Dân chúng vui xuân thời Lê - Trịnh
Nhiều cuộc thi tài tổ chức vào dịp đầu năm để dân chúng vui chơi được nhà truyền giáo Ý G.F.de Marini ghi nhận vào thế kỷ 17.
Đàn bà cũng thi
Có nhiều cuộc thi tài khéo, khó đến nỗi mắt tinh cũng bị nhầm. Có kẻ thử sức khỏe đánh vật; có kẻ thách đi mau, chạy nhanh.
Đàn bà cũng có một cuộc thi riêng thích hợp với phận sự và công việc của họ hơn là thi vo gạo, nấu cơm khéo và nhanh; củi phải đi kiếm tại một chỗ cách nơi ấy một phần tư dặm, nước cũng phải đến gánh tại một cái giếng (nhất định) rồi quảy củi, nước về, nhóm bếp, đặt nồi, tra gạo; cơm chín, dỡ vào một cái đĩa đặt lên bàn để ban giám khảo đi nếm xem cơm bàn nào nấu vừa và chín khéo có giải thưởng. Giải thưởng không được quý trọng bằng vinh dự do đã thắng kẻ cùng dự thi.
Cũng có kẻ đấu thương, bắn súng, nạp thuốc không, có kẻ múa gươm, tre mộc. Nhưng còn một trò chơi rất vui thích vừa cần sức khỏe, vừa cần tài hay, ai thắng tất cả địch thủ được thưởng một tấm lụa, ấy là trò đánh đu...
Hôm mồng ba, các nhà sư cũng có dự vào đám rước riêng, rất rực rỡ và long trọng. Vị sư trưởng mặc áo màu đen bóng nhoáng; đầu đội mũ, ngồi trên một cái kiệu có phu mặc quần áo kiểu nhà chùa khiêng. Các sư đi theo liền sau ngài, bận áo cà sa tốt và đẹp; cổ đeo tràng hạt bằng thủy tinh nhiều màu lóng lánh. Trước hôm ấy, có một đạo binh rất nhiều quân lính đến đóng giữa một cánh đồng rộng, đóng đầy cho đến khi lễ xong. Khắp mọi phía có thiết lập nhiều hương án thờ các tướng sĩ đã vì nước bỏ mình và đã đem lại sự tự do cho xứ sở; để thờ cả hình ảnh những tướng giặc có tiếng tăm ngày xưa đã hùng cứ và thống trị các vùng trong xứ. Sáng ba mươi tết, người ta dẫn ra đẩy những súc vật đã nuôi béo và sẽ mổ để tế thần. Vị sư trưởng đi kiệu ra; các sư đi hàng đôi theo sau; rồi mới đến các quan cưỡi ngựa hoặc ngồi voi, bận triều phục rực rỡ. Quân lính kéo đến rất có thứ tự.
Khi mọi người đã đến đông đủ, thì có tin về báo đức vua. Đạo ngự ra đến nơi thì dân chúng hoan hô vang trời; các pháp sư và các quan liền bắt đầu khấn khứa ngay, vua lễ bốn lễ cúng vong linh các tướng quân và các tướng giặc anh dũng. Ngài cầm một cái cung và năm mũi tên bắn các nghịch vương nhà Mạc; xong rồi, họ đốt hương, trầm, dâng lễ cúng; khấn các bậc anh hùng đã quá cố che chở cho nước nhà được bình yên, làm cho tên nào có lòng bội phản, còn sống hoặc đã chết rồi, tiệt đi, không có cách bén mảng đến gần biên thùy nữa. Lễ xong thì bắn súng thần công và ba loạt súng trường. Xong rồi, quân lính tản mát ra khắp cánh đồng ngồi ăn uống tự nhiên không suy nghĩ. Họ ăn uống rất ngon lành, xong rồi ai về nhà nấy, nghỉ ngơi chờ cho rã rượu hoặc đánh bạc vui chơi hết cả buổi chiều. Thế là hết tết và ngày hôm sau các nha, ty lại mở cửa làm việc. Cuối năm trước, ấn tín các sở đã đem khóa cất một nơi; muốn các nha, ty lại mở cửa thì ấn tín phải giao trả viên quan coi giữ.
Tiếp rước sứ tàu
Khi đón tiếp sứ thần Trung Quốc, tất cả các quan đại thần, đoàn đi tùy giá, bên văn ban cũng như võ bị, ai nấy đeo dấu hiệu của bộ mình và có rất đông thuộc hạ mang chế phục riêng. Lại còn rất nhiều các quan khác nữa cả văn lẫn võ, mặc sắc phục rất đẹp, trong số này có nhiều ông chưa được bổ vào phụng sự đức vua nhưng cũng đến chầu chực để được chú ý hơn những kẻ đối địch của mình hòng tiến thân.
Trang phục của bọn tiểu đồng, nhất là của binh lính, bộ binh và kỵ binh hợp thành một cảnh sắc huy hoàng, rực rỡ. Mỗi một đội có một binh phục riêng, áo khác màu với đội khác. Binh khí mà mỗi người mang trong những dịp này là giáo trường, trường thương, tên, súng hỏa mai, yển nguyệt đao, đoản đao, thương hay siêu đao. Tất cả đều sáng nhoáng, có dát vàng, dát bạc, hay nạm ngà.
Thủy quân cũng không kém lộng lẫy. Vua đồng ý với chúa, đem một đoàn thuyền chiến đi đón sứ Trung Quốc và dàn thuyền ra thành thế trận trên sông để sứ Tàu giải trí. Sự tiếp rước này rất linh đình, xán lạn. Trong lúc tiếp kiến đầu tiên, vua và chúa mặc triều phục, đi hia, mũi nhọn vênh lên như mũi những chiếc thuyền nhỏ và đội một thứ mão trông rất kỳ khôi. Vua và chúa quỳ lễ bốn lễ và vái một vái dài bái nhận sắc thư của vua Tàu do sứ thần mang đến, giao cho. Đi đâu sứ thần cũng ở bên phải vua và đứng làm người đại diện của hoàng đế, được các đình thần bái mạng. Lễ tiếp nghênh xong rồi thì sứ thần được tiếp như người thường nhưng vì ông ta là người ngoại quốc vẫn được tôn trọng như một đường quan.
Một cuộc vui được diễn ra. Để nghênh tiếp sứ thần Trung Quốc, một cuộc sắp xếp các thuyền chiến thành hàng năm chiếc một, hàng nọ cách hàng kia đều nhau, thuyền sau nối thuyền trước thành nhiều dãy dài, được trang điểm rất đẹp đẽ. Hai bên bờ sông, trên suốt một quãng dài mấy dặm, có dựng nhiều cột trên cắm cờ màu sắc khác nhau gió luôn luôn làm phấp phới. Các đội bộ binh đóng khắp nơi chỗ này gióng trống, chỗ kia đánh thanh la, có chỗ thổi sáo thổi kèn để đáp lại. Lúc sứ thần sắp đến, quân lính hoan hô vang giời, bắn một loạt súng hỏa mai, thần công để chào. Sứ Tàu ở dưới thuyền xong lên bờ, bọn thuyền thủ bỏ mái chèo tay cầm súng và đợi cho thuyền chiến bắn súng thần công xong, cũng bắn một loạt súng hỏa mai để tỏ dấu vui mừng và hoan hỉ.
G.F.DE MARINI
Nguyễn Trọng Phấn (dịch)
Nguyễn Trọng Phấn (dịch)
Ký ức về xứ Đàng Ngoài
Xứ Đàng Ngoài từ lâu lắm không được các nước Âu châu biết đến; đôi khi có người viết sách du ký thì lại không biết rõ xứ này, hoặc trí nhớ không được tinh tường chắc chắn cho lắm.
Tập sách tôi đem xuất bản đây là nhờ em tôi. Chuyến thứ hai sang châu Á, tôi đem em tôi theo; từ Batavia tới Bantam (Indonesia - PV), nó có qua Đàng Ngoài mười một mười hai chuyến, giúp tôi khi ở Batavia và Bantam. Tôi còn được gặp nhiều người Đàng Ngoài sang buôn bán, họ có chỉ dẫn cho tôi nhiều điều về xứ họ. Đi với họ có nhiều nhà sư trông nom việc cúng lễ và nhiều văn nhân để dạy dỗ con cháu các ông lái tàu, vì các ông này đem gia đình theo. Các tăng nhân ấy đã vui lòng giúp tôi biết rõ xứ Đàng Ngoài. Trái lại tôi cũng nói cho họ hiểu nền chính trị nước Pháp ta thế nào, tôi bày cho họ xem tập địa đồ thế giới, nhiều địa đồ riêng từng vùng và chỉ cho họ hiểu mặt đất sắp đặt thế nào và có những nước nào. Họ hoan hỉ lắm.
Em tôi vốn dĩ là người táo bạo hay bon chen, lại thích du lịch như tôi; nên lúc ở Ấn Độ nghe người ta đồn ở xứ Đàng Ngoài có nhiều sản vật lạ, quyết định sang ngay. Nó lại có khiếu học các thứ tiếng rất mau, nó biết ngay tiếng Mã Lai là thứ tiếng được các nhà thông thái trong những vùng này dùng thông dụng như tiếng Latin bên Âu châu ta. Nó biết rõ rằng bên xứ ấy tơ lụa, xạ hương, nhiều hàng hóa bán rẻ hơn mọi nơi và trong việc buôn bán người ta còn trọng sự tín thực. Thăm hỏi xong nó sửa soạn một chiếc thuyền, nhờ chiếc thuyền này mà suốt lộ trình nó trải qua đều may mắn cả.
Bao giờ nó cũng mang theo trong người một số tiền khá lớn và bao giờ cũng có sẵn ít nhiều đồ vật nho nhỏ lạ mắt để làm quà cho vua và các vị đình thần (vì ở các xứ Đông phương, không nên đi tay không vào bệ kiến vua chúa hay ra mắt các đại thần). Nhờ vậy nó được tiếp đãi tử tế khi mới bước chân đến đất này; viên quan lên chào đầu tiên và được nó tặng một chiếc đồng hồ có quả nặng (L’horloge à poids), một đôi súng cầm tay và hai bức tranh mỹ nữ. Vị quan này lập tức lên báo tin nó đến cho đức vua. Ngài truyền lệnh cho vào triều kiến. Tại triều, nó làm cho mọi người ngạc nhiên sao lại có một người đi khỏi quê hương xa đến thế, mà lại nói tiếng Mã Lai giỏi như thế. Đức vua tiếp đón nó rất ân cần và vui lòng thu nhận những phẩm vật nó dâng tặng: một thanh gươm có chuôi, cán bằng vàng nạm ngọc hồng và ngọc bích, lưỡi rộng hai ngón tay, chỉ mài sắc một bên như kiếm, gươm bản xứ; một đôi súng có bịt bạc; một yên ngựa kiểu Ba Tư thêu chỉ vàng chỉ bạc có dây cương, một chiếc cung có tên và ống đựng, sáu bức tranh mỹ nữ cùng kiểu với những bức nó đã cho viên quan. Những phẩm vật này làm đẹp lòng đức vua lắm. Ngài rút gươm ra khỏi bao để ngắm nghía thật kỹ; một hoàng tử cũng cầm thử xem có vừa tay không rồi đứng vào thế sắp chém địch thủ một nhát. Hoàng tử đứng rất đẹp nhưng theo lối bên phương Đông, nên em tôi có xin phép đức vua chỉ cho hoàng tử hiểu cách đánh gươm ở bên Pháp, đức vua rất vui thích. Nếu độc giả cho phép tôi nói rõ về em tôi, thì tôi xin nói thêm rằng thân hình nó rất đẹp, rất cân đối và trong các phòng đấu kiếm nó không thua ai bao giờ. Hồi niên thiếu nó có theo học các trường dạy đấu kiếm và nó đã không phí thì giờ.
Đấy là lần đầu tiên nó được vào bệ kiến vua xứ Đàng Ngoài. Nó có qua lại xứ ấy nhiều bận và mỗi bận nó đều được biệt đãi thêm. Nó được lòng đức vua và các đình thần, nhất là vì nó thích đánh bạc với các ngài. Tính nó lại liều, có một lần nó thua hơn hai vạn écus. Nhưng đức vua vốn quảng đại, không muốn nó thiệt và có đền bù cho nó nhiều.
Nó đã ở lâu năm tại xứ Đàng Ngoài, được ra vào chốn triều trung, lại quen nghề buôn bán trong nước, cái gì nó cũng tò mò, nên tôi đã tra cứu tập ký ức của nó để viết cuốn du ký này. Nhưng tôi có thể nói rằng tôi cũng có dùng những điều tự tôi ghi chép, tôi đã tiếp chuyện nhiều người Đàng Ngoài sang buôn bán bên Batavia, Bantam và đã khoản đãi họ để biết thêm nhiều phong tục, nghi lễ của họ. Họ cũng ước ao tôi đem phong tục và nghi lễ nước ta nói cho họ nghe, họ thích lắm. Bên họ cũng như bên ta, muốn vào hàng quý phái phải có chiến công rực rỡ, phải có tài điều đình, ngoại giao hoặc đã làm được một việc gì to tát, ích quốc lợi dân, và học hành giỏi giang có thể giữ được những chức cao trong ngạch tư pháp, hành chính hay trong hội đồng cơ mật của vua.
J.B.Tavernier
Nguyễn Trọng Phấn (dịch)
Nguyễn Trọng Phấn (dịch)
Lễ nghi của người Bắc kỳ
Mọi việc đều được sắp đặt quy củ, từ việc họ tiếp nhau đến thái độ trước mặt vua. Không có ai được vào bái vua mà không mặc thứ lễ phục riêng gọi là áo chầu, mà đầu không đội mão, để tỏ lòng tôn kính.
Nghi lễ và trang phục khi vào chầu vua
Những người không có phẩm tước, đội một chiếc mão đen cao chừng nửa thước bẻ rơi ra đằng sau. Văn quan đội theo một lối khác và bằng một chất khác, một thứ mão làm bằng lông đuôi ngựa, cao nửa thước, hình lục lăng, có thêu và trên đỉnh dẹp, khác với các mũ nói trên nhọn. Chỉ có những tội nhân mới để đầu trần ra trước mặt vua. Nhưng chân thì lại khác vì nếu đi giầy vào chầu tức là mắc một trọng tội.
Khi vào yết kiến long nhan, không được đi giầy mang vớ, chỉ có vua và một vài bà hậu, bà phi được phép riêng của vua mới đi hài; các hoàng tử cũng phải theo luật ấy, trừ có hoàng thái tử là người sau này sẽ lên kế vị được đi giầy trong cung hay khi ngài vi hành đi thăm đồng ruộng nhưng khi vào chầu phụ hoàng ngài cũng phải bỏ giầy ra và đã có một tên quân hầu múc nước để ngài rửa chân cho sạch thêm. Người ta còn nghiêm cấm tất cả mọi người dù giời nóng bức đến thế nào, trước mặt vua cũng không được dùng quạt; quạt giấu trong tay áo, tay nọ luồn kín vào ống tay áo kia và chắp lên ngang ngực.
Triều phục và lối vào chầu vua ấy trông thật lạ lùng. Nhưng ta thấy dấu hiệu sự tùng phục và lòng tôn kính lúc họ mới đi mấy bước đầu rồi phủ phục khi họ vào đại điện là chỗ vua ban chầu: Trước nhất phải quỳ lễ bốn lễ, đầu gối trái xuống trước, gối phải xuống sau, đầu dập xuống đất. Bắt đầu từ cửa điện hay từ chỗ ta đứng: tính cho đúng để đến khi làm lễ thứ tư thì ta đến đúng dưới chân vua. Xong rồi ta đứng dậy và hai bàn tay chắp lại, ngón nọ vào ngón kia, giấu kín trong ống tay áo, ta giơ tay lên ngang đầu rồi cúi nhẹ mình, ta chúc vua vạn tuế.
Các quan đại thần tan chầu vội vàng rời cung điện và chạy rất mau về nhà. Không làm như thế là trái phép. Các người cưỡi ngựa, cưỡi voi, qua trước hoàng cung cũng phải xuống đi đất.
Lễ nghi hằng ngày
Đàn bà không phải theo những nghi tắc trên, nhưng khi gặp kẻ hàng trên phải chào, thì họ dừng lại và ngồi sụp xuống đất; xong rồi họ chắp hai tay lại và cúi mình lễ, chân chạm đất năm lần; có khi nói chuyện với nhau họ cũng ngồi như thế trên chiếu, vì ở Bắc kỳ không có ghế chỉ dùng chiếu giải trên đất.
Tại các nhà quan, có một chiếc sập cao chừng một thước trên giải chiếu, không có thảm, dùng để ngồi nói chuyện. Tiếp người ngang hàng thì họ mời cùng ngồi trên chiếc sập; tiếp thuộc hạ, họ cho ngồi xuống chiếu cặp đỏ thấp hơn bậc; còn như kẻ thường thường thì cho ngồi chiếu đơn; bọn cùng đinh thì phải ngồi sệp xuống chỗ đất không giải chiếu.
Khi đi chơi họ không bàn công chuyện làm ăn; chỉ khi ngồi hay lúc đứng hai tay không nhúc nhích họ mới bàn đến công việc thôi; các cố đạo cũng bắt chước cho nên lúc giảng kinh, mình không cử động, tay không đưa đẩy nhưng chắp vào tay áo đưa lên ngang ngực, chỉ có miệng lưỡi là mấp máy thôi. Họ ngạc nhiên khi thấy người Âu châu đi lại luôn và hỏi tôi duyên cớ ấy. Tôi giả nhời họ rằng chúng ta bắt chước mặt trời vận chuyển luôn luôn và nước biển luôn luôn chuyển động để được trong vì nếu đứng yên thì nước biển thối hỏng mất.
Các quan nhỏ đối với các quan to cũng phải cung kính như dân, duy chỉ phải quỳ lễ thôi và lễ xong lễ thứ ba thì họ chắp tay lên trên đầu; đứng trước mặt các quan trên, họ cũng không được phe phẩy quạt.
Để tỏ lòng tôn kính khi gặp vua hay các quan cao cấp, họ để tóc xõa trên hoặc lúc ấy tóc còn đang buộc bằng dây thường hay đang bện thì họ rũ vội ra, nếu không làm như thế thì vị quan kia sai cắt liền; điều ấy là một sự nhục lớn vì người Đàng Ngoài cho mớ tóc là tiêu biểu quý nhất của sự tự do của họ. Gặp kẻ ngang hàng, họ chào: Tôi vui mừng với ông; gặp người trên, họ đưa tay trái cho người kia hình như muốn tỏ ra rằng họ cũng săn sóc đến công việc của người này, còn tay phải họ để không để giúp dập và chống đỡ người trên đối lại với kẻ thù. Còn trong xóm nếu có ông quan to nào trùng tên với một người thì người này muốn tỏ lòng tôn trọng, theo luật nước đổi tên đi; nếu ông quan tên là Ba, thì họ kiêng không nói Ba nhưng nói Tam.
Nói tóm lại, đó là những lễ nghi, những dấu hiệu tôn kính của người Đàng Ngoài dùng lẫn với nhau và để họ tỏ cho những người họ tôn lên trên họ biết. Các vị cố lão được trọng đãi hết sức nên khi một người niên thiếu gặp bực cố lão thường nói: “Thưa cố, cháu xin giúp đỡ cố”.
G.F.De Marini
Nguyễn Trọng Phấn (dịch)
Nguyễn Trọng Phấn (dịch)
Phủ Võ vương qua mắt y sĩ phương Tây
Cổng thành Phú Xuân thời Nguyễn sơ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét