Thứ Hai, 26 tháng 12, 2016

Hà Nội từng có 21 cửa ô

Người Hà Nội vốn chỉ quen với Ô Quan Chưởng, nhưng sử sách ghi xưa kia đô thị này từng có tới 21 cửa. Kiến trúc cửa ô phổ biến là cửa vòm và lầu gác bên trên, hoặc chỉ có hai trụ cùng cánh cổng gỗ mở vào. 

Khi người Pháp bắt đầu xây dựng thành phố Hà Nội, họ đã nhiều lần nhắc đến bức lũy Đại La xây năm 1749 để xác định giới hạn quy ước của đô thị Hà Nội. Lá thư của Thống sứ Bắc Kỳ gửi Đốc lý Hà Nội ngày 30/12/1889 đã nhấn mạnh: “Bức lũy cũ phải được coi như giới hạn của thành phố”.
Dãy lũy đất xen kẽ xây gạch này tương ứng với đường vành I ngày nay. Chúng cũng là những con đê cao hơn phố xung quanh, nhưng nay đã bị bạt đi khá nhiều như: Trần Khát Chân, Đại Cồ Việt, La Thành, Giảng Võ, Ngọc Hà, Hoàng Hoa Thám… với tổng chiều dài 16 km. Các cửa ô qua dãy lũy này có vai trò quan trọng để các nhà quy hoạch xác định hướng giao thông chính và vùng dân cư, đồng thời trở thành nét đặc trưng của Hà Nội.
ha-noi-tung-co-21-cua-o
Thiết kế cửa ô thể hiện trên bản đồ Hà Nội 1885.
Nhiều đô thị Việt Nam có thành quách, vòng la thành với các cổng vào, nhưng chỉ Hà Nội mới gọi là cửa ô. Trong Đại Việt Sử ký toàn thư, lần ghi nhận về các cửa ô sớm nhất là năm 1308, khi Trần Anh Tông trị tội "những kẻ đại nghịch": "Mùa đông, tháng 11, trị tội những kẻ đại nghịch là bọn tên Hân. Tên Hân bị chém ở cầu Giang Khẩu, tên Trù ở cửa thành chợ Dừa, tên Tổng ở cửa thành Tây Dương, tên Dung ở cửa thành Vạn Xuân". Cửa thành chợ Dừa tức Ô Chợ Dừa, cửa thành Tây Dương tức Ô Cầu Giấy, cửa thành Vạn Xuân tức Ô Đống Mác.
Tuy nhiên, tên gọi “cửa ô” mới được dùng từ sau khi chúa Trịnh Doanh đắp lại vòng tường thành dài 16 km năm 1749, trên cơ sở bức tường lũy thời Mạc. Một số văn bản chữ Hán đã dùng từ “ổ môn” để gọi các cửa ô, với chữ “ổ” nghĩa là lũy, ụ. Trong Hoàng Lê nhất thống chí, từ này đã được dùng khi thuật việc Trịnh Khải thua trận trước Nguyễn Huệ năm Bính Ngọ 1786, chạy khỏi kinh thành qua ngả “cửa ô Yên Hoa”.
Các văn bản địa chí nói đến cửa ô như Bắc thành dư địa chí (thời Minh Mạng), Hà Nội địa dư (thời Tự Đức), Phương Đình dư địa chí loại (năm 1882, khắc in năm 1900), Thăng Long cổ tích khảo tịnh hội đồ (1956) đều xác định Hà Nội có 21 cửa ô. “Đến năm Kỷ Tỵ 1749 đời Cảnh Hưng, cho rằng Kinh sư vốn là vùng đất căn bản, bá quan lục quân đều đóng ở đấy, thế mà bốn phía hở thông thống chẳng có thành lũy gì che chắn, bèn lệnh cho dân ở các huyện ven kinh kỳ khởi công đắp thành, mở ra 8 cổng và các cửa ô tả hữu rồi chia quân lính tới túc trực canh giữ. Ngày nay thành ấy còn lại di chỉ dài 7762 tầm, với 21 cửa ô”, sách cũ ghi lại.
Về hình thức, các cửa ô cơ bản có hai loại: loại cửa vòm và lầu gác bên trên (có thể xây thành lối tam quan như Ô Quan Chưởng) và loại chỉ có hai trụ biểu cùng hai cánh cổng gỗ mở vào. 
ha-noi-tung-co-21-cua-o-1
Thiết kế cửa ô thể hiện trên bản đồ Hà Nội 1885.
Từ 21 cửa ô, còn lại bao nhiêu?
Mặc dù các văn bản nêu trên đều nói có 21 cửa ô, nhưng thống kê từ các nguồn cũng như bản đồ, các nhà nghiên cứu xác định được 18 cửa ô và vị trí của 17 cửa. Trên bản đồ tỉnh thành Hà Nội 1831 có tên Hoài Đức phủ toàn đồ do Lê Đức Lộc và Nguyễn Công Tiến vẽ được công bố gần đây, từng được Trần Huy Bá vẽ lại và chú giải bằng quốc ngữ năm 1956, thì gồm 16 cửa ô.
Theo một cuốn sách khác, Thăng Long cổ tích khảo, lưu tại Viện Hán Nôm, thì có thêm hai cửa ô nữa là Trung Liệt (Ông Tượng) và Nhân Hòa (Hàng Dê). Từ bản đồ 1866 đời Tự Đức thì chỉ còn 15 cửa ô, con số này lặp lại trên bản đồ Hà Nội 1885 do người Pháp lập năm 1902, và được ghi chú chữ quốc ngữ.
Cũng năm này, tấm bản đồ do Phạm Đình Bách vẽ lại hiện trạng năm 1873 có danh sách 15 cửa ô bằng song ngữ và đánh số. Năm 1890, tấm bản đồ bằng tiếng Pháp còn đánh dấu một số cửa ô sót lại như Porte Mandarine (Ô Đồng Lầm), Porte du Roi (Ô Chợ Dừa), Porte de Sontay (Ô Cầu Giấy), Porte de Hué (Ô Cầu Dền). Cùng với Ô Quan Chưởng, đây là số ít địa danh có chữ “Ô” còn được dùng ngày nay.
Việc các cửa ô đổi tên nhiều lần, nhà nghiên cứu Nguyễn Vinh Phúc lý giải do chính các làng có cửa ô bị đổi tên. Do hay thay đổi sinh ra khó nhớ, dễ lẫn nên người dân thường gọi bằng các tên nôm như Ô Hàng Đậu, Ô Quan Chưởng, Ô Cầu Dền, Ô Đống Mác… và thực tế cũng là những cái tên còn lại lâu dài về sau.
Trong cuốn Hà Nội 1873-1888, André Masson đã tập hợp các nguồn lưu trữ để chỉ ra có 16 cửa ô. “Điểm làm Hà Nội 1873 khác với Hà Nội hiện nay (1929) trước hết là ở những công trình bảo vệ của nó. Đó là những tường vây hoặc các cổng chia cắt nhỏ các phố ra. Khu buôn bán được bảo vệ bằng nhiều cổng, trong đó hiện nay chỉ còn cổng Jean Dupuis (tức cửa Ô Quan Chưởng). Cổng này có nguy cơ bị phá vào năm 1906 nhưng may mắn được trường Viễn Đông Bác Cổ cứu thoát. Theo ghi chép, cổng được xây dựng năm 1749 để phòng thủ kinh thành ở mặt sông Hồng trước sự nổi dậy của Nguyễn Hữu Cầu”.
ha-noi-tung-co-21-cua-o-2
Sơ đồ thành ngoài (Đại La) của tỉnh thành Hà Nội năm 1831 trên cơ sở bản vẽ của Trần Huy Bá với các cửa ô. Các cửa ô tập trung nhiều ở mặt sông Hồng do kiêm chức năng cửa khẩu buôn bán.
Ở tường phía trái cửa chính Ô Quan Chưởng có gắn tấm bia do tổng đốc Hà-Ninh Hoàng Diệu cho khắc, đề năm Tự Đức thứ 34 (1881) cấm lính gác sách nhiễu người qua lại, có tên là “Thân cấm khử tệ”.
So sánh các bản đồ, có thể xác định ra một số điểm dễ gây nhầm lẫn, ví dụ ô Cầu Giấy không nằm ở chỗ Cầu Giấy bắc qua sông Tô Lịch hiện nay mà ở phố Thanh Bảo, gần đầu phố Nguyễn Thái Học và chợ Ngọc Hà, do đó cũng manh tên ô Thanh Bảo hay Vạn Bảo.
Mặc dù bức tường đất vòng quanh Hà Nội được đắp với tác dụng ngăn ngừa giặc giã, quân nổi loạn, nhưng thực tế lại để dọa người lành, bằng chứng là văn bia năm 1881 đã nhắc tới tệ sách nhiễu vốn tồn tại trước đó. Khi quân Pháp tấn công Hà Nội hai lần, những cửa ô không có tác dụng chặn được đại bác hay sự tàn phá của thực dân. 
Theo thời gian, các cửa ô mất dần ý nghĩa thành trì, đại diện cho kiểm soát quyền lực của thể chế mà chuyển thành địa danh cộng đồng, tựa như cổng làng quen thuộc khắp các miền quê. Vừa là một phần của thành lũy, lại vừa là vật chứng của phố phường, cửa ô xứng đáng là biểu tượng trọn vẹn của đô thị Hà Nội. 

STTBản đồ 1831Bản đồ 1873
(tên phụ in nghiêng)
Bản đồ 1885Tên khácVị trí hiện nay
1.
Yên HoaYên PhụYên Phụ Đầu dốc Thanh Niên-Yên Phụ
2.
Yên TĩnhYên Tĩnh
Hàng Than
Hàng ThanYên Định, Yên NinhĐầu dốc Cửa Bắc-Yên Phụ
3.
Thạch Khối  Nghĩa LậpĐầu dốc Yên Ninh
4.
 Nguyên Khiết
Yên Ninh
Hàng KhoaiNghĩa KhiếtĐầu Hàng Khoai
5.
Phúc LâmNghĩa Dũng Hàng ĐậuHàng ĐậuTiền TrungHàng Đậu giao với Yên Phụ
6.
Đông HàQuan Trưởng
Đông Hà
Quan Trưởng Ô Quan Chưởng-Hàng Chiếu
7.
Trừng ThanhƯu Nghĩa
Hàng Mắm
Không tên Hàng Chĩnh
8.
Mỹ LộcNghĩa Lập
Hàng Bạc
Không tên Ngã tư Hàng Mắm-Hàng Muối
9.
Đông YênThương Chánh
Hàng Cau
Không tên, trên phố Hàng XuĐông An, Hàng CauNgã tư Lò Sũ-Nguyễn Hữu Huân
10.
   Trung Liệt,
Ông Tượng
 
11.
Tây LuôngCựu Lâu
Tràng Tiền
Porte de FranceTrường LongNhà hát Lớn
12.
Nhân Hòa  Hàng DêBệnh viện 108
13.
Thanh LãngLương Yên
Đống Mác
Đống MácLãng YênCuối Lò Đúc
14.
Yên ThọThịnh An
Cầu Rền
Cầu DềnYên Ninh
Thịnh Yên
Ngã tư Ô Cầu Dền
15.
Kim HoaKim Liên
Đồng Lầm
Đồng LầmCầu MuốngNgã tư Kim Liên-Đại Cồ Việt
16.
Thịnh QuangThổ Quan
Chợ Dừa
(bản đồ không bao gồm)Thịnh HàoNgã tư Ô Chợ Dừa-Đê La Thành
17.
Thanh BảoVạn Bảo
Cầu Giấy
Cầu GiấyKim MãPhố Thanh Bảo giao với Sơn Tây
18.
Thụy ChươngThụy Chương
Quan Thánh
Quán ThánhTây HồDốc La Pho-Thụy Khuê
Nguyễn Trương Quý

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét