|
Sắc phong thời Nguyễn ở đình Hạ.
|
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, có không ít anh hùng dân tộc được lưu danh trong sử sách, nhiều người đã được tôn thần. Tuy nhiên, đến nay, duy nhất có Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn được tôn vinh là Thánh với một dòng tín ngưỡng thờ phụng rộng rãi: tín ngưỡng Đức Thánh Trần.
Cách TP Bắc Giang 25km về phía Đông Nam, di tích đình Hạ nằm trên một thế đất đẹp thuộc thôn Hạ, xã Khám Lạng, huyện Lục Nam. Đây không chỉ là nơi tổ chức sinh hoạt văn hóa tôn giáo của nhân dân địa phương, mà còn là nơi thờ phụng vị anh hùng dân tộc - nhà tư tưởng lớn, nhà quân sự lỗi lạc Trần Hưng Đạo.
Hưng Đạo Đại Vương (1232-1300) là danh tướng nhà Trần, đồng thời cũng là danh tướng trong lịch sử Việt Nam. Ông có công lớn trong hai lần kháng chiến chống quân Nguyên-Mông (lần 2 và 3). Ông là tác giả của bộ "Binh thư yếu lược" (hay Binh gia diệu lý yếu lược) và "Vạn Kiếp tông bí truyền thư" (đã thất lạc). Ông còn được nhân dân Việt Nam tôn sùng là bậc thánh, nên còn được gọi là Đức Thánh Trần. Ông tên thật là Trần Quốc Tuấn, là con trai của An Sinh vương Trần Liễu và bà Nguyệt phu nhân, cháu gọi vua Trần Thái Tông bằng chú, sinh ra tại Kiếp Bạc, xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương; nguyên quán ở làng Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.
Cuộc đời và sự nghiệp của Trần Hưng Đạo gắn liền với cuộc kháng chiến chống quân Nguyên-Mông xâm lược, cùng những chiến công vĩ đại của quân dân Đại Việt trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước. Ông là một tấm gương sáng về lòng trung quân ái quốc khi chủ động dẹp bỏ mối hiềm khích trong gia đình, đặt quyền lợi của quốc gia lên trên quyền lợi của bản thân, để xây dựng mối đoàn kết "anh em một nhà". Sự hòa thuận "đồng tâm hiệp lực" giữa Thượng tướng Trần Quang Khải và Quốc công Tiết chế Trần Quốc Tuấn có ảnh hưởng rất tích cực đến tinh thần chiến đấu của tướng sĩ và góp phần quan trọng đến sự thắng lợi của cuộc kháng chiến. Đồng thời, Trần Hưng Đạo cũng rất chú trọng tập hợp bên mình những nhân sĩ tài giỏi và trung thành, đã có công lao lớn trong việc đánh giặc giữ nước, như: Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Ngô Sĩ Thường…
Chiến thắng của quân dân Đại Việt trước quân Nguyên-Mông xâm lược ở thế kỷ XIII là bản anh hùng ca của thời đại, trong đó góp phần quan trọng làm nên thắng lợi là vai trò chỉ huy, tổ chức chiến đấu của nhà quân sự lỗi lạc Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Nếu như ở thế kỷ XI, Lý Thường Kiệt dùng kế "tiên phát chế nhân"-chủ động tiến công nhằm hạn chế sức mạnh của giặc, để phá tan kế hoạch xâm lược của nhà Tống; ở thế kỷ XV, Lê Lợi đưa cuộc kháng chiến từ địa phương phát triển rộng ra toàn quốc, dồn đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi và ở thế kỷ XVIII, Quang Trung đánh "thần tốc", bất ngờ khiến quân Thanh không kịp trở tay, thì Trần Hưng Đạo lại kết hợp linh hoạt giữa chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy khi tổ chức những cuộc rút lui chiến lược nhằm tránh nhuệ khí của giặc, bảo toàn lực lượng rồi đánh du kích, triệt phá lương thực và tiêu hao sinh lực địch, chờ thời cơ thuận lợi phản công quyết liệt, giành thắng lợi quyết định. Thực hiện kế hoạch của Trần Hưng Đạo, nhân dân cả nước thực hiện "vườn không nhà trống", cất giấu lương thảo, của cải, tự vũ trang đánh giặc, hăng hái tổ chức các đội dân binh phối hợp chiến đấu với quân triều đình, làm cho quân Nguyên thường xuyên lâm vào thế bị động, thiếu lương thực, phân tán lực lượng và cuối cùng bị đánh bại.
Qua những lần lãnh đạo quân dân nhà Trần chống xâm lược, cùng với việc nghiên cứu kỹ lưỡng binh pháp cổ Trung Hoa và phép dùng binh của Đại Việt từ thời Tiền Lê đến thời Lý, Trần Hưng Đạo đã soạn ra binh pháp của mình, lập thành tông phái quân sự riêng, gọi là Tông Vạn Kiếp. Các cuốn binh thư của ông, đặc biệt là Binh thư yếu lược, Vạn Kiếp tông bí truyền thư luôn được coi là "cẩm nang quân sự" trong việc giáo dục, huấn luyện quân đội nhà Trần và các nhà quân sự sau này.
Do có những công lao vĩ đại, năm Trùng Hưng thứ 5 (1289) ông được tiến phong làm Đại Vương, gia phong thêm tước Thượng Quốc Công, được quyền tự ban tước phẩm cho người khác, được ban thái ấp ở Vạn Kiếp (Hải Dương). Vua Trần cho lập đền thờ khi ông còn sống gọi là Sinh Từ (Từ Cũ); Thượng hoàng Thánh Tông tự soạn văn bia Sinh Từ ca ngợi, ví ông với Thượng Phụ (tức Lã Vọng ngày xưa được Chu Vũ Vương tôn làm thầy).
Đất nước thanh bình, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn về sống tại Vạn Kiếp. Ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý (tức vào năm Hưng Long thứ 8 (1300), ông mất tại tư dinh ở Vạn Kiếp, được triều đình phong tước hiệu cao nhất "Thái sư Thượng phụ Thượng Quốc Công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương".
Sau khi mất, Trần Hưng Đạo được thờ phụng ở nhiều nơi, trong đó có lễ hội lớn nhất ở đền Kiếp Bạc thuộc huyện Chí Linh (Hải Dương)-nơi ngày xưa là phủ đệ của ông. Ông được người dân nhiều đời sùng kính phong Thánh (tức là Đức Thánh Trần). Ngày lễ chính thức được tổ chức vào ngày ông mất (tức ngày 20 tháng 8 âm lịch hàng năm).
Còn tại làng Hạ, xã Khám Lạng, huyện Lục Nam, cùng với nhân dân các địa phương khác trong tỉnh, với tấm lòng sùng kính ngưỡng vọng đã lập nên ngôi đình thật khang trang để phụng thờ ông.
Tổng thể quy mô kiến trúc của di tích bao gồm 3 hạng mục chính là: Sân đình, tiền đình và hậu cung. Trong đình hiện còn bảo lưu được nhiều tài liệu, hiện vật quý như: Sắc phong (2 đạo - thời Nguyễn), bia đá, bát hương gốm cổ thế kỷ XIX, ngai thờ, bát biểu, hậu bành… có giá trị cao trong việc nghiên cứu lịch sử-văn hóa của di tích.
Hàng năm, vào ngày mồng 10 tháng 11 âm lịch, dân làng mở hội lớn thu hút đông đảo khách thập phương về dự. Lễ hội truyền thống ở đình Hạ là một sinh hoạt văn hóa đa dạng, phong phú. Trong hội ngoài phần lễ còn có các trò chơi dân gian mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc: cờ tướng, đánh đu, đấu vật… đã đáp ứng được nhu cầu về hưởng thụ văn hóa của nhân dân.
Với những giá trị tiêu biểu như đã nêu trên, ngày 29-7-2011, di tích đình Hạ đã được UBND tỉnh quyết định xếp hạng là: Di tích lịch sử-văn hóa.
Ngọc Bảo Anh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét