Thứ Hai, 6 tháng 5, 2019

Những nhân vật đầu tiên trong tiến trình chữ quốc ngữ

 Khởi đầu của chữ quốc ngữ


TTO - Nói đến chữ quốc ngữ thường cho rằng giáo sĩ Alexandre de Rhodes (thường gọi là Đắc Lộ), tác giả cuốn Từ điển Việt - Bồ - La in tại La Mã năm 1651, là ông tổ của chữ quốc ngữ. Thế nhưng, sự thật chưa hẳn vậy

Những nhân vật đầu tiên trong tiến trình chữ quốc ngữ - Kỳ 1: Khởi đầu của chữ quốc ngữ - Ảnh 1.
Tập di cảo của Francesco de Pina lưu giữ tại Thư viện Hoàng gia Bồ Đào Nha
Lâu nay, những người yêu tiếng Việt bình thường và một số tài liệu khi nói đến chữ quốc ngữ thường cho rằng giáo sĩ Alexandre de Rhodes (thường gọi là Đắc Lộ), tác giả cuốn Từ điển Việt - Bồ - La in tại La Mã năm 1651, là ông tổ của chữ quốc ngữ.
Thế nhưng, sự thật chưa hẳn là vậy…
Ngay từ khi bập bẹ, chúng ta đã nói tiếng Việt, và hoàn toàn không có gì khó khăn. Nhưng "tiếng Việt khó quá!" là ý kiến của rất nhiều người phương Tây khi tiếp cận tiếng Việt.
Khi đọc, người Việt không cần phải thay đổi tiếng mà vẫn làm cho một tiếng ấy có nhiều nghĩa khác nhau, bởi vì họ chỉ cần lên giọng hoặc hạ giọng tùy theo cường độ và nhịp điệu.
ĐỖ QUANG CHÍNH
Tiếng Việt khó quá!
Tiếng Việt cấu trúc đơn giản; đơn âm không có "thì", không có chia động từ, không có tiếp đầu ngữ, vĩ ngữ thì có gì là khó?
Xin thưa, đối với người phương Tây, tiếng Việt khó ở chỗ phát âm (nghe và nói).
Giáo sĩ Marini, người đã từng đến Đàng Trong những thập niên đầu thế kỷ 17, viết: "Khi đọc, người Việt không cần phải thay đổi tiếng mà vẫn làm cho một tiếng ấy có nhiều nghĩa khác nhau, bởi vì họ chỉ cần lên giọng hoặc hạ giọng tùy theo cường độ và nhịp điệu" (Lịch sử chữ quốc ngữ, Đỗ Quang Chính, NXB Tôn Giáo 2012, trang 15).
Đây là một nhận xét cực kỳ "mới" mà người Việt chúng ta không bao giờ để ý. Chỉ cần thay đổi chút xíu khẩu âm và không thay đổi khẩu hình thì các chữ "ca, cà, cá, cả" mang nghĩa khác nhau một trời một vực.
Nửa cuối thế kỷ 16, các giáo sĩ thừa sai Dòng Tên (Jésu) đã bắt đầu đến châu Á truyền đạo. Một trong những nơi họ đến ban đầu chính là Trung Quốc, nơi mà trước đó vài thế kỷ, Maco Polo, nhà buôn người Ý, đã đến và mang về nhiều đồ vật lạ lùng của phương Đông.
Dòng Tên là một dòng tu trí thức của đạo Thiên Chúa. Tất cả những giáo sĩ của dòng này đều có trình độ tiến sĩ, nếu ai không đạt được bằng cấp ấy thì buộc phải rời dòng.
Những giáo sĩ này xuất thân từ những nước sử dụng chữ viết Latin nên khi đến những nước sử dụng chữ tượng hình đã gặp khó khăn trong việc truyền đạo. Do là những trí thức có trình độ cao, họ nhanh chóng học nói tiếng của người bản địa.
Song việc truyền đạo không chỉ nói là đủ, mà cần phải có kinh sách để các con chiên có thể học, đọc theo và truyền lại. Bởi không có giáo sĩ, thầy giảng nào có thể thay thế kinh sách. Mà chữ tượng hình thì rất khó học, và mất rất nhiều thời gian để học mới có thể đọc sách được, chứ chưa nói đến việc dịch lại kinh sách nước ngoài.
Mặt khác, việc truyền đạo Thiên Chúa vào các nước này (trong đó có nước ta) vào thời điểm ấy không phải lúc nào cũng suôn sẻ, dễ dàng, liên tục, do tùy thuộc vào sự vui buồn của quan quân địa phương, tùy thuộc vào tình hình chính sự yên ả hay loạn lạc của quốc gia mà các giáo sĩ Dòng Tên đặt chân đến.
Nhiều giáo sĩ sau một thời gian ngắn truyền đạo đã bị bắt, bị giết, bị đuổi đi...
Để có thể truyền lại kinh sách một cách tốt hơn, các giáo sĩ đã nghĩ ra phương pháp "Latin hóa chữ tượng hình". Và họ đã làm việc này ở Ấn Độ, Trung Quốc và Nhựt Bổn.
Những nhân vật đầu tiên trong tiến trình chữ quốc ngữ - Kỳ 1: Khởi đầu của chữ quốc ngữ - Ảnh 3.
Chữ quốc ngữ từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19
Latin hóa tiếng Việt
Đầu thế kỷ 17, một số giáo sĩ thuộc Dòng Tên đã đến Hội An. Họ dùng tiếng Hán và Nhựt để giao tiếp với dân địa phương qua phiên dịch của các thương nhân.
Đến năm 1617, giáo sĩ Francesco de Pina người Bồ Đào Nha đến Hội An và Nước Mặn (thuộc Bình Định), rồi trở về cư ngụ tại Thanh Chiêm (Điện Bàn, Quảng Nam) đã học rất nhanh tiếng Việt và trở thành người phương Tây giỏi tiếng Việt nhất thời bấy giờ.
Và để có thể truyền lại kinh sách giáo lý của đạo Thiên Chúa, Pina cùng một số giáo sĩ khác đã có kinh nghiệm Latin hóa tiếng Nhựt, Hán bắt tay vào Latin hóa tiếng Việt.
Thuở ấy, người Việt vẫn nói tiếng Việt như bây giờ. Song do phải trải qua 1.000 năm bị Trung Quốc đô hộ, giới trí thức nước ta bị ảnh hưởng của Trung Hoa rất mạnh. Không rõ trước đó, người Việt có chữ riêng của mình hay không. Song các triều đại của người Việt sau này đều dùng chữ Hán trong các văn bản chính thức.
Khoảng thế kỷ thứ 10, người Việt đã "sáng chế" ra thứ chữ Việt bằng cách mượn chữ Hán mà viết, gọi là chữ Nôm (nghĩa là Nam, sau gọi là quốc âm). Song nếu chữ Hán khó một thì chữ Nôm khó mười. Bởi phải biết và giỏi chữ Hán mới có thể viết được, học được chữ Nôm.
Đối với người Việt học chữ Nôm đã khó, với người ngoại quốc xa lạ với chữ tượng hình thì chữ Nôm càng khó. Vẫn có thể học được, viết được nhưng không thể phổ biến rộng được. Chính vì vậy các giáo sĩ đã nghĩ đến việc Latin hóa tiếng Việt bằng mẫu tự Latin, mà ngày xưa gọi là "chữ Annam viết bằng mẫu tự Latin".
Có một số người được công nhận là "tác giả" chữ quốc ngữ là các giáo sĩ Francesco de Pina, Gaspar d’Amaral và Antonio Barbosa (đều là người Bồ Đào Nha), Cristoforo Borri (người Ý), Alexandre de Rhodes (người Pháp)...
Giáo sĩ Borri chỉ ở nước ta ba năm từ 1615 đến 1618. Còn ba giáo sĩ còn lại đều đến Đàng Trong năm 1624 và đều là học trò tiếng Việt của giáo sĩ Francesco de Pina.
Tuy nhiên, trong số này, chỉ có giáo sĩ Đắc Lộ cho in cuốn sách tiếng Việt đầu tiên là cuốn Từ điển Việt - Bồ - La nên được dân Việt cho là "ông tổ" của chữ quốc ngữ từ hơn trăm năm qua.
Những nhân vật đầu tiên trong tiến trình chữ quốc ngữ - Kỳ 1: Khởi đầu của chữ quốc ngữ - Ảnh 4.
Văn bản chữ quốc ngữ năm 1659 của tu sĩ người Việt Bento Thiện của dòng tu Kẻ Giảng - Ảnh tư liệu
Tại sao là Việt - Bồ - La?
Từ giữa thế kỷ 19, sau khi chiếm Nam kỳ rồi cả nước Việt, người Pháp vừa muốn đẩy mạnh việc phổ biến chữ quốc ngữ vừa muốn tôn vinh văn hóa và nhân vật nước Pháp nên đã không ngần ngại tuyên truyền rằng: Chỉ có mỗi giáo sĩ Đắc Lộ là có công với chữ quốc ngữ với bằng chứng rõ ràng ông là người đầu tiên đứng tên trong cuốn sách chữ Việt - Từ điển Việt - Bồ - La.
Nhưng tại sao cuốn từ điển này hoàn toàn không đề cập gì đến tiếng Pháp trong khi Đắc Lộ là người Pháp?

Chữ quốc ngữ ra đời lúc nào?

TTO - Căn cứ vào những tài liệu viết từ năm 1621 còn lưu giữ, chữ quốc ngữ, tức chữ An Nam viết bằng mẫu tự Latin, có thể được sáng tạo năm 1620 hoặc trước đó một chút.

Những nhân vật đầu tiên trong tiến trình chữ quốc ngữ - Kỳ 2:
Chữ quốc ngữ ra đời lúc nào? - Ảnh 1.
Ngôi mộ của giáo sĩ Pina ở sau nhà thờ Phước Kiều trên thế giới. hiện nay - Ảnh: T.L.
Đắc Lộ đã thừa hưởng những di sản được người khác sáng tạo ra để góp phần hoàn thành cuốn tự điển có tiếng Việt đầu tiên trên thế giới
400 năm sau, người Việt, những người thụ hưởng và tự hào thứ chữ này, lại biết rất lơ mơ về lịch sử của nó. Họ không biết chắc ai là người sáng tạo ra chữ Việt, Francesco de Pina hay Alexandre de Rhodes?
Ở đâu, Thanh Chiêm hay Nước Mặn? Lưu giữ thế nào? Phổ biến ra sao? Phát triển thế nào? Lúc nào được sử dụng phổ thông?
Công sức của người Bồ
Trong hai thế kỷ từ 15 đến 17, các thương buôn Bồ Đào Nha có mặt hầu như khắp thế giới. Theo chân họ là những nhà truyền giáo, phần lớn là người Bồ và người Ý, tháp tùng truyền đạo ở những vùng đất mới.
Theo thống kê của linh mục Đỗ Quang Chính thì trong số 145 giáo sĩ thuộc 17 quốc tịch đến Đàng Trong truyền giáo từ năm 1615-1788, có đến 74 người Bồ Đào Nha, 30 người Ý.
Dòng Tên (Jesu) của đạo Thiên Chúa là dòng tu đi truyền đạo thời kỳ ấy. Theo luật của dòng, mỗi khi đến vùng đất mới phải học tiếng địa phương, và với tài năng riêng từng người, họ đã Latin hóa tiếng nói và chữ viết địa phương để những người theo đạo có thể đọc được những kinh sách của đạo.
Thứ chữ Latin này được truyền lại cho các giáo sĩ đến sau. Đây là phương thức mà họ đã thực hiện ở nhiều nơi như Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Brasil... trong các thế kỷ 15, 16 trước khi đến Việt Nam. Riêng ở Viễn Đông, dòng tu này thiết lập một trụ sở lớn và lâu dài ở Macau để làm nơi đi và đến cho các giáo sĩ.
Đầu thế kỷ 17, năm 1615, các giáo sĩ Dòng Tên đã đến Đàng Trong và lần lần họ học tiếng Việt. Sau đó, các giáo sĩ này đã bắt tay vào việc Latin hóa chữ Việt.
Tài liệu viết tay của giáo sĩ João Roiz (người Bồ) viết năm 1621 đã có các chữ quốc ngữ ban đầu như An Nam (Việt Nam tức Đàng Trong. Thời điểm này nước ta chưa có vùng đất Nam Bộ), Sinoa (xứ Hóa tức Thuận Hóa), unsai (ông sãi), Cacham (Kẻ Chàm, sau này là Thanh Chiêm), ungue (ông nghè)...
Còn những chữ Việt trong bản tường trình của Gapar Louis (người Bồ) viết năm 1621 cũng đã có chữ ungué (ông nghè), bancô (bàn cổ). Còn Cristoforo Borri (người Ý), tác giả cuốn Xứ Đàng Trong, đến Đàng Trong cùng với Francesco de Pina thành lập trú sở Nước Mặn (Bình Định) năm 1618, trong tác phẩm viết năm 1621 đã có những chữ: Tunchim (Đông Kinh, tức Hà Nội), Lai (Lào), Ainam (Hải Nam), kemoi (kẻ mọi, xứ mọi, Tây Nguyên), Quanguya (Quảng Nghĩa), Quignin (Qui Nhơn), dàdèn lùt (đã đến lúc), nayre (nài), doij (đói), chià (trà), sayc kim (sách kinh), cò (có). Cũng năm 1621, giáo sĩ Bozumi viết các chữ: onsaij (ông sãi), Quanghia (Quảng Nghĩa), Nuoecman (Nước Mặn), da an nua (dạ ăn nữa)...
Như vậy, tới năm 1621, việc Latin hóa tiếng Việt vẫn chưa có dấu thanh. Tài liệu viết tay của giáo sĩ Antonio de Fontes, một học trò của Francesco de Pina, viết năm 1626 đã thấy xuất hiện dấu thanh. Dĩgcham (Dinh Chàm), Núocman (Nước Mặn), Sinúa (xứ Hóa), ondedóc (ông đề đốc), nhít la khấu, khấu la nhít (nhứt là không, không là nhứt).
Và di cảo của Pina vừa tìm thấy ở Thư viện Hoàng gia Bồ Đào Nha giữa năm 2018 thì chữ quốc ngữ đã có dấu như ngày nay. Tài liệu này trưng bày trong Hội thảo về chữ quốc ngữ diễn ra tại Lisbon vào tháng 7-2018.
Chữ quốc ngữ ra đời lúc nào? - Ảnh 3.
Di cảo của Pina, chữ quốc ngữ những năm 1623 - Ảnh: T.L.
Công trình tập thể
Như vậy, có thể khẳng định rằng chữ quốc ngữ ra đời có một quá trình dài từ năm 1618 cho đến 1625 với sự hợp tác của nhiều người chứ không chỉ một người. Và đa số "tác giả" của chữ quốc ngữ đều là người Bồ Đào Nha, người Ý cùng với một số người Việt theo đạo Thiên Chúa góp sức.
Và người được xác định "giỏi tiếng Việt nhứt" và có công lớn nhứt trong việc sáng tạo ra chữ quốc ngữ chính là giáo sĩ Francesco de Pina người Bồ Đào Nha.
Francesco de Pina đến Hội An đầu năm 1617, thành lập trú sở Nước Mặn năm 1618, rồi thành lập trú sở Thanh Chiêm (tức Kẻ Chàm, Dinh Chàm) năm 1623. Từ năm 1619, Pina đến cư trú tại Thanh Chiêm và cuối năm 1625 ông chết đuối trên biển Cù Lao Chàm do vướng áo chùng không bơi được khi thuyền lật.
Thi thể ông được chôn ở sau nhà thờ Phước Kiều (nay là nhà thờ Thánh Andre), thuộc thôn Thanh Chiêm 1, xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Đây là nhà thờ do chính ông thành lập khi đến cư trú tại Thanh Chiêm và là nơi trú ngụ của nhiều giáo sĩ khác, trong đó có Đắc Lộ.
Sau khi ông mất, một học trò tiếng Việt của ông là giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) đến Đàng Trong năm 1624, đã ôm tất cả những di cảo của thầy mang về Macau vào năm 1626. Tại Macau thuở ấy còn có hai giáo sĩ cũng chăm chú nghiên cứu chữ quốc ngữ và đã soạn thảo hai cuốn tự điển Việt-Bồ-La và Bồ-Việt.
Đó là hai giáo sĩ Gaspar d’Amaral và Antonio Barbosa cư trú ở Macau gần 10 năm. Đáng tiếc là công trình của họ chưa kịp công bố thì tháng 2-1646 Gaspar mất trên đường biển đi đến nước ta và sau đó một năm thì Barbosa cũng mất vì bệnh.
Trong lời nói đầu cuốn Tự điển Việt - Bồ - La của mình, Đắc Lộ có nhắc đến việc "tham khảo" tài liệu của hai giáo sĩ trên, cho thấy Đắc Lộ đã thừa hưởng những di sản được người khác sáng tạo ra để góp phần hoàn thành cuốn tự điển có tiếng Việt đầu tiên trên thế giới.
Điều đáng tiếc là hiện nay vẫn chưa tìm thấy hai cuốn tự điển của Gaspar và Barbosa đã viết. Rất mong số phận của nó giống như cuốn tự điển của Bá Đa Lộc, tưởng đã cháy mất trong một trận hỏa hoạn ở Cà Mau nhưng lại được tìm thấy vào thập niên 1980.
Sau người Bồ là người Pháp
Sau Đắc Lộ, chữ quốc ngữ được phổ biến rộng trong giới theo đạo Thiên Chúa, nhất là các tu sĩ, linh mục... Nó cũng được hoàn thiện dần qua một quá trình rất dài hàng trăm năm và lần lần hoàn chỉnh.
Qua thế kỷ 18, do vấn đề nội bộ, địa bàn truyền giáo của người Bồ được giao lại cho Hội thừa sai người Pháp, và chữ quốc ngữ tiếp tục được các giáo sĩ người Pháp lưu giữ và truyền lại. Trong số những người có công với chữ quốc ngữ được ghi nhận là giáo sĩ Bá Đa Lộc và Taberd, hai người đã thâu góp, chỉnh đốn, ghi nhận chữ quốc ngữ trong hai cuốn tự điển mang tên mình.
Cuốn tự điển Taberd đã được Nhà xuất bản Văn Học in lại năm 2004 với tên Nam Việt dương hiệp tự vị. Riêng cuốn của Bá Đa Lộc đến nay ít nghe nhắc đến dù đã công bố và tặng bản scan cho nước ta từ năm 1984.

Trương Minh Ký - Nhà văn viết chữ quốc ngữ đầu tiên

TTO - Trương Minh Ký (1855-1900), bút danh Mai Nham, hiệu là Thế Tải, là người học trò nổi bật của Trương Vĩnh Ký.

Trương Minh Ký - Nhà văn viết chữ quốc ngữ đầu tiên - Ảnh 1.
Báo Nam Kỳ do Trương Minh Ký làm chủ bút
Trương Minh Ký luôn bị cái bóng của thầy che mờ nên đời sau rất ít người biết về ông một cách đầy đủ.
Một người thông tuệ
Ông sinh năm 1855 tại Hanh Thông Xã (Gò Vấp) trong một gia đình buôn bán. Bảy tuổi, năm 1862, cũng là năm Nam Kỳ mất vào tay quân Pháp, ông mất mẹ. Cũng vì vậy mà ông được cha chăm sóc tốt, cho ăn học đàng hoàng.
Ông bắt đầu học chữ nho với cha và bà nội và học chữ quốc ngữ với giáo sĩ Puginier Phước, người thành lập giáo xứ Hạnh Thông Tây cách nhà ông chừng hai cây số.
Là người cực kỳ thông tuệ nên Puginier Phước trước khi ra Bắc nhận nhiệm sở mới đã giới thiệu ông vào Trường Thông ngôn (Trường Khải Tường) ngay khi thành lập (tháng 5-1862). Và tại đó ông đã gặp thầy Trương Vĩnh Ký.
Năm 1872, ông ra trường và trở thành thầy giáo dạy chữ nho và chữ quốc ngữ ngay nơi mình đã học. Nối nghiệp thầy Trương Vĩnh Ký, ông trở thành một thầy giáo nổi tiếng và hai năm sau, năm 1874, ông được thăng hạng: "Trương Minh Ký, nguyên làm thầy giáo dạy giúp hạng ba lên hạng nhì, lương đồng niên ăn 1.400 quan tiền" (Gia Định Báo số 3 ngày 1-2-1874).
"Dạy giúp" là một thứ bậc trong nghề giáo thời ấy.
Trương Minh Ký - Nhà văn viết chữ quốc ngữ đầu tiên - Ảnh 2.
Hai truyện văn xuôi đầu tiên đăng ngày 1-12-1881 trên Gia Định Báo của Trương Minh Ký
Năm 1880, Thống đốc Nam Kỳ dân sự đầu tiên Le Myre de Vilers đã cử ông dẫn một đoàn học sinh gồm 11 em sang Alger du học bậc cao đẳng. Trong số 11 em này có một "em" sau này khá nổi tiếng trong giới thầy giáo lẫn báo chí là Diệp Văn Cương.
Diệp Văn Cương (1862-1929), đồng môn của Nguyễn Trọng Quản - tác giả cuốn truyện Thầy Lazaro Phiền in năm 1887, sau khi tốt nghiệp trở về làm giáo sư Trường Chasseloup Laubat (nay là Lê Quý Đôn) và từng là chánh tổng tài cuối cùng (1909-1910) của tờ Gia Định Báo.
Trong chuyến đi này ông Trương Minh Ký đã đi thăm Paris, khi trở về ông viết một du ký dài 2.000 câu bằng văn vần "Như Tây nhựt trình" (Nhựt ký đi Tây) in tại Sài Gòn năm 1889.
Sau chuyến đi, trở về ông được bầu làm ủy viên Hội đồng thành phố Sài Gòn và chuyển sang làm chủ bút tờ Gia Định Báo từ giữa năm 1881 đến năm 1896.
Từ năm 1897, ông làm chủ bút tờ báo tư nhân Nam Kỳ (còn gọi là Nam Kỳ nhựt trình) cho đến giữa năm 1900, báo đóng cửa. Tháng 8-1900, ông mất đột ngột ở tuổi 45. Trong năm 1889, ông được thống đốc Nam Kỳ cử làm phiên dịch cho phái đoàn Hoàng gia nhà Nguyễn do hoàng thân Miên Triện dẫn đầu đi dự hội chợ quốc tế tại Paris.
Trong chuyến đi, tại Paris, ông được hoàng thân Miên Triện ban cho cái tên "Thế Tải". Sau chuyến đi này về, ông xuất bản cuốn du ký Chư quấc thại hội dài 2.000 câu thơ song thất lục bát.
Nếu 16 năm làm chủ bút Gia Định Báo ông đã gieo mầm cho văn học Việt, thì chỉ ba năm sau cùng (1897-1900) làm chủ bút tờ Nam Kỳ, ông thể hiện rõ tài năng trong nghề báo.
Quá trình làm báo viết văn
Được đánh giá là người có kiến văn sâu rộng cả ba ngôn ngữ Việt, Pháp, Hán; ông làm thầy giáo dạy chữ quốc ngữ và chữ nho trong 8 năm.
Sau khi chuyển sang làm báo ông viết nhiều sách giáo khoa như Ấu học khải mông, Tập dạy học tiếng Phansa và tiếng Annam, Hiếu kinh diễn nghĩa, Pháp học tân lương, Quấc ngữ sơ giai, Tiểu học gia ngôn... và sáng tác, dịch thuật thơ truyện.
Cuốn sách 100 bài học tiếng Pháp (Pháp học tân lương) gồm bài giảng về từ ngữ, văn phạm tiếng Pháp và tiếng Việt mà ngày nay cũng có thể dùng được cho người muốn học tiếng Pháp.
Thời ông làm chủ bút tờ Gia Định Báo, tờ báo này chính thức trở thành công báo, hầu hết các trang báo đều đăng ròng các văn bản, nghị định... của chính quyền. Qua nghiên cứu chúng tôi thấy rằng Gia Định Báo thời Trương Minh Ký có hai thay đổi căn bản và rất có lợi cho việc tìm hiểu xã hội cuối thế kỷ 19.
Đó là phần Công vụ báo có đăng nguyên văn biên bản các buổi họp của Hội đồng quản hạt Nam Kỳ (do vậy mà có khi báo tăng lên đến 20 trang). Đây là việc vô tiền khoáng hậu, bởi xưa nay các nhà chính trị không bao giờ muốn đưa những chuyện họ bàn bạc lên báo. Những phát biểu trong các buổi họp rất có thể ảnh hưởng đến hình ảnh của họ và đôi khi để lại những di chứng không lành!
Trương Minh Ký - Nhà văn viết chữ quốc ngữ đầu tiên - Ảnh 4.
Trương Minh Ký (người cầm gậy) chụp cùng phái đoàn Hoàng gia Huế dự Hội chợ quốc tế Paris 1889
Và ở phần Thứ vụ, Tạp vụ có dành một phần nhỏ cho những sáng tác văn học. Và đây là trang văn học đầu tiên trên báo chí quốc ngữ nước ta. Hai truyện ngắn văn xuôi Tên chăn bò và Thằng ăn trộm với con heo, viết lại theo nội dung thơ La Fontaine của Trương Minh Ký in trên số ra ngày 1-12-1881 là những truyện đầu tiên của nền văn học nước ta.
Với tiền lệ Truyện Kiều viết lại theo nội dung Kim Vân Kiều truyện bằng văn xuôi của Thanh Tâm Tài Nhân, thì hai truyện văn xuôi của Trương Minh Ký phải được coi là truyện sáng tác đầu tiên. Hai truyện này sau đó, năm 1884, được in chung với 128 truyện khác trong tập Truyện Phansa diễn ra quốc ngữ của Trương Minh Ký.
Song ông cũng là một nhà báo tài năng. Nếu 16 năm làm chủ bút Gia Định Báo ông đã gieo mầm cho văn học Việt, thì chỉ ba năm sau cùng (1897-1900) làm chủ bút tờ Nam Kỳ, ông thể hiện rõ tài năng trong nghề báo.
Nam Kỳ là tờ báo tư nhân, do ông A. Schreiner, một doanh nhân, làm chủ. Tờ báo tuy chỉ sống có ba năm nhưng lại là một tờ báo "đúng nghĩa" so với các báo khác trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.
Mặt báo phong phú tin tức từ ngoài nước cho đến trong nước. Báo đã có mục giao lưu với bạn đọc xa gần và mức quảng cáo khá mạnh (8 trang trong số 16 trang). Đọc báo Nam Kỳ chúng ta có thể thấy được một phần nào đó xã hội thế kỷ 19, đặc biệt là xã hội Sài Gòn. 
Báo này có rất nhiều sáng tác thơ văn và truyện dịch. Năm 1895, truyện Một ngàn lẻ một đêm được chuyển ra tiếng Pháp thì năm 1897 đã có bản dịch tiếng Việt trên Nam Kỳ. Để làm được tất cả những điều này, chủ bút Trương Minh Ký với bút danh Mai Nham đã phải mất rất nhiều công sức viết, dịch và lựa chọn các tin bài đưa lên mặt báo...
Vì sao?
Là nhà văn, nhà báo quốc ngữ lớp đầu tiên song Trương Minh Ký suốt 100 năm qua vẫn chưa được biết đến trọn vẹn. Với quá trình đóng góp cho chữ quốc ngữ và hoạt động báo chí văn chương, không hiểu vì sao ông bị xóa tên khỏi bản đồ đường phố Sài Gòn sau ngày 30-4-1975? Phải chăng vì ông là cháu họ của Trương Minh Giảng? Phải chăng vì ông luôn bị lầm lẫn với ông Trương Vĩnh Ký? Phải chăng vì ông cộng tác với Pháp?...

Người đầu tiên in sách quốc ngữ

TTO - Gần một thế kỷ chiếm đóng Việt Nam, người Pháp đã dành nhiều sức để tuyên truyền 'Giáo sĩ Đắc Lộ, tác giả của cuốn Tự vị Việt - Bồ - La (Annam-Lusitan-Latinh) là người đầu tiên sáng tạo chữ Việt'.

Những nhân vật đầu tiên trong tiến trình chữ quốc ngữ - Kỳ 4: Người đầu tiên in sách quốc ngữ - Ảnh 1.
Giáo sĩ Đắc Lộ, người in Tự điển Việt-Bồ-La
Tượng ông được dựng ở Hà Nội, tên ông được đặt ở đường phố trung tâm của thành phố Sài Gòn. Song đó chỉ là một nửa sự thật. Lý do đơn giản vì ông là người Pháp.
Giúp các nhà truyền giáo học tiếng Việt” và “làm theo ý muốn của một số vị Hồng y ở La Mã là thêm chữ Latin vào để người Việt có thể học thêm La ngữ.
(Lời nói đầu của giáo sĩ Đắc Lộ trong Tự điển Việt - Bồ - La)

Một cuộc đời
Giáo sĩ Đắc Lộ sinh tại Avignon (vùng đất thuộc tòa thánh La Mã đến năm 1791 mới sát nhập vào nước Pháp) ngày 15-3-1593 trong một gia đình Do Thái, quốc tịch Tòa thánh La Mã, trong một gia đình quý phái.
Ông gia nhập Dòng Tên ngày 14-4-1612, thụ phong linh mục tại La Mã năm 1618. Cùng năm đó, ông được chấp thuận cho đi truyền giáo tại Đông Á sau ba lần xin. Ông tới thủ đô Bồ Đào Nha đáp tàu đi Đông Á và ngừng lại ở Goa (Ấn Độ) khá lâu, đến ngày 29-5-1623 mới tới Macau. Dù muốn đi Nhật song bề trên muốn ông truyền giáo ở Đàng Trong.
Ông tới Đàng Trong lần thứ nhất tháng 12-1624, tới tháng 7-1626 ông trở về Macau. Tháng 3-1627 ông tới Đàng Ngoài và tháng 5-1630 ông bị chúa Trịnh Tráng trục xuất. Từ năm 1630-1640 ông dạy thần học ở Học viện Madre de Dues.
Từ năm 1640-1645 ông lại truyền giáo ở Đàng Trong. Tháng 7-1645 ông rời Đàng Trong về Macau rồi đi châu Âu. Năm 1654 ông đi Ba Tư rồi qua đời ở Ispahan ngày 5-11-1660.
Khi tới Đàng Trong, ông đã đến Thanh Chiêm và học tiếng Việt. Và thầy dạy tiếng Việt cho Đắc Lộ chính là Francesco de Pina. Đắc Lộ được bố trí ở chung nhà với Pina.
Trong lời đề tựa cuốn Tự điển Việt - Bồ - La, Đắc Lộ cho biết "ông học tiếng Việt chăm chỉ như khi theo học khoa thần học ở La Mã. Nhờ đó sau bốn tháng ông được giải tội và thêm sáu tháng nữa là ông có thể giảng bằng tiếng Việt".
Ông còn học tiếng Việt với một em nhỏ người Việt 13 tuổi. Nhờ vậy mà trong ba tuần ông đã biết phân biệt các "thanh" tiếng Việt và cách phát âm mỗi tiếng. Em nhỏ này sau đó được Đắc Lộ làm phép rửa tội (nghi thức nhập đạo Thiên Chúa) và đặt tên là Raphael Rhodes, sau đó trở thành "kẻ giảng" (tu sĩ cấp 2 trong dòng tu).
Ông này tham gia truyền giáo ở Lào, Đàng Ngoài nhưng sau đó không tu nữa, lấy vợ và trở thành một thương gia giàu có ở Đàng Ngoài và Phố Hiến.
Cũng nên biết rằng Đắc Lộ là một giáo sĩ có năng khiếu về ngôn ngữ, biết khá nhiều thứ tiếng. Ông có thể viết và nói các tiếng Pháp, Ý, Latin, Bồ, Việt và sử dụng sơ sơ tiếng Nhật, Trung Hoa, Ba Tư và Kokani.
Những nhân vật đầu tiên trong tiến trình chữ quốc ngữ - Kỳ 4: Người đầu tiên in sách quốc ngữ - Ảnh 3.
Bìa và trang trong của Từ điển Việt-Bồ-La của giáo sĩ Đắc Lộ
Tiếp thu kiến thức từ người đi trước
Trong những lần trở lại Đàng Trong và Đàng Ngoài, ông thu thập thêm những kiến thức về tiếng Việt và phương thức Latin hóa tiếng Việt, đặc biệt là dấu thanh, đồng thời so sánh với những chữ đã được Pina cùng các giáo sĩ khác Latin hóa như Barbosa, Gaspar...
Một trong những người giúp sức tích cực cho Đắc Lộ được ghi nhận là thầy giảng Y Nhã (người Việt), một người thông thạo văn chương, triết học, từng làm quan trước khi gia nhập hàng thầy giảng.
Để hiểu trình độ chữ quốc ngữ của Đắc Lộ, chúng ta hãy đọc bản thảo viết tay bằng tiếng Bồ cuốn "Tình hình truyền giáo ở Đàng Ngoài từ năm 1636-1646" của Đắc Lộ được lưu trữ tại văn khố Dòng Tên ở La Mã.
Dù viết bằng chữ Bồ nhưng bản thảo có rất nhiều chữ quốc ngữ như Ainam (Hải Nam), Che ce (Kẻ Chợ), chúa õu (chúa Ông), Uuan (vương), bat minh (bất minh), thuam (thuận), gna ti (nhà ti), cai huyen (cai huyện), bua (vua), den (đền), ten si (tiến sĩ)...
Trong khi đó, từ năm 1626, giáo sĩ Gaspar đã viết Bến Đá (xã Bến Đá), bude (bồ đề), ondedóc (ông đề đốc), onghe (ông nghè), nhít la khấu, khấu la nhít (nhứt là không, không là nhứt)... Hoặc giáo sĩ Francesco Buzumi viết năm 1626: xán tí (thượng đế), thien chu (thiên chủ, thiên chúa), ngoac huan (ngọc hoàng)...
Những so sánh này để cho thấy các giáo sĩ khác trong việc Latin hóa tiếng Việt đã đi trước Đắc Lộ chừng 10 năm, và Pina chắc chắn phải đi xa hơn dù ông mất sớm.
Để có được cuốn Tự điển Việt - Bồ - La in năm 1651 tại La Mã, ngoài việc nỗ lực tuyệt vời trong học hành và nghiên cứu, Đắc Lộ còn phải dựa vào tài liệu những người đi trước. Hai tài liệu được khẳng định từ lâu là hai cuốn tự điển Việt - Bồ và Bồ - Việt của hai giáo sĩ Gaspar d’Amaral và Antonio Barbosa (viết xong nhưng chưa kịp công bố thì đã qua đời).
Những tài liệu này được lưu giữ tại nhà thờ Saint Pauli (Macau). Có thể Đắc Lộ cũng đã sử dụng cả những di cảo của thầy ông là giáo sĩ Pina. Các phát hiện gần đây cho thấy trong di cảo của Pina chữ quốc ngữ viết bằng mẫu tự Latin đã có những dấu âm và khá gần với chữ quốc ngữ hiện nay.
Cũng cần nên biết tại sao tự điển của Đắc Lộ lại chỉ là Việt - Bồ - La mà không có thứ tiếng khác. Trong hai thế kỷ từ 15 đến 17, vai trò thương mại của Bồ Đào Nha bao trùm cả khu vực châu Á và theo đó là các giáo sĩ phương Tây sử dụng tiếng Bồ.
Trong lời nói đầu, Đắc Lộ đã nói rõ mục đích của cuốn tự điển là "giúp các nhà truyền giáo học tiếng Việt" và "làm theo ý muốn của một số vị Hồng y ở La Mã là thêm chữ Latin vào để người Việt có thể học thêm La ngữ".
Cuốn sách đầu tiên về chữ quốc ngữ của Đắc Lộ gồm có hai phần. Phần một mang tên "Báo cáo vắn tắt về tiếng Annam hay Đông Kinh", phân tích văn phạm tiếng Việt. Phần còn lại chính là quyển tự điển.
Ngoài ra, ông còn viết một cuốn sách bằng hai thứ tiếng Việt-Latin tên là Phép giảng tám ngày. Đây là cuốn giáo lý dành cho các thầy giảng đạo Thiên Chúa. Bản in lần đầu tiên hiện còn được bảo quản ở nhà thờ Mằng Lăng (Phú Yên).
Những nhân vật đầu tiên trong tiến trình chữ quốc ngữ - Kỳ 4: Người đầu tiên in sách quốc ngữ - Ảnh 4.
Một trang sách Phép giảng tám ngày viết bằng hai thứ tiếng Việt-La Mã của giáo sĩ Đắc Lộ
Công trình lớn của giáo sĩ Đắc Lộ
Cả hai cuốn được giấy phép in vào ngày 5-2-1651, song cuốn Phép giảng tám ngày được in trước vào ngày 2-10-1651. Và cuốn tự điển được in sau đó, khoảng đầu năm 1652. Kỹ thuật in thời đó cực khó. Bởi chữ in tiếng Việt cần phải thực hiện riêng nhưng không có thợ sắp chữ in người Việt. Do đó, có thể nói rằng việc in ấn và xuất bản hai cuốn sách quốc ngữ của Đắc Lộ, nhất là cuốn Tự điển Việt - Bồ - La là cả một công trình lớn. Cũng vì thế, việc vinh danh ông là điều cần thiết dù ông không phải là người đầu tiên tạo ra chữ quốc ngữ.

Trương Vĩnh Ký - Thầy dạy chữ quốc ngữ đầu tiên

TTO - Dù có rất nhiều ý kiến khác nhau về ông Trương Vĩnh Ký, song có lẽ không ai có thể phủ nhận rằng ông là người Việt đầu tiên "làm thầy giáo" chữ quốc ngữ.

Trương Vĩnh Ký - Thầy dạy chữ quốc ngữ đầu tiên - Ảnh 1.
Chân dung Trương Vĩnh Ký
Sách nầy để cho con trẻ mới vô trường, học những điều đại lược mà phá ngu. Hai nữa là để tập coi, tập đọc, tập viết tiếng An Nam trong chữ quốc ngữ cho trúng tiếng, cho nhằm giọng, phân biệt ra cho rõ ràng...
Lời nói đầu của TRƯƠNG VĨNH KÝ trong cuốn Vần quốc ngữ...
Chỉ riêng điều này, ông xứng đáng là "tiền hiền" trong số những người có công sáng tạo và phổ biến chữ quốc ngữ ở nước ta.
Pháp mở trường thông ngôn
Tháng 5-1862, sau khi chiếm ba tỉnh miền Đông Nam kỳ, gồm Biên Hòa, Gia Định và Định Tường, phó đô đốc Charner đã ký lịnh thành lập Trường Thông ngôn (Collège des Interprèste) dạy hai thứ tiếng Pháp và quốc ngữ nhằm đào tạo thông ngôn cho quân đội viễn chinh.
Ngày xưa, trường được dân chúng và báo chí gọi là Trường Khải Tường, vì trường đặt trong khuôn viên chùa Khải Tường; và cơ sở đó nay là Trường Lê Quý Đôn.
Vì sao quân Pháp không sử dụng tiếng Pháp mà phải dùng cả chữ quốc ngữ ở Nam kỳ?
Thực tế, sau khi chiếm ba tỉnh miền Đông Nam kỳ, quân Pháp phải dùng rất nhiều giáo sĩ Thiên Chúa để làm thông ngôn trong việc giao tiếp với dân chúng. Song không phải giáo sĩ nào cũng "hết mình" vì công việc. Một số thông ngôn đã lợi dụng công việc để truyền đạo.
Năm 1861, giáo sĩ Paulus Galy (tên Việt là Lý) được cử đến làm thông ngôn cho đồn Thuận Kiều đóng tại làng Thuận Kiều thuộc 18 thôn vườn trầu.
Đến năm 1863, không rõ công trạng làm thông ngôn của ông thế nào nhưng ông đã thành lập được giáo xứ Bà Điểm và lập nhà thờ sau chợ. Và cuối cùng vị giáo sĩ này trở thành chủ chăn ở giáo xứ Bà Điểm và rời bỏ công việc thông ngôn. Đó là một nguyên nhân.
Nguyên nhân thứ hai là giới giáo sĩ Thiên Chúa lúc bấy giờ muốn "tham chánh" để chia sẻ quyền lực với quân đội Pháp. Đây là yêu cầu khó chấp nhận đối với giới quân đội.
Cuối cùng, một giải pháp trung dung được cả hai phía chấp thuận là "sử dụng chữ viết của công giáo ở Nam kỳ". Đó là chữ Annam viết bằng mẫu tự Latin, tức chữ quốc ngữ, chữ Việt ngày nay.
Trong suốt mấy trăm năm hình thành, chữ quốc ngữ, do chính sách cấm đạo của nhà Nguyễn, luôn bị coi là thứ chữ "của người ngoại quốc" và chỉ phổ biến trong các nhà thờ và các xứ đạo Thiên Chúa.
Việc chánh quyền Pháp ở Nam kỳ chấp nhận cho phổ biến rộng rãi thứ chữ này là một bước đi quan trọng đối với các giáo sĩ. Và chính vì vậy Trường Thông ngôn ra đời.
Trương Vĩnh Ký - Thầy dạy chữ quốc ngữ đầu tiên - Ảnh 3.
Lịch sử Việt Nam viết bằng tiếng Pháp in năm 1877 của Trương Vĩnh Ký
Vai trò của Trương Vĩnh Ký
Ngay khi Trường Thông ngôn thành lập, ông Trương Vĩnh Ký được mời làm giáo sư. Và ông trở thành người Việt đầu tiên làm thầy giáo dạy chữ Việt, một công việc không hề dễ dàng lúc bấy giờ. Và năm 1864, sau khi từ Pháp trở về, ông được bổ nhiệm làm giám đốc trường này.
Cái khó khăn đầu tiên là làm sao có được giáo trình một thứ chữ mới rợi đối với mọi người? Sau khi trở thành giám đốc, Trương Vĩnh Ký đã viết cuốn sách giáo khoa đầu tiên mang tên Ngữ pháp tiếng Annam (Abrégé de grammaire Annamite) in năm 1867.
Sau đó là hàng loạt sách giáo khoa như Chuyện tiếng An Nam và tiếng Langsa, Sách tập nói chuyện tiếng An Nam và tiếng Langsa, Phép lịch sự An Nam, Văn phạm tiếng An Nam, Chữ quốc ngữ và lịch sử An Nam...
Riêng cuốn Văn phạm tiếng An Nam đã dày 304 trang in. Sách giáo khoa của ông rất chi tiết, từ cách đánh vần cho tới những từ ngữ, các danh từ, động từ, tính từ... đều phân biệt chi tiết. Ví dụ "con ốc" là loài ốc nói chung, khác với "con ốc vặn" mà ta gọi là ốc vít. Còn con cò thì khác với cò súng, con ngựa khác với ván ngựa (bộ ván), con ngựa của cây đờn...
Sách của ông cũng dạy đặt câu sao cho trúng cách và phân chia từ thấp đến cao một cách có hệ thống và khoa học. Đây lại là công việc của một người quả là rất đáng nể!
Không chỉ viết sách dạy chữ, ông còn viết cả lịch sử, chuyển âm truyện thơ Lục Vân Tiên, Kiều, Trương Lương... cho học trò có sách để đọc tham khảo.
Trong lời nói đầu cuốn Vần quốc ngữ và lịch sử An Nam, ông viết: "Sách nầy để cho con trẻ mới vô trường, học những điều đại lược mà phá ngu. Hai nữa là để tập coi, tập đọc, tập viết tiếng An Nam trong chữ quốc ngữ cho trúng tiếng, cho nhằm giọng, phân biệt ra cho rõ ràng...".
Ông đã làm thầy giáo trong suốt 22 năm kể từ năm 1864 cho đến năm 1886, thời điểm ông rời Sài Gòn ra Huế làm cố vấn cho vua Đồng Khánh theo đề nghị của toàn quyền Đông Dương Paul Bert.
Suốt thời gian này, ông có 9 năm trực tiếp ở các trường (từ 1864-1869 làm giám đốc Trường Thông ngôn, từ 1872-1876 làm giám đốc Trường Sư phạm) và đã viết khoảng 25 cuốn sách giáo khoa dành cho học trò học, trong số gần 200 tác phẩm của ông.
Đó là một số lượng rất lớn đối với một thầy giáo dạy chữ quốc ngữ trong điều kiện chưa có tiền lệ.
Thuở ấy, rất khó tìm được học sinh cho trường, do trong dân chúng truyền miệng nhau chữ quốc ngữ là thứ chữ của người ngoại quốc, học nó sẽ mất gốc hoặc bị Pháp bắt đi mất.
Ban đầu học sinh Trường Thông ngôn là lính Pháp, con em những người cộng tác với Pháp và con cháu của giới theo đạo Thiên Chúa. Về sau, để có học sinh, chánh quyền thực dân ra lịnh mỗi làng phải chọn một hay hai em trong lứa tuổi từ 10 đến 16 đi học.
Làng xã thường nhắm vào các gia đình có tiền của để bắt đi học, nên "kiếm người đi học mà như đi đánh giặc". Dù học nội trú, không tốn tiền, lại có tiêu vặt phí nhưng không mấy gia đình muốn con đi học. Sợ mất con, rất nhiều gia đình có tiền đã mướn người đi học thế.
Nghiệp làm thầy của ông Trương Vĩnh Ký để lại khá nhiều dấu ấn tốt đẹp. Một lớp khá đông học trò của ông, sau là những công chức mẫn cán của chế độ hoặc là những người có công lớn đối với nền văn học, văn hóa của nước nhà.
Nổi bật là các ông Trương Minh Ký (nhà báo, nhà văn, thầy giáo), Đặng Thúc Liêng (nhà báo, nhà văn), Nguyễn Khắc Huề (thầy giáo)...
Trương Vĩnh Ký - Thầy dạy chữ quốc ngữ đầu tiên - Ảnh 4.
Một trang sách giáo khoa của Trương Vĩnh Ký
Trường quốc ngữ đầu tiên ở Sài Gòn
Trước đó, trường dạy tiếng Annam viết bằng mẫu tự Latin đã được giáo sĩ Puginier Phước thành lập đầu năm 1860 mang tên d’Adran (nay là khuôn viên Trường Võ Trường Toản và Trưng Vương) khi giáo sĩ này phụ trách Tiểu Chủng viện Sài Gòn.
Và giáo sĩ Puginier Phước cũng là người thành lập giáo xứ Hạnh Thông Tây và dạy chữ quốc ngữ cho các giáo dân ở đây, trong số đó có Trần Tử Ca và Trương Minh Ký.

Nhà báo quốc ngữ đầu tiên

TTO - Huỳnh Tịnh Của (1830-1908), người có tên đường ở phường 8, quận 3, TP.HCM và là tác giả bộ tự điển Đại Nam quấc âm tự vị vừa được tái bản lần thứ tư năm 2018.


Những nhân vật đầu tiên trong tiến trình chữ quốc ngữ - Kỳ 6:  Nhà báo quốc ngữ đầu tiên - Ảnh 1.
Tự điển Đại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của
Song điều rất ít người biết, ông là nhà báo viết chữ quốc ngữ đầu tiên của nước ta.
Thông Hán tự, giỏi tiếng Pháp, Latin và chữ quốc ngữ
Huỳnh Tịnh Của còn gọi là Huỳnh Tịnh Paulus Của, hiệu là Tịnh Trai, bút danh là Paulus Của, sanh năm Canh Thân (1830) tại làng Phước Tụy, tổng Phước Hưng Hạ, tỉnh Bà Rịa (nay là Bà Rịa - Vũng Tàu). 
Là người theo đạo Thiên Chúa, năm 12 tuổi ông được sang học ở trường đạo Pinang (Mã Lai), thông Hán tự, giỏi chữ Pháp, Latin và chữ quốc ngữ. Khi lên đến chức thầy tư thì hoàn tục về quê cưới vợ. Trong đạo Thiên Chúa, để trở thành linh mục có sáu bậc, học hết bậc thầy sáu mới trở thành linh mục.
Năm 1861, ông ra làm thông ngôn cho Pháp. Năm 1865 ông làm chủ bút tờ Gia Định Báo. Năm 1873 ông làm việc tại phòng phiên dịch của Dinh Thượng thơ (Nha nội vụ), năm 1892 ông là ủy viên ủy ban cải tổ Trường Thông ngôn, có chân trong bán nguyệt san Revue Indochinoise, một tạp chí chuyên nghiên cứu về Đông Dương tồn tại từ năm 1893 đến 1925. Nhiều lần ông làm giám khảo trong các kỳ thi tuyển công chức. Ông được thăng hàm đốc phủ sứ năm 1881 và mất ngày 26-1-1908 tại Sài Gòn.
Gia Định Báo là tờ báo chữ quốc ngữ đầu tiên của nước ta, ra đời ngày 15-4-1865 do Ernest Potteau làm chánh tổng tài, Huỳnh Tịnh Của làm chủ bút. Công việc của ông là biên dịch tất cả những văn bản của chánh quyền ra chữ quốc ngữ, tổ chức trang báo, tổ chức nội dung và viết tin tức. Trong ba số báo được lưu lại tới ngày nay, chúng tôi đều thấy bài viết của ông dưới bút danh Paulus Của.
Xin chép nguyên văn vài tin với chữ quốc ngữ thời kỳ đó: "Tháng trước quan Thượng thơ có truyền cho quan Bố Sai phủ Saigon đi vào trong làng Bình Hòa Gò Vấp mà làm sổ, biên nam phụ lão ấu, biên sanh tử nghề nghiệp, ruộng đất, biên thử một ít làng cho quan trên đặng biết, chẳng phải có ý biên mà tấn thuế thêm hay là lấy vườn đất ai, mà có nhiều người nghi nan sợ hãi zấu đi, không muốn khai cho thiệt, trong nhà có nhiều người khai ít, ruộng đất nhiều khai chừng một đôi miếng mà thôi, sợ quan có lấy đất đi hay là có bắt người mà đem đi đâu, lại nghe có kẻ muốn đút tiền cho làng ăn cho được khai ít vậy, những người làm thế ấy thì đã mất tiền mà có khi lại mắt lấy tội zối quan, nào có ích gì, có làm sao mà phải làm đều zối trá như vậy..." (số 5 ngày 15-8-1865). "Tại Cần Giuộc, mới bắt đặng Huyện Đức là người của Quản Định cử để mà hay việc thâu thuế nội huyện Phước Lộc mà cấp cho quân giặc..." (số 6 ngày 15-9-1865).
Tuy nhiên, thời gian làm báo của ông dường như không lâu lắm. Không rõ thời kỳ 1869-1871, thời kỳ mà ông Trương Vĩnh Ký làm chánh tổng tài, thì ông Huỳnh Tịnh Của còn làm việc ở Gia Định Báo không! Do không có những số báo từ năm 1866 đến 1870 nên chúng tôi chưa biết chắc. Song đến năm 1872 thì không còn thấy tên của Paulus Của nữa. Có thể từ những năm này ông đã chuyển sang làm công việc khác trong phòng thông ngôn của Dinh Thượng thơ.
“Muốn làm được như Huỳnh Tịnh Của đòi hỏi phải có sở học tốt, có khả năng về ngôn ngữ lẫn say mê ngôn ngữ, đồng thời phải thật yêu ngôn ngữ của dân tộc hết mực.
Những nhân vật đầu tiên trong tiến trình chữ quốc ngữ - Kỳ 6:  Nhà báo quốc ngữ đầu tiên - Ảnh 3.
Chuyện giải buồn - một trong các cuốn sách giúp học chữ quốc ngữ của Huỳnh Tịnh Của

Cổ xúy chữ quốc ngữ
Là một trong hai người Việt biết chữ quốc ngữ cộng tác với quân đội Pháp ở Nam kỳ, Huỳnh Tịnh Của luôn cổ động mạnh mẽ việc người Việt dùng chữ quốc ngữ, thứ chữ mà sau này chính người Pháp phải thừa nhận "đã trở thành vũ khí của người Việt", và cổ xúy cho văn hóa dân tộc. 
Ngoài bộ Đại Nam quấc âm tự vị in vào hai năm 1895 và 1896, ông còn khoảng 25 tác phẩm viết bằng chữ quốc ngữ. Hầu hết những tác phẩm này đều chuyển ngữ từ chữ nho, Nôm sang quốc ngữ những tác phẩm văn học cổ hoặc sưu tầm các câu hát, chuyển tục ngữ, cổ ngữ... từ dân gian như Chuyện giải buồn, Tục ngữ cổ ngữ, gia ngôn, Quan Âm diễn ca, Gia Lễ, Chiêu Quân cống Hồ, Câu hát góp...
Song có lẽ gia tài đáng kể nhứt của ông chính là Đại Nam quấc âm tự vị. Bộ sách được chánh quyền bấy giờ tài trợ in ấn, với khổ lớn, 2 tập dày 1.200 trang in. Đây là cuốn tự điển chữ quốc ngữ và giải nghĩa bằng chữ quốc ngữ đầu tiên do người Việt viết. 
Sự ra đời của cuốn sách này ngoài nhu cầu đương thời là "phổ biến chữ quốc ngữ", nhu cầu "tra cứu của các thông ngôn" còn có nhu cầu tự thân của tác giả nữa. Bởi không phải ai cũng có điều kiện làm tự điển và không phải ai cũng có thể làm tự điển và cuốn tự điển này đã chứng tỏ trình độ và tài năng của Huỳnh Tịnh Của.
Muốn làm được như Huỳnh Tịnh Của đòi hỏi phải có sở học tốt, có khả năng về ngôn ngữ lẫn say mê ngôn ngữ, đồng thời phải thật yêu ngôn ngữ của dân tộc hết mực. Chính điều đó đã giúp cho một công chức mẫn cán và có lẽ không có nhiều thời gian, đã làm được điều mà ngày nay nhiều người có điều kiện chưa chắc đã làm được. 
Bộ tự điển đã giúp chúng ta giữ gìn được gia tài tiếng nói cổ xưa của tiền nhân ở đủ các lãnh vực từ thấp đến cao trong xã hội, đồng thời cung cấp một phần nào đó bộ mặt của xã hội Việt vào cuối thế kỷ 19. Chỉ riêng việc này thôi, Huỳnh Tịnh Của đã xứng đáng được tôn vinh là một trong những ông tổ có công phổ biến chữ quốc ngữ.
Những nhân vật đầu tiên trong tiến trình chữ quốc ngữ - Kỳ 6:  Nhà báo quốc ngữ đầu tiên - Ảnh 4.
Gia Định Báo - tờ báo Hùynh Tịnh Của làm chủ bút khi mới ra đời
Cuốn tự điển vượt trội
So với những cuốn tự điển trước đó do người Pháp viết (tự điển Bá Đa Lộc, tự điển Taberd) và những cuốn về sau này, Đại Nam quấc âm tự vị vượt trội hẳn. Đầu tiên là Đại Nam quấc âm tự vị chứa đựng một kho tàng chữ Nôm rất phong phú mà chưa quyển tự điển nào có được, bên cạnh đó là tiếng Hán.
Ngày nay, muốn học chữ Nôm chúng ta có thể tham khảo Đại Nam quấc âm tự vị. Đây là bộ tự điển Việt Nam đầu tiên giải nghĩa bằng tiếng Việt có cả chữ Hán và chữ Nôm. Trong thời đại mà chữ nho vẫn còn thịnh hành (nhứt là ở miền Bắc và miền Trung), Đại Nam quấc âm đã quan tâm đến ngôn ngữ của người Việt và ghi chép hầu hết những tiếng Việt được sử dụng đương thời ở cả ba miền đất nước, dù tiếng Nam có trội hơn do tác giả sanh trưởng và sống ở miền Nam.

Trương Minh Ký - Nhà văn viết chữ quốc ngữ đầu tiên

TTO - Trương Minh Ký (1855-1900), bút danh Mai Nham, hiệu là Thế Tải, là người học trò nổi bật của Trương Vĩnh Ký.

Trương Minh Ký - Nhà văn viết chữ quốc ngữ đầu tiên - Ảnh 1.
Báo Nam Kỳ do Trương Minh Ký làm chủ bút
Trương Minh Ký luôn bị cái bóng của thầy che mờ nên đời sau rất ít người biết về ông một cách đầy đủ.
Một người thông tuệ
Ông sinh năm 1855 tại Hanh Thông Xã (Gò Vấp) trong một gia đình buôn bán. Bảy tuổi, năm 1862, cũng là năm Nam Kỳ mất vào tay quân Pháp, ông mất mẹ. Cũng vì vậy mà ông được cha chăm sóc tốt, cho ăn học đàng hoàng.
Ông bắt đầu học chữ nho với cha và bà nội và học chữ quốc ngữ với giáo sĩ Puginier Phước, người thành lập giáo xứ Hạnh Thông Tây cách nhà ông chừng hai cây số.
Là người cực kỳ thông tuệ nên Puginier Phước trước khi ra Bắc nhận nhiệm sở mới đã giới thiệu ông vào Trường Thông ngôn (Trường Khải Tường) ngay khi thành lập (tháng 5-1862). Và tại đó ông đã gặp thầy Trương Vĩnh Ký.
Năm 1872, ông ra trường và trở thành thầy giáo dạy chữ nho và chữ quốc ngữ ngay nơi mình đã học. Nối nghiệp thầy Trương Vĩnh Ký, ông trở thành một thầy giáo nổi tiếng và hai năm sau, năm 1874, ông được thăng hạng: "Trương Minh Ký, nguyên làm thầy giáo dạy giúp hạng ba lên hạng nhì, lương đồng niên ăn 1.400 quan tiền" (Gia Định Báo số 3 ngày 1-2-1874).
"Dạy giúp" là một thứ bậc trong nghề giáo thời ấy.
Trương Minh Ký - Nhà văn viết chữ quốc ngữ đầu tiên - Ảnh 2.
Hai truyện văn xuôi đầu tiên đăng ngày 1-12-1881 trên Gia Định Báo của Trương Minh Ký
Năm 1880, Thống đốc Nam Kỳ dân sự đầu tiên Le Myre de Vilers đã cử ông dẫn một đoàn học sinh gồm 11 em sang Alger du học bậc cao đẳng. Trong số 11 em này có một "em" sau này khá nổi tiếng trong giới thầy giáo lẫn báo chí là Diệp Văn Cương.
Diệp Văn Cương (1862-1929), đồng môn của Nguyễn Trọng Quản - tác giả cuốn truyện Thầy Lazaro Phiền in năm 1887, sau khi tốt nghiệp trở về làm giáo sư Trường Chasseloup Laubat (nay là Lê Quý Đôn) và từng là chánh tổng tài cuối cùng (1909-1910) của tờ Gia Định Báo.
Trong chuyến đi này ông Trương Minh Ký đã đi thăm Paris, khi trở về ông viết một du ký dài 2.000 câu bằng văn vần "Như Tây nhựt trình" (Nhựt ký đi Tây) in tại Sài Gòn năm 1889.
Sau chuyến đi, trở về ông được bầu làm ủy viên Hội đồng thành phố Sài Gòn và chuyển sang làm chủ bút tờ Gia Định Báo từ giữa năm 1881 đến năm 1896.
Từ năm 1897, ông làm chủ bút tờ báo tư nhân Nam Kỳ (còn gọi là Nam Kỳ nhựt trình) cho đến giữa năm 1900, báo đóng cửa. Tháng 8-1900, ông mất đột ngột ở tuổi 45. Trong năm 1889, ông được thống đốc Nam Kỳ cử làm phiên dịch cho phái đoàn Hoàng gia nhà Nguyễn do hoàng thân Miên Triện dẫn đầu đi dự hội chợ quốc tế tại Paris.
Trong chuyến đi, tại Paris, ông được hoàng thân Miên Triện ban cho cái tên "Thế Tải". Sau chuyến đi này về, ông xuất bản cuốn du ký Chư quấc thại hội dài 2.000 câu thơ song thất lục bát.
Nếu 16 năm làm chủ bút Gia Định Báo ông đã gieo mầm cho văn học Việt, thì chỉ ba năm sau cùng (1897-1900) làm chủ bút tờ Nam Kỳ, ông thể hiện rõ tài năng trong nghề báo.
Quá trình làm báo viết văn
Được đánh giá là người có kiến văn sâu rộng cả ba ngôn ngữ Việt, Pháp, Hán; ông làm thầy giáo dạy chữ quốc ngữ và chữ nho trong 8 năm.
Sau khi chuyển sang làm báo ông viết nhiều sách giáo khoa như Ấu học khải mông, Tập dạy học tiếng Phansa và tiếng Annam, Hiếu kinh diễn nghĩa, Pháp học tân lương, Quấc ngữ sơ giai, Tiểu học gia ngôn... và sáng tác, dịch thuật thơ truyện.
Cuốn sách 100 bài học tiếng Pháp (Pháp học tân lương) gồm bài giảng về từ ngữ, văn phạm tiếng Pháp và tiếng Việt mà ngày nay cũng có thể dùng được cho người muốn học tiếng Pháp.
Thời ông làm chủ bút tờ Gia Định Báo, tờ báo này chính thức trở thành công báo, hầu hết các trang báo đều đăng ròng các văn bản, nghị định... của chính quyền. Qua nghiên cứu chúng tôi thấy rằng Gia Định Báo thời Trương Minh Ký có hai thay đổi căn bản và rất có lợi cho việc tìm hiểu xã hội cuối thế kỷ 19.
Đó là phần Công vụ báo có đăng nguyên văn biên bản các buổi họp của Hội đồng quản hạt Nam Kỳ (do vậy mà có khi báo tăng lên đến 20 trang). Đây là việc vô tiền khoáng hậu, bởi xưa nay các nhà chính trị không bao giờ muốn đưa những chuyện họ bàn bạc lên báo. Những phát biểu trong các buổi họp rất có thể ảnh hưởng đến hình ảnh của họ và đôi khi để lại những di chứng không lành!
Trương Minh Ký - Nhà văn viết chữ quốc ngữ đầu tiên - Ảnh 4.
Trương Minh Ký (người cầm gậy) chụp cùng phái đoàn Hoàng gia Huế dự Hội chợ quốc tế Paris 1889
Và ở phần Thứ vụ, Tạp vụ có dành một phần nhỏ cho những sáng tác văn học. Và đây là trang văn học đầu tiên trên báo chí quốc ngữ nước ta. Hai truyện ngắn văn xuôi Tên chăn bò và Thằng ăn trộm với con heo, viết lại theo nội dung thơ La Fontaine của Trương Minh Ký in trên số ra ngày 1-12-1881 là những truyện đầu tiên của nền văn học nước ta.
Với tiền lệ Truyện Kiều viết lại theo nội dung Kim Vân Kiều truyện bằng văn xuôi của Thanh Tâm Tài Nhân, thì hai truyện văn xuôi của Trương Minh Ký phải được coi là truyện sáng tác đầu tiên. Hai truyện này sau đó, năm 1884, được in chung với 128 truyện khác trong tập Truyện Phansa diễn ra quốc ngữ của Trương Minh Ký.
Song ông cũng là một nhà báo tài năng. Nếu 16 năm làm chủ bút Gia Định Báo ông đã gieo mầm cho văn học Việt, thì chỉ ba năm sau cùng (1897-1900) làm chủ bút tờ Nam Kỳ, ông thể hiện rõ tài năng trong nghề báo.
Nam Kỳ là tờ báo tư nhân, do ông A. Schreiner, một doanh nhân, làm chủ. Tờ báo tuy chỉ sống có ba năm nhưng lại là một tờ báo "đúng nghĩa" so với các báo khác trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.
Mặt báo phong phú tin tức từ ngoài nước cho đến trong nước. Báo đã có mục giao lưu với bạn đọc xa gần và mức quảng cáo khá mạnh (8 trang trong số 16 trang). Đọc báo Nam Kỳ chúng ta có thể thấy được một phần nào đó xã hội thế kỷ 19, đặc biệt là xã hội Sài Gòn. 
Báo này có rất nhiều sáng tác thơ văn và truyện dịch. Năm 1895, truyện Một ngàn lẻ một đêm được chuyển ra tiếng Pháp thì năm 1897 đã có bản dịch tiếng Việt trên Nam Kỳ. Để làm được tất cả những điều này, chủ bút Trương Minh Ký với bút danh Mai Nham đã phải mất rất nhiều công sức viết, dịch và lựa chọn các tin bài đưa lên mặt báo...
Vì sao?
Là nhà văn, nhà báo quốc ngữ lớp đầu tiên song Trương Minh Ký suốt 100 năm qua vẫn chưa được biết đến trọn vẹn. Với quá trình đóng góp cho chữ quốc ngữ và hoạt động báo chí văn chương, không hiểu vì sao ông bị xóa tên khỏi bản đồ đường phố Sài Gòn sau ngày 30-4-1975? Phải chăng vì ông là cháu họ của Trương Minh Giảng? Phải chăng vì ông luôn bị lầm lẫn với ông Trương Vĩnh Ký? Phải chăng vì ông cộng tác với Pháp?...
TRẦN NHẬT VY

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét