục tiêu đúng đắn làm cho giám mục Adran và những người Pháp làm việc ở Nam Kỳ cho rằng tuyệt nhiên không có một người đứng đầu quốc gia châu Âu nào có thể thay thế được".
Những hiểu biết về châu Âu, với tri thức và khoa học tân tiến lúc bấy giờ mà vua Gia Long có được không chỉ qua trao đổi, học hỏi, thu thập từ những người phương Tây mà vua có dịp gặp gỡ; ông còn có được thông tin qua sách vở.
Một cố đạo người Pháp tên là Lelabrousse trong bức thư đề ngày 1/5/1800 gửi cho giám đốc trường Tu nghiệp của hội truyền giáo ngoại quốc ở Paris đã viết:
"Nhà vua có tính chăm chỉ hết sức. Ban đêm Ngài ít ngủ, đọc sách rất nhiều; việc gì cũng tò mò muốn biết và cần cù hiếu học đáo để. Trong điện Ngài ở, có nhiều bộ sách của người Pháp soạn, dạy về các khoa kiến trúc, xây thành đắp lũy.v.v…
Ngài để luôn bên mình, năng mở ra xem những hình vẽ kiểu mẫu rồi cố bắt chước làm theo. Mỗi ngày thấy Ngài tấn tới lên mãi. Tóm lại, ông vua này là một bậc nhân quân vĩ đại nhất xứ Đàng Trong nước Nam từ trước đến giờ".
Không chỉ người Pháp, những người châu Âu khác cũng rất nể phục vua Gia Long.
Một nhà du hành người Anh tên là John Barrow xuất bản tại London vào năm 1806 cuốn sách "A voyage to Cochinchina in the year 1792 – 1793" (Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà trong năm 1792 – 1793) đã ca ngợi vua là: "...con người phi thường, một trong số ít người sinh ra với tài năng bẩm sinh để thống trị thế giới".
Hay "...câu chuyện về ông hoàng này, mà tôi đã phác họa sơ lược nêu lên một tấm gương sáng và một bài học bổ ích cho những ai có thể rơi vào những hoàn cảnh rủi ro tương tự, nó chỉ ra rằng nếu biết kết hợp tài năng, nghị lực và lòng dũng cảm theo một hướng chỉ đạo đúng đắn, người ta có thể làm được nhiều việc lớn lao đến như thế nào".
Tự đóng chiến thuyền, một minh chứng cho tài năng của Gia Long
Câu chuyện này chính sử nước ta không ghi chép đến, nhưng các tài liệu của người châu Âu có nhắc đến, nó khiến không chỉ người phương Tây, nơi có nền khoa học kỹ thuật phát triển hơn rất nhiều phải cúi đầu thán phục mà khi đọc những dòng ghi chép trong sử sách hậu thế chúng ta cũng phải sửng sốt, bất ngờ.
Trong cuốn sách của mình, John Barrow đặc biệt đánh giá cao việc Gia Long xây dựng, tổ chức, cải tiến lực lượng hải quân:
"Ông nắm vững không ít kiến thức về kỹ thuật, khoa học châu Âu; trong đó ông đặc biệt lưu ý về những gì liên quan đến thuật hàng hải và kỹ nghệ đóng tàu. Theo nguồn tin đáng tin cậy, người ta kể lại rằng để nắm vững kiến thức về thực hành cũng như về lý thuyết của kỹ thuật đóng tàu châu Âu, ông đã mua một chiếc tàu Bồ Đào Nha.
Với mục đích chỉ để tháo rời ra thành từng bộ phận, từng tấm ván một, rồi tự tay lắp vào một tấm ván mới có hình dáng và kích thước tương tự như cái cũ mà ông đã tháo ra, cho tới khi mọi thanh sàn tàu, xà ngang tàu, thanh gỗ khớp nối được thay thế bằng những cái mới, và như vậy con tàu hoàn toàn được đổi mới.
Nghị lực tinh thần của ông không kém phần mạnh mẽ so với năng lực hoạt động thể chất của ông. Thực vậy, nhà vua đã được coi như xung lực chủ yếu của mọi cuộc vận động xảy ra trong vương quốc rộng lớn và thịnh vượng của mình.
Nhà vua là người quản đốc các cảng biển và các kho quân dụng, là thợ cả trong các xưởng đóng tàu, kỹ sư trưởng trong mọi công trình; không có việc gì dự định thực hiện lại không có lời khuyên bảo và chỉ dẫn của ông.
Trong việc đóng tàu, không có cái đinh nào được đóng mà không có sự tham vấn ban đầu của ông, không có một khẩu đại bác nào được đưa lên vị trí mà không có lệnh của ông.
Không những ông đi vào từng chi tiết nhỏ nhặt nhất khi thảo ra những chỉ dẫn mà chính bản thân ông thực tế còn trông nom khi chúng được thực hiện".
Cố đạo Lelabrousse cũng dành một phần trong bức thư của ông để nhắc đến câu chuyện đáng nể này như sau:
"Thiên tư nhà vua cũng tốt không kém gì tâm tính, trí khôn nhanh nhẹn, thấu suốt dù những việc rắc rối nhất hạng, Ngài chỉ trông thoáng qua là hiểu ngay.
Lại có khiếu nhớ lạ lùng, phàm những gì qua mắt có thể ghi mãi trong trí không quên, cũng như trông thấy điều gì mới lạ đều có thể bắt chước một cách dễ dàng, tự nhiên.
Các xưởng đóng chiến thuyền trong xứ và các quân cảng được Ngài xếp đặt chỉnh tề, đồ sộ; người ngoại quốc đến xem phải động lòng kính phục, nếu cả châu Âu được trông thấy thì cả châu Âu cũng phải khen ngợi.
Một bên bài trí la liệt những súng trường, súng thần công, đại bác đủ hạng, những dã pháo, những xe chở súng, những viên đạn lớn nhỏ đủ cỡ..v.v.. Phần nhiều so sánh với các kiểu súng đạn tốt nhất ở Tây phương, bất quá chỉ thua kém về vẻ đẹp mà thôi.
Một bên thì đỗ chi chít những chiến thuyền không biết cơ man nào mà đếm; to có nhỏ có, chiếc nào chế tạo trông cũng có vẻ hùng vĩ khá sợ. Tất cả các thuyền binh khí ấy toàn là công trình của ông vua hiếu động và đa tài, đa nghệ…
Ngài đã chế tạo được những chiến thuyền theo kiểu châu Âu mà chỉ dùng toàn những người thợ bản xứ.
Ban đầu, ngài mua một chiếc tàu Tây đã cũ đem về tháo tung ra từng mảnh để xem cách thức chế tạo, sau đó tự tay ráp lại y nguyên hình thức cũ, ráp khéo đến nỗi xem chiếc tàu lại có vẻ đẹp hơn lúc trước.
Sự thành công ấy làm cho nhà vua nức lòng phấn chí, nhất định ra tay đóng hẳn một chiếc hoàn toàn mới. Mà ngài làm được mới thật lạ kỳ, sau đó lại đóng thêm hai chiếc nữa. Cả bốn chiếc tàu này đi đến đâu cũng làm lên oai danh hiển hách cho nhà vua.
Công cuộc chế tạo lại mau chóng không ngờ, chiếc nào cũng đóng không quá 3 tháng đã hoàn thành, có chiếc lại còn làm nhanh chóng hơn…
Các ông ở bên Tây nghe nói một ông vua ở nước Nam có thể chỉ huy được một chiếc tàu chiến đóng theo kiểu châu Âu, tất lấy làm lạ vô cùng; nhưng các ông còn kinh ngạc nhiều hơn nữa nếu như các ông được chứng kiến mọi sự kiến thiết ở xứ sở này".
Trên đây là một số nhận xét, đánh giá của người châu Âu về vua Gia Long ở bối cảnh ông vẫn chưa lên ngôi hoàng đế mà vẫn là một vị chúa đang trong cuộc tranh đấu với triều Tây Sơn để giành lại quyền cai trị cho dòng họ Nguyễn.
Tuy nhiên, những kiến thức mà ông học hỏi được từ phương Tây có hữu ích rất lớn, lực lượng thủy quân gồm thuyền chiến chèo tay, tàu chiến đóng theo kiểu châu Âu và các loại thuyền mành khác nhau chính là lực lượng nòng cốt giúp ông làm lên đế nghiệp.
Trận thủy chiến lớn diễn ra đầu năm Tân Dậu (1801) ở đầm Thị Nại trong cuộc tấn công đánh chiếm thành Quy Nhơn đã khiến cho toàn bộ hạm đội chiến thuyền hùng mạnh của Tây Sơn bị tiêu diệt hoàn toàn.
Tạo ra bước ngoặt quan trọng đánh dấu đà thắng lợi của Nguyễn Phúc Ánh nhờ đó mà chỉ một thời gian ngắn sau ông đã kiểm soát toàn bộ lãnh thổ, chấm dứt triều đại Tây Sơn và thay thế bằng vương triều mới do ông đứng đầu.
Làm vua được 18 năm, đến ngày 19 tháng Chạp năm Kỷ Mão (tức ngày 3/2/1820) Gia Long qua đời, hưởng thọ 59 tuổi.
Triều đình đặt thụy hiệu cho vua là "Khai thiên Hoằng đạo Lập kỷ Thùy thống Thần văn Thánh vũ Tuấn đức Long công Chí nhân Đại hiếu Cao Hoàng đế"; sử sách thường gọi là Nguyễn Thế Tổ.
Tài liệu tham khảo:
1. Đào Trinh Nhất tác phẩm (Nguyễn Q. Thắng sưu tầm, giới thiệu)- NXB Văn học, 2010
2. Hồi ký Huế (Michel Đức Chaigneau)- NXB Thuận Hóa, 2011
3. Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà năm 1792 – 1793 (John Barrow) – NXB Thế giới, 2011
4. Phan Đình Phùng và Việt sử giai thoại (tuyển tập Đào Trinh Nhất)- NXB Văn học, 2000
5.Việt Nam sử lược (Trần Trọng Kim) – NXB Đà Nẵng, 2003
theo Trí Thức Trẻ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét