Lần về thăm Mông Phụ lần này, chúng tôi được nghe một cụ già ngót tuổi 90 kể về ngôi chùa độc nhất vô nhị cõi trời nam: ngôi chùa không sư, không tượng, có tiếng linh thiêng và dưới móng chùa là cả một kho báu mang đầy màu sắc huyền bí.
Bí ẩn chùa không sư, không tượng
Từ thị xã Sơn Tây, theo hướng Trung Hà đi khoảng 4 cây số sẽ gặp lối rẽ vào làng Mông Phụ (xã Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội), khu vực trung tâm của làng Việt cổ. Thêm vài trăm mét nữa, chếch ánh nhìn sang phía tay trái, chúng tôi bắt gặp một ngôi nhà 3 gian ngói cũ rêu phong, tường đá ong vây hai đầu hồi và phía tường hậu. Sự trống trải của mấy gian nhà làm những người trong đoàn không thể đoán định về kiến trúc kỳ lạ đó.
Tọa lạc 1046 năm tuổi
Ông Phan Văn Lợi, Bí thư Đảng ủy xã Đường Lâm đi cùng hích nhẹ thì thầm: “Chùa Ón đấy. Đằng sau ngôi chùa này là một huyền thoại và sự bí ẩn”. Ngôi chùa được xây dựng giữa một cánh đồng bằng phẳng, nằm cạnh con đường dẫn vào làng Mông Phụ. Chùa xây theo kiểu chữ Nhị (=) chuôi vồ, phía trước là 3 gian nhà tiền tế, hai bên gian cạnh có 2 bệ ngồi, bên trên tường hậu có xây 2 bệ thờ.
Theo như lời các cụ già trong làng có mặt tại đó cho biết: “Không gian chùa một bên thờ Quan Chúa Ôn (lễ vào ngày mùng 1/4 âm lịch); một bên thờ các quan Đương Niên hành khiển cai quản trần gian. Gian trong nhỏ hơn xây bệ tam cấp là nơi thờ Thổ thần Thổ địa, trước kia trên đó có một bộ hoành phi mang dòng chữ “Ôn Hoà Tự”, ngăn cách giữa gian trong và nhà ngoài có mái ngói riêng biệt gọi là (đấu suối), khi nước mưa chảy vào khoảng sân trống và thoát nước ra ngoài, khai thông tạo khí liên hoàn kết hợp âm dương giao hoà”.
Bí ẩn chùa không sư, không tượng
Từ thị xã Sơn Tây, theo hướng Trung Hà đi khoảng 4 cây số sẽ gặp lối rẽ vào làng Mông Phụ (xã Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội), khu vực trung tâm của làng Việt cổ. Thêm vài trăm mét nữa, chếch ánh nhìn sang phía tay trái, chúng tôi bắt gặp một ngôi nhà 3 gian ngói cũ rêu phong, tường đá ong vây hai đầu hồi và phía tường hậu. Sự trống trải của mấy gian nhà làm những người trong đoàn không thể đoán định về kiến trúc kỳ lạ đó.
Tọa lạc 1046 năm tuổi
Ông Phan Văn Lợi, Bí thư Đảng ủy xã Đường Lâm đi cùng hích nhẹ thì thầm: “Chùa Ón đấy. Đằng sau ngôi chùa này là một huyền thoại và sự bí ẩn”. Ngôi chùa được xây dựng giữa một cánh đồng bằng phẳng, nằm cạnh con đường dẫn vào làng Mông Phụ. Chùa xây theo kiểu chữ Nhị (=) chuôi vồ, phía trước là 3 gian nhà tiền tế, hai bên gian cạnh có 2 bệ ngồi, bên trên tường hậu có xây 2 bệ thờ.
Theo như lời các cụ già trong làng có mặt tại đó cho biết: “Không gian chùa một bên thờ Quan Chúa Ôn (lễ vào ngày mùng 1/4 âm lịch); một bên thờ các quan Đương Niên hành khiển cai quản trần gian. Gian trong nhỏ hơn xây bệ tam cấp là nơi thờ Thổ thần Thổ địa, trước kia trên đó có một bộ hoành phi mang dòng chữ “Ôn Hoà Tự”, ngăn cách giữa gian trong và nhà ngoài có mái ngói riêng biệt gọi là (đấu suối), khi nước mưa chảy vào khoảng sân trống và thoát nước ra ngoài, khai thông tạo khí liên hoàn kết hợp âm dương giao hoà”.
Chùa Ón. |
Cụ Hà Văn Soạn, nhà ở dốc vào làng Mông Phụ, cách chùa Ón khoảng 500 mét là một trong các bậc cao niên của làng biết khá rõ về lịch sử ngôi chùa. Cụ cho chúng tôi biết: “Câu đầu chùa Ón còn ghi những dòng chữ Hán: Khởi tạo Bính Dần niên, quý Xuân, Nhâm Tý nhật, Mão khắc động thổ; Bình cơ, Ất Mão nhật Dậu thời thụ trụ thượng lương cát. Và cụ tạm dịch như sau: Động thổ vào ngày Nhâm Tý, giờ Mão, tháng 3 năm Bính Dần; Chùa được xây dựng trên một mảnh đất bằng phẳng cao ráo, cất nóc vào giờ Dậu ngày Ất Mão, tốt”. Hướng lên câu đầu bên trái, có bốn chữ kiểu Triện thư: Phú Quý Thọ Khang, cụ nói rằng tạm dịch là: Giàu, Sang, Sống lâu, Mạnh khỏe.
Tra sách lịch, năm Bính Dần xây dựng chùa ứng với Thập nhị Sứ quân năm 966 thì đến năm 2012 này, thời gian đã là 1046 năm trời. Ngôi chùa vẫn đứng sừng sững bền vững với thời gian, tọa lạc thâm nghiêm trên nền ruộng chùa một mẫu hai sào Bắc Bộ, chứng kiến bao thăng trầm biến đổi của làng quê.
Ly kỳ chùa Ón
Chùa Ón không có tượng và không có sư chăm coi. Đa phần khách thập phương có thể tự ý vào dâng hương cầu lộc tài sức khỏe. Cụ già trong làng cho biết thêm: “Đây là ngôi chùa hết sức linh thiêng, người vô tình xâm phạm hay trai gái quanh quẩn tự tình sẽ gặp những chuyện không may, khó lý giải. Muốn tai qua nạn khỏi phải biết dâng hương sám hối trước bệ thờ”.
Trong những người cao tuổi đi cùng chúng tôi, cụ Nguyễn Văn Thêm, tuổi hạc gần 90 xuân, kể về truyền thuyết ngôi chùa không tượng khá ly kỳ. Chùa Ón đã có từ rất lâu rồi, hiện nay không còn sử sách chép lại mà chỉ được các cụ xưa truyền lại. Chùa Ón có tên là Chùa Ôn Hoà Tự, Ôn Hoà Tự là tên của một vị tướng người nước Tàu đã từng phò tá danh tướng Lý Thường Kiệt dẹp tan giặc ngoại xâm ở vùng Hà Bắc, sau đó cụ không nhận chức quan mà đi về miền xuôi.
Khi đến Đường Lâm một vùng đất cổ mà thấy khí lành, phong cảnh tuyệt đẹp, đất đai, con người thân thiện, cụ chọn làm điểm đến và ở lại khai phá ruộng nương, trồng lúa vun khoai. Với sức khoẻ và bản chất con nhà võ cụ làm ruộng rất giỏi, thóc lúa lương thực nhiều, cụ dành cho những người nghèo. Song với tài thuật phong thuỷ, cụ muốn đặt một ngôi chùa để trấn yểm long mạch trừ tà giúp cho dân làng được thịnh vượng và cụ đã xây một ngôi chùa đó chính là ngôi Chùa Ón ngày nay.
Chùa Ón mặc dù là chùa nhưng không tượng, không sư. |
Sau khi xây chùa xong, cụ xin dân làng hiến 3 mẫu ruộng (1 ha) và đúc một chiếc chuông đồng nặng 145kg để cung tiến vào đình làng Mông Phụ, chiếc chuông có 4 chữ “Chung Hồng Hoà Tự”; nghĩa là chuông bằng đồng, màu sáng hồng rực rỡ, tiếng chuông ngân sâu, đem điều may cho mọi người, Hoà Tự là tên huý của chủ nhân cung tiến.
Sau đó cụ xin phép dân làng được ra đầu làng nơi có ngôi Chùa Ón để lập cơ ngơi sinh sống làm ăn và mục đích chính là cụ muốn bảo vệ đánh chặn bọn cướp giữ cho làng xóm được bình yên, vì mỗi khi bọn cướp đến làng chỉ cần nghe đến tên cụ là chúng đã hồn vía lên mây rồi mà không dám đến quấy quả nhân dân nữa.
Ngày ngày cụ chăm chỉ lao động, tính tình thương người, phóng khoáng, yêu mến trẻ con, thời bấy giờ lũ trẻ trong làng đi chăn trâu cắt cỏ đều muốn đi sớm về muộn để được vào chùa chơi đùa, được cụ thường cho ăn lộc chỉ là những phẩm oản xôi nếp, củ khoai luộc, bắp ngô, con cá, con cua nướng...
Khi rảnh rỗi cụ dạy cho cách cày cấy, trồng cây, chăm bón, dạy làm diều giấy…, đặc biệt lại nhớ lại nghiệp xưa cụ thể hiện múa những đường quyền cước cho lũ trẻ xem và học tập, mục đích nhằm rèn luyện sức khoẻ, tài đức và trí tuệ con người.
Cụ dạy võ, dạy vật. Các phương pháp dạy của cụ thật đơn giản, dễ nhớ, dễ thuộc nhưng lại có pháp thuật cao siêu. Dần dần tiếng lành đồn xa, các thanh thiếu niên trong làng ngoài xã biết tiếng đến theo đòi học luyện võ học vật.
Cụ đề nghị dân làng cho mở hội vật đua tranh tìm ra những người hiền tài giúp dân giúp nước, được nhân dân đồng lòng ủng hộ. Ngày mùng 3 tháng 3 âm lịch là ngày Tết Hàn Thực, Chùa Ón chính là nơi các cụ bô lão trong làng và cụ Ôn Hoà Tự đứng ra tổ chức hội vật, trước khi tổ chức hội vật làng tổ chức tế lễ tại đình làng, cầu đức Thành Thành Hoàng phù hộ độ trì cho bá tánh muôn dân.
Các thanh niên trai làng được tiến cử làm đô vật khiêng chiếc chuông đồng từ đình làng ra Chùa Ón, ông chủ lễ hội đánh đủ 3 hồi 9 tiếng (tổng cộng 99 tiếng) chuông sau đó làm lễ tế thổ thần tại Chùa Ón. Tiếng trống cái dồn dập hoà theo nhịp tế lễ tại nời Chùa Ón, các thể lệ, lễ nghi được công bố rõ ràng, các đô vật lần lượt vào làm lễ tế Thần và làm lễ “xe đài” trước khi vào thi đấu.
Cuộc đấu vật được diễn ra trong một buổi chiều cùng ngày. Từng cặp lần lượt vào thi đấu, sau 3 hiệp nếu bên nào được 2 lần thì sẽ thắng cuộc, cả người thắng, người thua đều có thưởng; tuy nhiên bên thắng sẽ được thưởng cao hơn, cứ vậy cho đến phần kết hội vật là lễ “vuốt giải”.
Tham gia Vuốt giải để tranh Nhất – Nhì cho cặp xuất sắc nhất trong hội vật. Lúc đầu chỉ là Hội của làng rồi Hội vật Chùa Ón được mở rộng lan truyền đến các tổng lân cận, có rất nhiều đô vật từ các tỉnh xa cũng cơm nắm muối vừng, cà muối về tham gia lễ hội. Nếu đô vật nào tham gia vuốt giải mà thắng cuộc đạt giải Nhất thì được coi đó là người Hùng và năm đó sẽ được nhiều điều may mắn. Nhưng có điều rất kỳ lạ năm sau không tham gia thi đấu trong hội vật thì quả là xúi quẩy.
Những chuyện về Chùa Ón có lẽ còn nhiều, đến nỗi người làng ít kể vì sợ câu chuyện mình nói ra bất cập. Nhưng thiết nghĩ chuyện kho báu bị mất dấu dưới thềm chùa cần được ghi nhớ kẻo khi người cao niên theo bóng hạc mây trắng, ta lại thầm tiếc những điều kỳ thú trên quê hương rơi vào quên lãng.
Đầu làng có một ông cụ quanh năm sống cảnh đạm bạc, cơ hàn. Bỗng một tối nọ có một bà cụ lạ mặt gọi cổng và nói rằng: “Giả lễ cho tôi, tôi cho ông của để giải thoát cho tôi, vì tôi ở đây lâu quá rồi”. Ông cụ nhà nghèo hỏi giả lễ bằng gì thì bà cụ bảo giả lễ bằng 99 người đàn bà chửa.
Ông cụ hốt hoảng quá nói, cụ bảo tôi lấy của của cụ mà phải giết đi tới 99 mạng người thì của cải của cụ tôi không thể nhận, vì của đó chứa sự vô nhân không làm gì được. Nói rồi từ chối. Đến giờ, người già trong làng Mông Phụ truyền lại đời nay một truyền thuyết đầy ly kỳ, bí ẩn.
Từ khi mất kho báu, ngôi chùa mất thiêng. |
Khi chúng tôi hỏi đến, cụ Hà Văn Soạn cho biết đến cả tuổi tác như mình cũng chỉ được nghe lời truyền tai từ thế hệ trước mà thôi. Các cụ kể lại rằng thời Bắc thuộc nhiều người Trung Quốc được cử sang Việt Nam làm việc. Khi hết hạn về nước, những người này tích lũy được một số của cải mang về nước nhưng bị nhà nước Trung Hoa thu lại. Những người khác thấy vậy sợ mất của nên đã tìm cách giấu quanh nơi họ đã từng sinh sống và chỉ mang gia phả và hồ sơ chôn của về nước để sau này con cháu có điều kiện sang lấy về.
Câu chuyện người Tàu dùng cô gái đồng trinh để biến thành thần giữ của như thế nào thì chúng ta cũng đã nhiều người biết đến.
Mở kho báu với 99 cái đòng lúa
Trở lại câu chuyện người Tàu giấu của ở Chùa Ón, người già làng Mông Phụ truyền lại cho con cháu một truyền thuyết đầy ly kỳ, bí ẩn. Bẵng đi một thời gian, một buổi chiều nọ lại có một ông khách người Tàu đi bán thuốc dạo vào nhà ông cụ nhà nghèo xin ngủ nhờ một đêm. Cụ đồng ý ngay và còn mời ăn cùng nhưng nhà nghèo chỉ có ngô khoai độ bữa.
Ông khách vui vẻ chia sẻ bữa ăn và hỏi chuyện gia cảnh, cụ già cứ thực mà bảo tôi già yếu ăn không được, ngủ chả được. Bà nhà tôi trước đây sinh con bị sản hậu yếu lắm. Sinh đẻ muộn nên các con cũng ốm đau quặt quẹo luôn.
Người khách đến xuống ruộng ngắt lấy 99 cái đòng lúa để vào chiếc đĩa rồi đặt lên ban thờ thắp hương làm lễ. |
Nghe vậy ông khách bèn cắt thuốc ngâm rượu cho cụ ông, cụ bà uống và bảo không lấy tiền thuốc. Dần dần hai cụ khỏe ra, ăn ngon ngủ khỏe. Lại cho các con ông bà cụ ăn thuốc cam. Thời gian ngắn sau, các cháu đều khỏe ra.
Hàng ngày chủ khách cùng nhau chia sẻ ngô khoai ăn uống, lâu cũng coi khách như người trong nhà. Mỗi khi bà con hàng xóm có người lâm phải ốm đau bệnh tật, ông khách đều cho thuốc chữa mà không lấy tiền nên mọi người quý mến như người làng.
Nhờ sự quý mến ấy, người khách Tàu thoải mái đi lại nắm vững mọi địa chỉ, sơ đồ trong làng ngoài ngõ. Một hôm, ông khách hỏi chuyện cụ ông làng ta có mấy cái đình? Cụ ông thật thà trả lời, làng chỉ có mỗi một cái đình mà thôi. Nhưng ông khách lại như khăng khăng nói trong làng có hai cái đình, đó là đình làng và đình Ón.
Ông cụ nói với khách làng chỉ có một cái đình thôi, cái kia là chùa, nơi đây gọi là chùa Ón! Khách hỏi địa chỉ chùa cụ thể. Đã nắm vững nơi kia là nơi nào, ông khách Tàu âm thầm chuẩn bị cho cuộc lấy của của mình.
Cánh đồng chùa Ón ngày xưa chỉ cấy lúa một vụ. Vào khoảng tháng 9 âm lịch, lúa trổ đòng. Một hôm ông khách mời ông cụ nhà nghèo kia ra chùa Ón làm lễ.
Theo chân ông khách gánh gánh thuốc ra để giữa sân Chùa Ón, rồi ông ta xắn quần lội xuống ruộng lúa trước cửa chùa ngắt lấy 99 cái đòng lúa để vào chiếc đĩa rồi đặt lên ban thờ thắp hương làm lễ.
Không biết khách khấn khứa thế nào mà tự nhiên một chiếc hòm bỗng hiện lên. Ông khách lễ tạ rồi bước tới bưng chiếc hòm lên đặt vào gánh thuốc của mình. Chứng kiến từ đầu đến cuối, ông cụ chỉ biết há mồn trợn mắt ngạc nhiên. Về đến nhà, ông khách Tàu lấy ra một đĩa bạc rời trong túi biếu ông cụ, rồi chào từ biệt, quẩy gánh ra đi. Từ đó chùa Ón mất thiêng!
Và sự chậm chân của chủ nhân kho báu
Một thời gian sau, lại có một người Tàu sang tìm của tại Chùa Ón nhưng biết rằng đã có người lấy mất. Ông cụ đó bí danh là Ôn Hòa Tự. Ông bèn bỏ tiền tu sửa chùa và xin các cụ trong làng được trông coi chùa Ón và tự trồng cấy lấy lương ăn.
Vì ngày đó cánh đồng này chỉ cấy lúa một vụ mùa nên gặt xong thì từ sau tháng 10 âm lịch đến tháng 3 âm lịch năm sau, cánh đồng bị bỏ hoang, tụ tập các cháu mục đồng đưa trâu bò đến ăn cỏ và nô đùa.
Ông cụ hàng ngày luộc khoai sắn mình đã trồng cấy cho các cháu ăn, và dạy các cháu các trò chơi đấu vật thả diều và luyện tập võ nghệ. Bầu trời cuối đông sang xuân mỗi khi có gió lại xuất hiện đủ các cánh diều vùng vẫy với mây trắng. Nào diều Vằng, diều Cánh Cốc, tiếng sáo vi vút trời cao.
Cụ Ôn Hòa Tự phát tâm xin đúc một quả chuông lớn ghi chữ “Chung Hồng Hòa Tự”, nay vẫn còn đặt tại đình làng Mông Phụ.
Một buổi chiều ngày mùng 3/3 âm lịch, cụ mất. Dân làng tưởng nhớ công lao dạy dỗ con cháu mình vẫn đến thắp hương làm lễ và tổ chức hội truyền thống Phong cờ thần, khiêng quả chuông ra đánh ba hồi chín tiếng hành lễ cầu an. Xong tổ chức đấu vật thả diều trong một buổi chiều, từ 15h đến 17h.
Không biết khách khấn khứa thế nào mà tự nhiên một chiếc hòm bỗng hiện lên. Ông khách lễ tạ rồi bước tới bưng chiếc hòm lên đặt vào gánh thuốc của mình. Chứng kiến từ đầu đến cuối, ông cụ chỉ biết há mồn trợn mắt ngạc nhiên. Về đến nhà, ông khách Tàu lấy ra một đĩa bạc rời trong túi biếu ông cụ, rồi chào từ biệt, quẩy gánh ra đi. Từ đó chùa Ón mất thiêng!
Và sự chậm chân của chủ nhân kho báu
Một thời gian sau, lại có một người Tàu sang tìm của tại Chùa Ón nhưng biết rằng đã có người lấy mất. Ông cụ đó bí danh là Ôn Hòa Tự. Ông bèn bỏ tiền tu sửa chùa và xin các cụ trong làng được trông coi chùa Ón và tự trồng cấy lấy lương ăn.
Vì ngày đó cánh đồng này chỉ cấy lúa một vụ mùa nên gặt xong thì từ sau tháng 10 âm lịch đến tháng 3 âm lịch năm sau, cánh đồng bị bỏ hoang, tụ tập các cháu mục đồng đưa trâu bò đến ăn cỏ và nô đùa.
Ông cụ hàng ngày luộc khoai sắn mình đã trồng cấy cho các cháu ăn, và dạy các cháu các trò chơi đấu vật thả diều và luyện tập võ nghệ. Bầu trời cuối đông sang xuân mỗi khi có gió lại xuất hiện đủ các cánh diều vùng vẫy với mây trắng. Nào diều Vằng, diều Cánh Cốc, tiếng sáo vi vút trời cao.
Cụ Ôn Hòa Tự phát tâm xin đúc một quả chuông lớn ghi chữ “Chung Hồng Hòa Tự”, nay vẫn còn đặt tại đình làng Mông Phụ.
Một buổi chiều ngày mùng 3/3 âm lịch, cụ mất. Dân làng tưởng nhớ công lao dạy dỗ con cháu mình vẫn đến thắp hương làm lễ và tổ chức hội truyền thống Phong cờ thần, khiêng quả chuông ra đánh ba hồi chín tiếng hành lễ cầu an. Xong tổ chức đấu vật thả diều trong một buổi chiều, từ 15h đến 17h.
(Theo Đất Việt)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét