Nhà Nguyễn được coi là có một trong những hệ thống tượng binh mạnh mẽ bậc nhất thời bấy giờ. Vậy làm sao họ chọn và đào tạo được những con voi chiến như vậy?
Trong cuộc chiến tranh với vua Lê, chúa Trịnh (Đàng Ngoài), một mặt các chúa Nguyễn (Đàng Trong) tìm sự giúp đỡ của các giáo sĩ phương Tây, mặt khác chủ động củng cố lực lượng quân đội.
Ngoài pháo binh, voi chiến là nỗi khiếp sợ của quân sĩ phía Bắc. Để có được những chiến binh khổng lồ áp đảo đối phương, các nhà quân sự phía Nam bấy giờ đã áp dụng nhiều phương pháp tuyển chọn voi chiến kỹ lưỡng và có phần tàn nhẫn.
1. Voi chiến Đàng Trong
Voi chiến thời chúa Nguyễn có nhiều cách gọi khác nhau như: Con voi, Tàu voi, Mục tượng, Tượng khố, Thớt voi,… Trong phiên chế quân đội, voi chiến có vai trò quyết định trong các trận kịch chiến đánh giáp lá cà. Lực lượng voi chiến được tuyển lựa qua nhiều con đường khác nhau.
Ngoài số lượng voi được nuôi (không nhiều), số còn lại là chiến lợi phẩm thu được từ chiến tranh (với các nước láng giềng), một số khác là cống phẩm nhận được từ các nước lân bang và một số lượng khá lớn thông quan con đường mua bán, trao đổi với các dân tộc ít người trong và ngoài nước.
Một thương nhân người Hà Lan trong quá trình buôn bán ở Đàng trong thế kỷ XVII cho biết số lượng voi chiến thời chúa Nguyễn năm 1642 là 600 con. Với số voi chiến khiêm tốn này, các chúa Nguyễn đóng vai trò như một thủ lĩnh quân sự hơn là một lãnh tụ thiên về chính trị, họ cũng các tướng lĩnh đã dồn hết tâm sức cho việc huấn luyện, tuyển chọn voi chiến, từ đó tìm ra được những "thần tượng" cho cuộc chiến tranh triền miên giữa hai miền.
2. Tuyển chọn voi chiến
Các tài liệu lịch sử cho thấy chúa Nguyễn Phúc Chu đã trực tiếp tham gia quá trình thao diễn lựa chọn voi chiến sung vào quân đội. Chúa ngồi trên một con voi cao lớn nhất, xung quanh có lĩnh bảo vệ. Ở phía Tây có mười con voi, trên lưng mỗi con đặt một cỗ yên, hình cái hộc, trong đó lại có 3 lính cầm vũ khí và một lính cầm câu liêm ngồi trên ngà voi.
Phía Đông huy động 500 quân cầm vũ khí các loại và đuốc châm lửa. Lực lượng quân này đứng cách đàn voi chừng 1.000 bước. Khi cờ lệnh phất lên, ba quân cùng múa đao thương nhằm thẳng đàn voi mà xông tới, lúc này đàn voi vẫn đứng yên.
Sau khi dàn trống được đánh lên, những binh sĩ cầm câu liêm bổ vào đầu voi, bầy voi chạy thẳng về phía trước dượt đuổi những binh sĩ đang tấn công. Tuy nhiên, để tránh thương vong về người, các binh sĩ này đã dùng các người bằng rơm để dụ voi chiến ở một khoảng cách an toàn. Khi đã chạy sát hình nhân bằng rơm, voi dùng vòi quấn và siết mạnh, hạ gục đối thủ.
Trong lúc đó, voi nào chạy chậm sẽ bị binh sĩ dùng thương đâm, búa bổ vào người đến nỗi máu chảy, da đứt, nhiều con voi vì quá mệt và bị tấn công dữ dội đã ngã gục tại trận. Quá trình này giúp chúa Nguyễn tìm ra những thớt voi đủ sức mạnh và can đảm tham gia chiến trận, đồng thời loại bỏ những voi chưa đáp ứng yêu cầu.
Sau khi chọn lựa được các voi chiến phù hợp, những tướng lĩnh và voi vượt qua thử thách đều được thưởng. Trong khi diễn tập, mỗi voi đều có 50 lính trông coi.
Việc huấn luyện và tuyển chọn voi chiến của chúa Nguyễn để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho các tướng lĩnh và triều đại sau. Cuối thế kỷ XVIII, vua Quang Trung sở hữu 300 voi chiến đặt dưới quyền của nữ tướng Bùi Thị Xuân đã làm cho quân đội của Nguyễn Ánh nhiều phen hồi xiêu phách lạc. Đội tượng binh này mạnh đến mức Nguyễn Ánh phải đặt lệ thưởng 50 quan tiền và thăng một bậc quan nếu ai giết được một voi chiến của quân Tây Sơn.
3. Vai trò của voi chiến
Trong chiến trận, voi được sử dụng voi chiến như một pháo đài di động. Trên lưng voi, từ gác canh nhỏ, người lĩnh có thể quan sát được đối thủ di chuyển và tấn công như thế nào. Tại đây, binh sĩ có cung tên, súng hỏa mai, thậm chí đại bác cỡ nhỏ, voi chiến thừa sức khỏe để làm những việc này.
Trong một số trường hợp, người ta còn chứng kiến, một con voi sử dụng ngà để nâng một khẩu trọng pháo, một con khác cùng lúc hạ thủy cả 10 chiếc thuyền nhỏ.
Trong bảy lần chiến tranh (từ năm 1627 đến năm 1672), quân đội Đàng Trong đã 6 lần đẩy lùi sự xâm lấn của vua Lê, chúa Trịnh, để rồi cuối cùng phải giảng hòa, chọn sông Gianh phân đôi đất nước. Trong trận chiến thứ bảy năm 1672, chúa Nguyễn sử dụng voi chiến uy hiếp đối thủ, buộc quân Trịnh phải lui binh.
Khi hai quân đã áp sát nhau, chỉ còn cách dòng sông trước mắt, tướng Đàng Trong cho người đưa đoàn voi chiến gồm 60 con cùng binh lính khí giới chỉnh tề hành quân chậm rãi từ cửa Đông Bắc, sau đó đi vào cửa Tây Nam rồi vòng lại từ giờ Thìn đến giờ Ngọ. Quân Đàng Ngoài thấy voi đi ra mà không đi vào sinh nghi và dự đoán số voi của đối phương lên đến 5000-6000 nên không dám vượt sông.
Để phá tan sự ngờ vực này, tướng nhà Trịnh là Lê Thì Hiến cử sứ giả sang bờ Nam sông rò xét nội tình chúa Nguyễn. Đến bờ Nam nhận được câu trả lời số voi mà họ thấy chỉ là một phần số voi chiến của chúa Nguyễn đang đi dạo chơi mà thôi.
4. Số phận voi chiến trong thời bình
Sau cuộc chiến bất phân thắng bại với Đàng Ngoài, giữ được đất đai, dân cư, voi chiến của các chúa Nguyễn được nhàn hạ hơn. Ngoài các cuộc diễn tập quân sự hàng năm, số lượng voi chiến từng được tuyển lựa kỹ lưỡng được chúa Nguyễn bày ra trò cho voi chiến đấu với cọp (hổ quyền) làm thú vui.
Đỉnh điểm, vào năm 1750, chúa Nguyễn và các quan cùng đến cồn Dã Viên ở Huế (bên bờ sông Hương) để xem voi đấu với cọp. Trong trận tử chiến này, chỉ khi trải qua 40 trận chiến đấu và 18 con cọp bỏ mạng trên đấu trường, cuộc chiến mới dừng lại. Điều này càng khẳng định thêm sự dũng mãnh và sức mạnh vô địch của voi chiến.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét