Thứ Ba, 3 tháng 10, 2017

32 phần về cuộc Kháng chiến chống Minh của Lê Lợi

   Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống lại ách đô hộ của nhà Minh là một chương sáng chói trong lịch sử dân tộc. Từ chỗ một đội quân nhỏ nơi rừng núi, người Việt Nam đã đánh bại đạo quân đông đảo, thiện chiến bậc nhất châu Á khi ấy.

Âm mưu thâm hiểm của nhà Minh sau khi tiêu diệt nhà Hậu Trần

Vua Minh Chu Đệ rắp tâm xâm lược nước ta
   Sau nhà Hậu Trần bị diệt, Chu Đệ lại ra chiếu chỉ đôn đốc Trương Phụ phải thi hành đầy đủ các biện pháp nhằm biến người Việt trở thành một sắc dân bị hòa tan vào trong khối Hán hóa. Mục đích cuối cùng của việc này, suy cho cùng là để người Việt về lâu dài không còn khát vọng độc lập, tự chủ nữa. Vua Minh đã hiểu ra sức mạnh đến từ cội nguồn văn hóa Việt và tìm cách tiêu diệt. Thế nhưng điều này không hề dễ dàng đối với quân giặc.



Năm 1414, nhà Hậu Trần diệt vong, một trong những chương đen tối nhất lịch sử Việt Nam đã mở ra. Những chính sách hủy diệt văn hóa, bóc lột tài nguyên, của cải, nhân lực vốn đã rất tàn bạo ngay từ khi quân Minh mới vào chiếm đóng nước ta, bấy giờ lại càng được giặc đẩy mạnh một cách tàn bạo hơn hòng gỡ gạc cho những tổn thất trong chiến tranh, và một phần cũng là để trả thù nhân dân ta đã tích cực hưởng ứng các cuộc khởi nghĩa.Tất nhiên, quân Minh không thể nào chống lại tất cả người Việt, mà thực hiện chính sách chia để trị rất nham hiểm. Đối với các tầng lớp đại địa chủ, trí thức tinh hoa, những người thế gia, hào trưởng nếu chấp nhận quy phục quân đô hộ sẽ được đảm bảo sinh mạng, tài sản. Quan tướng nước Minh còn bỏ công chiêu dụ những người thuộc tầng lớp trên ra làm quan cho chúng để dễ bề kiểm soát và ru ngủ, khiến cho những người này vì danh lợi mà mất đi lòng ái quốc. Những ngụy quan có công lao giúp quân Minh đàn áp các phong trào khởi nghĩa được đối đãi rất hậu hĩnh bằng tiền tài, chức tước và ruộng đất. Nhưng có một điều chắc chắn là giặc Minh không cho đi nhiều hơn thứ chúng nhận lại từ dân tộc Việt, thậm chí quân giặc còn phải lấy đi gấp nhiều lần những lợi ích mà chúng đã ban phát.
Tất cả những gánh nặng được quân Minh triệt để đổ lên đầu những người bình dân, cũng là đại đa số người Việt. Ruộng đất của bình dân bị cướp không để cấp cho bọn tay sai làm bổng lộc. Kể từ năm 1414 trở đi, các sắc thuế ruộng lúa, ruộng dâu, thuế tơ lụa, thuế muối vốn đã rất nặng nề từ trước lại tăng dần đều từng năm. Giặc Minh siết chặt việc quản lý bằng sổ hộ tịch để theo đó mà thực hiện một chế độ lao dịch bắt buộc cực kỳ hà khắc. Bất cứ người dân nào từ 16 đến 60 tuổi đều nằm trong diện phải đi lao dịch không công cho giặc khi chúng cần. Chẳng những làm việc không được trả công, những người đi lao dịch lại toàn phải làm những công việc nặng nhọc và nguy hiểm như lên núi khai mỏ, săn voi lấy ngà, săn tê giác lấy sừng, lặn biển mò ngọc trai…
Những nông sản, lâm sản quý như hồ tiêu, trầm hương, đàn hương tất cả đều bị tận thu đem sang nước Minh. Giặc Minh thành lập một hệ thống đồn điền quy mô cực lớn để có thể cung cấp lương thực cho đạo quân chiếm đóng khổng lồ thường xuyên hiện diện trên nước ta, chực chờ bóp nát bất kỳ sự chống đối nào. Trong các đồn điền này, vẫn là những người dân phu lao dịch ngày ngày đổ mồ hôi và máu một cách tủi nhục, đau đớn. Ngoài dân lao dịch, người Minh còn sử dụng các ngụy binh để làm đồn điền. Ngụy binh vừa phải bán mạng, bán sức cho ngoại bang, vừa phải chịu sự khinh bỉ và nghi kỵ của quân tướng người nước Minh. Chỉ có những tên tay sai đầu sỏ, những kẻ chăn dắt là thực sự được hưởng lợi từ giặc ngoại bang.
Bên cạnh việc vơ vét, bóc lột thì việc hủy diệt văn minh, đồng hóa dân tộc cũng là một tội ác lớn mà giặc Minh đã gây ra. Chu Đệ từ khi xua quân xâm lược đã chủ tâm xóa bỏ văn minh Đại Việt bằng các biện pháp đập phá văn bia, đốt sách vở, hủy hoại công trình, di sản văn hóa, bắt nhân dân thay đổi phong tục tập quán… Đến khi nhà Hậu Trần nổi lên, việc phá hoại của quân Minh phần nào bị gián đoạn. Sau nhà Hậu Trần bị diệt, Chu Đệ lại ra chiếu chỉ đôn đốc Trương Phụ phải thi hành đầy đủ các biện pháp nhằm biến người Việt trở thành một sắc dân bị hòa tan vào trong khối Hán hóa. Mục đích cuối cùng của việc này, suy cho cùng là để người Việt về lâu dài không còn khát vọng độc lập, tự chủ nữa. Vua Minh đã hiểu ra sức mạnh đến từ cội nguồn văn hóa Việt và tìm cách tiêu diệt. Thế nhưng điều này không hề dễ dàng đối với quân giặc.
Ở nước Minh những năm này đang bước vào giai đoạn hùng mạnh nhất dựa vào chính sách cai trị cứng rắn và quân đội đông đảo, tinh nhuệ. Mặc dù ở phía bắc các bộ tộc Mông Cổ vẫn là mối đe dọa thường trực với nước Minh, nhưng Minh Thành Tổ Chu Đệ luôn dành lợi thế trong các cuộc chiến chống lại người Mông Cổ. Những hệ lụy từ các chính sách mang tính chất tạm bợ trước mắt của bạo chúa Chu Đệ chưa thực sự bộc lộ ra trong giai đoạn này. Về đối nội, cơ quan giám sát, thanh trừng nội bộ của vua Minh là Cẩm Y Vệ vẫn còn sợ oai của nhà vua mà chưa biến tướng thành một thế lực ngầm trong triều chính nước Minh.
Về đối ngoại, Chu Đệ vẫn triệt để dùng binh mà cư xử với láng giềng. Vì có quân đội mạnh, Chu Đệ vẫn kiểm soát được tình hình. Nhưng về lâu dài, đối ngoại thừa cương, thiếu nhu đã khiến nước Minh tự đặt mình vào thế lưỡng đầu thọ địch. Phía đông, các cướp biển đến từ Nhật Bản gọi là các Oa Khấu vẫn luôn cướp bóc, quấy nhiễu nước Minh.Phía bắc, bộ tộc Ngõa Lạt Mông Cổ sau khi nhận diện sự gian trá của Minh Thành Tổ đã từ đồng minh chuyển thành kẻ thù, cùng với đó là sự chống đối ngày càng tăng của các bộ tộc Mông Cổ khác nhằm vào nước Minh.
Bấy giờ tại nước ta, nhân dân không chịu nổi sự áp bức cũng lần lượt nổi lên. Những sự phản kháng trong giai đoạn từ sau khi nhà Hậu Trần mất (năm 1414) đến trước khởi nghĩa Lam Sơn (năm 1418) đa phần manh mún, tự phát không được biên chép rõ ràng trong sử sách. Tiêu biểu trong giai đoạn này là một cuộc khởi nghĩa tại Thanh Hóa dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Chích.Từ năm 1413 Nguyễn Chích đã dựng cờ khởi nghĩa, xây dựng căn cứ Hoàng Nghiêu (thuộc huyện Đông Sơn, Thanh Hóa ngày nay) chống quân Minh.
Sau khi nhà Hậu Trần mất, quân của Nguyễn Chích đã kiểm soát được ba huyện Đông Sơn, Nông Cống, Ngọc Sơn (Triệu Sơn ngày nay), gây cho quân giặc nhiều thiệt hại. Quân Minh đem quân đến đánh, Nguyễn Chích thu quân vào núi Hoàng, núi Nghiêu cố thủ, giặc không đánh nổi. Ngụy quan Lương Nhữ Hốt theo lệnh giặc đến dụ hàng, Nguyễn Chích không theo, kiên quyết dựa vào núi rừng hiểm trở mà chiến đấu đến cùng với quân Minh. Khắp nơi nhiều hào kiệt, sĩ phu cũng ẩn dật nơi rừng núi, trông chờ một vị minh chủ nổi lên để cùng góp sức đánh đuổi giặc Minh.

Lam Sơn tụ nghĩa, rồng cuộn chờ thời


Hội thề Lũng Nhai
   Phong trào khởi nghĩa Lam Sơn là một hiện tượng khá đặc biệt trong sử Việt. Tưởng chừng như sau cuộc quật khởi của nhà Hậu Trần thất bại, hiền tài nước Việt đã mất mát nhiều, nguyên khí không còn đủ để làm nên nghiệp lớn. Nhưng thật bất ngờ là chỉ sau đó một quãng thời gian không lâu (từ 1414 đến 1418), phong trào Lam Sơn lại nổi lên.


Phong trào quy tụ hàng loạt những anh hùng tài ba lỗi lạc, cùng nhau làm nên những chiến công hiển hách phi thường. Thật đúng như lời trong Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi đã viết
“Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Tất nhiên trước hết phải kể đến là người anh hùng Lê Lợi, nhân vật khởi xướng cuộc khởi nghĩa. Lê Lợi là xuất thân trong một gia đình đại địa chủ lâu đời ở hương Lam Sơn, huyện Lương Giang, trấn Thanh Hóa (nay thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa). Tổ tiên của họ Lê là Lê Hối dựng lên ở đất Lam Sơn, nhiều đời nối nhau làm hào trưởng một phương. Lê Hối sinh Lê Đinh, Lê Đinh sinh Lê Khoáng, Lê Khoáng sinh Lê Trừ và Lê Lợi. Lê Lợi là con trai thứ nhưng có tư chất thông tuệ khác thường nên được giao nối nghiệp nhà. Nhà họ Lê truyền đến đời Lê Lợi đã nức tiếng là nhà giàu có và uy tín trong vùng, gia nô có đến hàng ngàn người. Lê Lợi là người phóng khoáng nuôi chí lớn, thường bỏ tiền của giúp đỡ người cơ hàn, chiêu nạp những kẻ khốn cùng nên càng được lòng dân.
Miêu tả về Lê Lợi, các sách sử xưa thường nhuốm màu huyền thoại, ly kỳ. Sách Đại Việt Thông Sử của Lê Quý Đôn chép về việc ra đời của Lê Lợi và diện mạo của ngài như sau: “Hoàng đế sinh giờ tý ngày mồng 6 tháng 8 năm Ất sửu (1385), nhằm niên hiệu Xương phù thứ 9 nhà Trần, sanh tại làng Chủ sơn, huyện Lôi dương. Nguyên trước, xứ Du Sơn, thôn Như Áng Hậu thuộc làng này (Chủ Sơn), có một cây quế, dưới cây quế này có con hùm xám thường xuất hiện, nhưng nó hiền lành, vẫn thường thân cận với người mà chưa từng hại ai. Tự khi Hoàng đế ra đời, thì không thấy con hùm ấy đâu nữa. Người ta cho là một sự lạ! Ngày Hoàng đế sinh, thì trong nhà có hào quang đỏ chiếu sáng rực, và mùi thơm ngào ngạt khắp làng. Khi lớn tuổi, ngài thông minh dũng lược, độ lượng hơn người, vẻ người tươi đẹp hùng vĩ, mắt sáng mồm rộng, sống mũi cao, xương mi mắt gồ lên, bả vai bên tả có 7 nốt ruồi, bước đi như rồng như hổ, tiếng nói vang vang như tiếng chuông. Các bậc thức giả biết ngay là một người phi thường.”. Việc thần thánh hóa các vị vua là một hiện tượng không quá mới trong lịch sử. Nó là một cách thức để nhà vua và triều đình có được sự tôn sùng của nhân dân, giúp thuận lợi hơn trong việc cai trị.
Cuối đời Trần, Lê Lợi vừa chăm sóc việc nhà vừa giữ chức Phụ đạo Khả Lam. Sau nhà Hồ soán ngôi nhà Trần, rồi quân Minh xâm lược, ngài ở nhà đóng cửa đọc sách. Trước những biến động lớn của thời cuộc, Lê Lợi chọn cho mình một con đường riêng, không dự vào những phong trào khởi nghĩa đương thời vì ngài đánh giá rằng những phong trào này không có nhiều triển vọng thành công. Để cho người Minh không nghi ngờ, Lê Lợi tỏ ra là một địa chủ chỉ chuyên tâm lo việc đồng áng. Chẳng những vậy, Lê Lợi còn thường xuyên đi lại quà biếu với các quan tướng Minh triều để che mắt chúng.Quân Minh thấy Lê Lợi là người có thế lực trong vùng, muốn đem quan tước ra mua chuộc nhưng ngài đều tìm cách từ chối khéo, càng đút lót cho chúng nhiều để được tạm yên. Mặt khác, Lê Lợi chuyên tâm nghiên cứu sách lược, binh thư chờ cơ hội, ngầm kết giao với những người tài cao chí lớn, cùng nhau tính kế lâu dài. Lê Lợi từng nói với thân tín: “Bậc trượng phu sinh ở đời phải cứu nạn lớn, lập công to, lưu lại tiếng thơm ngàn năm sau, sao lại chịu hèn nhát để cho người sai khiến?” (theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
Những nhân vật quan trọng đầu tiên đến Lam Sơn có Trịnh Đồ, Trịnh Khả, Lê Thận, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Bùi Khai Hưng, Nguyễn Truy, Lưu Nhân Chú, Trịnh Vô, Vũ Uy, Lê Liễu… Những người này cùng với các thân tín của nhà họ Lê là những hạt nhân đầu tiên đề ra các đường hướng ban đầu, chuẩn bị mọi thứ trước khi khởi binh. Trong thời gian tích tụ của cải và lực lượng một cách bí mật, trước hết Lê Lợi và các hạt nhân đầu tiên của phong trào đã được sự đồng lòng che chở của những người thuộc hạ của nhà họ Lê và nhân dân quang vùng Lam Sơn. Việc Lê Lợi chiêu hiền đãi sĩ tuy đã cố gắng che mắt chính quyền đô hộ, nhưng thực tế cũng không thể hoàn toàn bí mật. Danh tiếng của một phụ đạo đất Lam Sơn đang chiêu mộ hiền tài dần lan xa, nửa hư nửa thực. Nguyễn Trãi bấy giờ ở thành Đông Quan, quân Minh đã quản thúc lâu ngày sinh ra xao nhãng, nghe danh Lê Lợi đã trốn khỏi thành lặn lội đến Lam Sơn tìm minh chủ. Năm 1416, để nêu cao quyết tâm, Lê Lợi lập Hội thề Lũng Nhai lịch sử, chính thức khai sinh phong trào khởi nghĩa Lam Sơn:
“Bui ! [từ cổ dùng trong văn thề]
Năm đầu niên hiệu Thiên khánh là năm Bính-thân (1416), quá ngày sóc (mồng một) là ngày Kỉmão đến ngày 12 là ngày Canh dần, tại nước An Nam, lộ Khả Lam. Tôi là phụđạo Lê Lợi đứng đầu, với Lê Lai, Lê Thận, Lê Văn Linh, Lê Văn An, Trịnh Khả, Trương Lôi, Lê Liễu, Bùi Quốc Hưng, Lê Ninh, Lê Kiểm, Vũ Uy, Nguyễn Trãi, Lưu Nhân Chú, Trịnh Vô, Phạm Lôi, Lê Lý, Đinh Lan, Trương Chiến.
Chúng tôi kính cẩn đem lễ vật, sinh huyết mà thành khẩn dâng lời tâu, cáo cùng Vua Trời, Hậu Đất và các thần linh bậc thượng, trung, hạ, coi các cảnh đẹp sông núi tại các xứ ta. Chúng tôi cúi xin rộng rủ lòng thương, soi xét để chứng cho việc nầy. Rằng có bạn từ xa tới kết tình vui vẻ và rất tin nhau, cho nên phải làm lễ tâu cáo.
Nay ở nước tôi, tôi phụ đạo Lê Lợi đứng đầu với 18 người từ Lê Lai đến Trương Chiến, tuy sinh khác họ, quê quán xa cách nhưng kết nghĩa cùng nhau, xem nhau như cành liền chung một tổ. Tuy phần vinh hiển có khác nhau, nhưng nguyện đem tình đối xử với nhau như người không khác họ.
Ví bằng chúng tôi đây, Lê Lợi với 18 người từ Lê Lai đến Trương Chiến, có đều hiệp lực đồng tâm chống giữ địa phương để làng xóm được yên. Nếu chúng tôi sống chết cùng nhau không quên lời thề ước, thì chúng tôi cúi xin Trời, Đất và các vị Thần linh chứng giám cho, ban xuống trăm điều lành, cho từ thân đến nhà, dòng-dõi, con cháu đều được yên lành để đời đời hưởng lộc Trời.
Ví bằng Lê Lợi với 18 người từ Lê Lai đến Trương Chiến lại ra ý đổi đường, tìm sướng hiện thời, mập mờ xao lãng, không chịu đồng tâm, bỏ quên lời thề ước, thì chúng tôi cúi xin Trời, Đất và các vị Thần linh phát xuống trăm tai, cho từ thân đến nhà, dòng-dõi, con cháu đều chịu giết sạch, đúng với luật Trời.
Kính cẩn tâu trình!” (theo GS.Hoàng Xuân Hãn)
Lời thề Lũng Nhai đã liên kết những người anh hùng thành một khối thống nhất để cùng dựng nghiệp lớn. Tuy vậy, lúc này nghĩa quân Lam Sơn vẫn chỉ đang trong quá trình bí mật gây dựng lực lượng. Từ khắp nơi, anh hùng hào kiệt nghe tiếng càng theo về đông. Tiếng đồn xa thuận lợi cho việc chiêu mộ của Lê Lợi, nhưng cũng khiến quân Minh đánh hơi thấy điều bất thường. Trong một lần có tranh chấp về đất đai, Lê Lợi thắng kiện một người tên là Đỗ Phú. Người này ấm ức trong lòng, đem chuyện Lê Lợi bí mật gây dựng lực lượng cáo giác với giặc Minh. Tướng Minh trấn giữ vùng Thanh Hóa bấy giờ là Trần Trí, Sơn Thọ sai quân đến đánh, Lê Lợi lúc này quân chưa luyện, khí giới chưa chuẩn bị, phải chia nhau mỗi người chạy trốn một ngã. Quân Minh dẫn chó ngao truy lùng Lê Lợi, suýt đã bắt được nhưng Lê Lợi may mắn thoát nạn nhờ một con cáo trắng. Sách Lam Sơn Thực Lục thuật lại chuyện Lê Lợi thoát nạn rất ly kỳ:
“… Nhà vua cùng Lê Liễu chạy đến bên sông Khả Lam, bỗng thấy một người con gái nằm chết, mình còn mặc chiếc áo trắng, cùng đeo thoa vàng, xuyến vàng. Nhà-vua cùng Liễu ngửa mặt lên trời khấn rằng: “Tôi bị giặc Minh bức bách, xin phù hộ cho tôi thoát nạn này, ngày sau được Thiên hạ, xin lập làm miếu thờ, hễ có cỗ bàn, cúng nàng trước hết!”
Đắp mả chưa xong thì giặc xua chó ngao đến. Nhà-vua cùng Liễu chạy vào bộng cây đa! Giặc lấy mũi giáo nhọn đâm vào, trúng vào vế bên tả của Liễu, Liễu bốc cát cầm vuốt vào lưỡi giáo, cho khỏi có vết máu. Tự-nhiên bỗng thấy con cáo trắng chạy ra! Chó ngao liền đuổi cáo. Giặc không ngờ bèn kéo đi. Nhà vua mới được thoát …”
Đến khi quân Minh rút khỏi Lam Sơn, Lê Lợi lại cùng các bạn đồng chí của mình tụ họp trở lại, càng đem nhiều tiền của đút lót cho quan tướng Minh, giả cách nhu nhược để nuôi lòng tự cao của chúng. Quân Minh thấy Lê Lợi không có sức chống trả lại chủ động gởi phẩm vật, nên cũng xao lãng không bức bách mà thả sức quấy nhiễu nhân dân trong vùng, Lê Lợi tranh thủ thời gian, càng cố gắng xây dựng lực lượng, tích trữ lương thảo, rèn khí cụ…
Bấy giờ lại có tên ngụy quan Lương Nhữ Hốt tâu lên với giặc rằng: “Người chủ Lam Sơn chiêu nạp những kẽ vong mạng, và đãi ngộ sĩ tốt rất hậu, chí của người ấy không phải là nhỏ. Nếu không sớm tính đi, để cho con rồng có lúc gặp mây gặp mưa, thì khi ấy nó sẽ không còn là một con vật trong ao nữa đâu. Vậy xin trừ ngay đi, đừng để lưu tai vạ về sau này” (theo Đại Việt Thông Sử)
Tướng Minh tin lời, lại đem quân đến vây đánh. Biết được tin ấy, Lê Lợi quyết định phất cờ khởi binh sớm hơn dự định. Ngày 7.2.1418, đúng dịp Tết Nguyên Đán, Lê Lợi xưng Bình Định vương làm lễ tế cờ, truyền hịch cho khắp muôn dân cùng đánh đuổi giặc Minh. Với khí thế và quyết tâm cao độ, nghĩa quân Lam Sơn chính thức bước vào cuộc chiến gian lao.

Lê Lợi cảm khái tiễn anh hùng, Lê Lai cưỡi ngựa thề huyết chiến

   Đứng trước nguy cơ toàn quân bị diệt, Lê Lợi bất đắc dĩ phải tụ họp các tướng lại nói: “Nay trận thế hiểm nguy, có ai dám bắt chước việc Kỷ Tín (tướng nhà Hán, chết thay cho Lưu Bang) thời xưa, thân khoác hoàng bào mà chết thay ta không?”
Buổi đầu dựng cờ khởi nghĩa, lực lượng dưới trướng Bình Định vương Lê Lợi rất ít ỏi so với quân Minh. Theo sách Nguyễn Trãi toàn tập thì tính hết quân số, nghĩa quân Lam Sơn chỉ độ hơn 2000 người. Trong đó, chỉ có lực lượng nòng cốt gồm 200 quân Thiết đột, 200 Nghĩa sĩ, 300 Dũng sĩ là được trang bị tương đối tốt và có trình độ chiến đấu. Số quân còn lại vẫn chỉ là nông dân cầm vũ khí mà thôi. Chẳng những lực lượng ít, quân Lam Sơn ban đầu còn thiếu thốn vũ khí, quân nhu, quân lương bởi vì thời gian chuẩn bị cho khởi nghĩa đã bị rút ngắn lại ngoài dự kiến.
Chỉ một vài ngày sau lễ xuất quân, nghĩa quân Lam Sơn đã bước vào một trận chiến không cân sức. Trong tháng 2/1418 (tháng Giêng năm Mậu Tuất Âm lịch), tướng Minh là Mã Kỳ đốc suất 45.000 quân Minh, hàng trăm ngựa chiến, có cả voi chiến đến đánh. Tương quan lực lượng chênh lệch cực lớn, nghĩa quân Lam Sơn phải chiến đấu với tỷ lệ 1 chọi trên 20 quân giặc. Bất chấp chêch lệch, Lê Lợi cùng 47 tướng văn, tướng võ chia nhau dẫn quân mai phục ở Lạc Thủy, đón đánh quân Minh. Mã Kỳ cậy quân đông gấp nhiều lần, nên chia quân thành nhiều hướng hòng một mẻ diệt gọn quân Lam Sơn.
Trung tuần tháng Giêng, một nhánh quân Minh lọt vào trận địa mai phục của quân ta, bị đánh phá dữ dội. Bản thân Lê Lợi là một hổ tướng võ nghệ rất giỏi, cùng quân tướng cố sức lăn xả giết địch. 3000 quân Minh bỏ thây trong một trận chớp nhoáng, quân Minh từ các hướng sau đó mới dồn lại tấn công. Liệu thế không chống nổi số đông, Lê Lợi cho quân rút lui sang Mường Một (huyện Lang Chánh, Thanh Hóa). Quân Minh đuổi theo, Lê Lợi phải rút lên núi Chí Linh (thuộc Lang Chánh) cố thủ, mang theo nhiều khí giới vừa cướp được để tự trang bị.
Núi Chí Linh là một ngọn núi hiểm trở dễ thủ khó công. Khắp vùng là rừng núi hoang vu, dân cư thưa thớt. Với việc lui quân về đây, quân Lam Sơn tạm thời thoát khỏi cuộc vây ráp quy mô lớn của giặc, nhưng lại chịu cảnh thiếu thốn lương thực. Quân Minh lùng lục không được, bèn lui quân. Quãng thời gian đó, Lê Lợi và quân tướng của mình phải chịu đói khát. Trong hơn 10 ngày đóng trên núi Chí Linh, nghĩa quân đã phải ăn phấn đá (gọi là Vũ dư lương) trộn mật ong để sống sót.
Quân Minh tạm thời rút đi có thể là vì thiếu lương thực cho một chiến dịch dài hạn. Và chúng đã nhanh chóng trở lại sau đó. Lê Lợi dẫn quân vừa dẫn quân quay về căn cứ địa Lam Sơn chưa lâu thì lại phải đối đầu với trận càng quét mới. Lần này, Mã Kỳ được sự chỉ điểm của tên hai Việt gian tên là Ái và Đỗ Phú, đem quân đánh úp vào hậu phương của quân ta, bắt cóc nhiều vợ con của tướng sĩ, cả gia quyến của Bình Định vương Lê Lợi gồm vợ và con gái cũng bị giặc bắt, chúng còn quật mả nhà họ Lê lấy hài cốt đem đi, rồi kêu gọi Lê Lợi và quân tướng ra đầu hàng.
Quân tướng Lam Sơn bị mất gia đình, nhiều người sinh nản chí không còn tâm trạng chiến đấu. Quân Minh lại đến đánh, quân Lam Sơn tan vỡ mỗi người chạy một ngả. Lê Lợi cùng các tướng Đinh Lễ, Nguyễn Xí, Phạm Vấn, Lê Bí, Lê Đạp lại phải chạy lên núi Chí Linh. Các quân lính của Bình Định vương sau đó mới lần lượt chạy theo. Quân Minh vây núi, ngót gần 3 tháng trời nghĩa quân Lam Sơn bị tuyệt lương, còn gian khổ hơn lần trước rút lên núi. Ban đầu, Lê Lợi dùng lời trung nghĩa khích lệ quân sĩ, tinh thần mọi người lại phấn chấn. Quân Minh dẫn quân đánh lên núi đều bị quân ta cơ động đánh lui được. Thế nhưng quân lương đã cạn, nghĩa quân dần đi đến chỗ chịu chết đói. Trong những ngày tháng đó, quân ta phải ăn cả măng tre, rễ cỏ để sống. Bao nhiêu voi ngựa trong quân cũng phải đem giết thịt nuôi quân. Không những vậy, bốn phía quân Minh bủa vây đánh phá. Tình thế khốn đốn được miêu tả trong Chí Linh Sơn Phú của Nguyễn Mộng Tuân:
“Chín phần tử, một phần sinh. Tuy ở chốn hiểm nghèo mà ngất trời khí thế
Bao nhiêu nghịch, bấy nhiêu thuận. Khéo tùy cơ lợi dụng, thực tột bậc anh hùng”

Đứng trước nguy cơ toàn quân bị diệt, Lê Lợi bất đắc dĩ phải tụ họp các tướng lại nói:
“Nay trận thế hiểm nguy, có ai dám bắt chước việc Kỷ Tín (tướng nhà Hán, chết thay cho Lưu Bang) thời xưa, thân khoác hòang bào mà chết thay ta không?”
Các tướng im lặng nhìn nhau. Chỉ có Lê Lai người thôn Đặng Tú khảng khái đáp lời: “Thần nay nguyện được tử trận thay cho chúa công. Ví như sau này giành được giang sơn thì xin nghĩ đến công lao của thần, khiến cho con cháu muôn đời được nhờ quốc ân, được vậy thần chết cũng nhắm mắt”.
Lê Lợi vô cùng cảm khái. Lê Lai tiếp lời: “Tình hình nguy khốn, nếu ngồi khư khư, quân thần chung mạng, bao công sức đây hãy còn gì. Nếu theo kế này, may ra có thể thoát được. Kẻ trung thần chết vì nước nào có tiếc gì?”
Lê Lợi vái trời khấn rằng: “Lê Lai có công đổi áo, nếu sau này khôi phục nghiệp xưa, nếu không nhớ đến công lao ấy, thì xin cho cung điện biến thành rừng núi, ấn triện biến thành cục đồng, gươm thần biến thành dao cùn”
Lê Lợi khấn xong, Lê Lai liền khoác áo báo của chúa, cùng 500 quân cảm tử và 2 thớt voi xông thẳng xuống núi khiêu chiến. Quân Minh xuất quân nghênh chiến, Lê Lai thân cưỡi ngựa xông thẳng vào trận giặc, hô to: “Ta là chúa Lam Sơn đây”. Quân Minh tưởng thật, dồn sức vây chặt lấy. Lê Lai cùng quân cảm tử giao chiến với giặc kịch liệt, khiến quân Minh phải mất khá nhiều lực lượng. Sau một hồi, giặc vây càng đông, Lê Lai đuối sức bị bắt và bị giặc phanh thây. Bấy giờ là vào ngày 29.4.1419. Giặc Minh tưởng rằng đã giết được Lê Lợi, nên nới lỏng vòng vây, rút khỏi Lam Sơn về thành Tây Đô. Lê Lợi bấy giờ mới thoát hiểm, bí mật gom quân trở về Lam Sơn gây dựng lại căn cứ địa.
Người anh hùng Lê Lai cùng đội quân cảm tử đã đem tính mạng của mình để tiếp tục thắp lên một tia hy vọng cho dân tộc. Sự hy sinh đó đáng được muôn đời sau trân trọng. Lê Lợi sau đó ngầm sai người tìm thi hài Lê Lai về Lam Sơn mai táng. Về sau, Lê Lợi lên ngôi đã truy phong Lê Lai hàm Thiếu úy, liệt vào hàng Nhất Đẳng Công Thần. Khi sắp mất, Lê Lợi còn căn dặn làm giỗ Lê Lai trước ngày giỗ của mình như là một cách thể hiện lòng biết ơn với vị trung thần đã quên mình cứu chúa, cũng là cứu cho cuộc khởi nghĩa không sớm bị tiêu diệt. Ngoài những sự truy tặng của triều đình nhà Hậu Lê, Lê Lai còn được thờ phụng rộng rãi trong dân gian. Các thế hệ người Việt vẫn mãi lưu truyền câu chuyện về ông.

Ai Lao 'viện trợ' vũ khí, Lê Lợi hồi sức chống giặc Minh

   Có được nguồn quân lương, khí giới dồi dào, thế quân Lam Sơn phấn chấn lên hẳn. Lê Lợi âm thầm dẫn quân về Lam Sơn, tập kích đồn Khả Lam. Quân Minh bị bất ngờ vì cuộc hành quân bí mật của quân ta, chết mất hai tướng là Vương Cục, Lương Hướng.
Xét về thân phận, Lê Lợi tuy xuất thân nhà giàu sang, quyền thế nhưng chức tước thấp, theo quan niệm phong kiến xưa là chưa đủ danh phận để hiệu triệu quần hùng như những quý tộc Trần là vua Giản Định, vua Trùng Quang. Để có được sức hút chính trị đủ lớn phục vụ cho sự nghiệp đánh đuổi giặc Minh, Bình Định vương Lê Lợi cùng nghĩa quân Lam Sơn chỉ còn cách chứng tỏ phẩm chất vượt trội của mình so với các cuộc khởi nghĩa còn lại. Họ đã làm được điều đó. Sự can trường, sự bền bỉ của nghĩa quân Lam Sơn trước sức tấn công mãnh liệt, dồn dập của quân Minh là điều mà chưa từng có một phong trào kháng Minh nào làm được trước đó.
Trong năm 1418, nghĩa quân Lam Sơn chỉ có vài ngàn người. Sau hai lần phải rút lên núi Chí Linh, binh lực lại suy giảm. Lê Lai cùng 500 tử sĩ đã đánh đổi sinh mạng cứu lấy cuộc khởi nghĩa, và sự hy sinh đó đã được tận dụng triệt để. Sau khi quân Minh rút về thành Tây Đô, Lê Lợi liền âm thầm dẫn quân về Lam Sơn, đắp thành tích lương, chiêu mộ thêm quân, gửi hịch cho các phong trào yêu nước khác trong nước cùng liên kết lại chống kẻ thù chung. Trong năm 1419, quân Lam Sơn tạm ngưng các kế hoạch chiến đấu, chỉ chuyên tâm lo việc gây dựng lực lượng. Được sự đồng lòng che chở của nhân dân, nghĩa quân lớn mạnh lên từng ngày.
Tháng 5.1419, quân Minh lại đánh hơi được việc quân Lam Sơn vẫn chưa tan rã. Tướng giặc là Phương Chính, Sư Hữu liền đem lực lượng đông đúc trở lại Lam Sơn, quyết tiêu diệt cuộc khởi nghĩa. Quân Lam Sơn lại phải rút lui khỏi căn cứ, Lê Lợi đem quân đến đóng ở Mường Thôi (biên giới Việt Lào ngày nay, ở tây bắc Thanh Hóa) tránh giặc. Quân Minh lần này không rút đi nữa, tướng Hoàng Thành, Chu Quảng đóng quân dựng đồn Khả Lam để kìm tỏa nhân dân, toan tách dân khỏi nghĩa quân Lam Sơn.
Lê Lợi ở Mường Thôi, dùng mưu sai Trịnh Khả, Lê Lôi đi sứ Ai Lao, đưa thư nói rằng: “Quốc gia tôi phụng tờ thông điệp của triều Đại Minh ban cho nhà vua. Vậy nhà vua hãy đem số lương thực đủ quân sĩ dùng trong 5 tháng, và khí giới cùng voi trận tới yết kiến, rồi nhận tờ điệp văn về thi hành, để khỏi phải bắt giải. Nếu không tuân mệnh, lập tức sai nước Xa Lý và Lão Qua hợp quân 6 nước tiến đánh”. Trước sự mưu trí của Trịnh Khả và Lê Lôi, vua Ai Lao tưởng thật, vội vãi đem quân nhu, lương thực, khí giới và voi chiến gửi cho Bình Định vương Lê Lợi.
Vậy là quân ta có được nguồn lực lớn trong lúc nguy khó nhờ mưu kế tài tình. Có được nguồn quân lương, khí giới dồi dào, thế quân Lam Sơn phấn chấn lên hẳn. Lê Lợi âm thầm dẫn quân về Lam Sơn, tập kích đồn Khả Lam. Quân Minh bị bất ngờ vì cuộc hành quân bí mật của quân ta, chết mất hai tướng là Vương Cục, Lương Hướng. Quân Lam Sơn sau khi gây cho địch một số thiệt hại liền nhanh chóng rút lui. Tướng giặc là Hoàng Thành muốn đem quân truy kích, nhưng ngại rừng thiêng nước độc, dâng thư lên cấp trên xin đợi đến mùa thu mới xuất quân. Chốn núi rừng tây Thanh Hóa là hiểm địa đối với quân Minh, nhưng lại là cái nôi che chở nghĩa quân Lam Sơn thời kỳ đầu. Lê Lợi lúc này giữ quan hệ tốt với Ai Lao, dựa vào rừng núi mà phát triển thực lực.
Trong khi quân Minh tại Thanh Hóa dù đã rất quyết tâm nhưng không tiêu diệt được quân Lam Sơn, thì trên khắp cả nước, quân Minh lại phải đương đầu với một làn sóng phản kháng mới. Tại Nghệ An tháng 7.1419, ngụy quan Phan Liêu nổi dậy chống lại người Minh. Trước đây, Phan Liêu cùng cha mình là Phan Quý Hữu vì muốn yên thân nên phản lại nhà Hậu Trần, nhận chức tước của giặc. Phan Liêu được quân Minh phong tước tri phủ Nghệ An. Thế nhưng sau mấy năm làm quan cho giặc, Liêu thường bị tướng Minh là Mã Kỳ hạch sách đồ cống phẩm, chèn ép đủ điều nên đã mật ước cùng ngụy quan Trần Đài làm binh biến, giết chết quan lại người Minh, dẫn quân đánh thành Nghĩa Liệt là nơi chủ lực quân Minh ở Nghệ An đóng giữ.
Tổng binh Lý Bân từ Đông Quan biết tin, tức tốc dẫn quân ứng cứu. Khi Bân đến Nghệ An, thành đã sắp vỡ, bèn sai ngụy quan Lộ Văn Luật làm tiên phong tiến đánh Liêu. Lộ Văn Luật sợ phải làm tiên phong nên bỏ cùng thuộc hạ bỏ trốn, chiếm lấy huyện Thạch Thất. Lý Bân phải tự mình dẫn quân đánh Phan Liêu, và đánh cả Lộ Văn Luật. Quân Minh mạnh vượt trội, lần lượt đánh bại cả Phan Liêu và Lộ Văn Luật dễ dàng. Liêu và Luật đều chạy sang Ai Lao nương nhờ. Mặc dù cuộc binh biến của Phan Liêu và Lộ Văn Luật là một sự kiện chống Minh nổi bật trong giai đoạn này, nhưng không xếp vào trong phong trào kháng Minh cứu nước mà chỉ được xem là một cuộc xung đột lợi ích giữa bọn tay sai và chính quyền đô hộ. Lộ Văn Luật sang Ai Lao, vẫn ghen ghét Bình Định vương Lê Lợi được hào kiệt mến mộ và được lòng vua Ai Lao nên thường dùng lời ly gián. Vua Ai Lao vì thế dần sinh lòng nghi ngại Lê Lợi, quan hệ giữa quân Lam Sơn và Ai Lao không còn tốt đẹp nữa.
Ngoài các cuộc binh biến ở Nghệ An, quân Minh còn phải vất vả đối phó với một loạt cuộc khởi nghĩa nổ ra trong thời gian gian ngắn. Quân khởi nghĩa xuất hiện dày đặc ở vùng đồng bằng sông Hồng. Trịnh Công Chứng và Lê Hành nổi lên ở Hạ Hồng, Phạm Thiện ở Tân Minh, Nguyễn Đặc ở Khoái Châu, Nguyễn Đa Cấu và Trần Nhuế ở Hoàng Giang… Lúc Lý Bân đem quân vào đánh Phan Liêu ở Nghệ An, các thủ lĩnh nghĩa quân đã chớp thời cơ, táo bạo hẹn nhau đem quân tiến đánh thành Đông Quan – thủ phủ của chính quyền đô hộ. Quân Minh ở đây còn rất ít ỏi, nhưng đã đóng chặt cửa thành, dựa vào thành lũy mà cố thủ. Lý Bân vừa dẹp xong Phan Liêu và Lộ Văn Luật lại phải quay trở về đánh giải vây cho Đông Quan. Quân khởi nghĩa không hạ được thành Đông Quan, khi Lý Bân kịp trở về cứu viện thì nhanh chóng bị quân Minh phản kích đánh tan.
Tại Lạng Sơn, có người nô lệ tên là Lê Ngạ xưng là cháu của Trần Duệ Tông, đổi tên là Trần Dương Cung, liên kết với thổ tù Bế Thuấn khởi binh chống Minh. Lê Ngạ xưng là Thiên Thượng hoàng đế, nhờ oai danh của nhà Trần mà chỉ trong độ hơn 1 tháng đã quy tụ được hàng vạn quân. Lê Ngạ đem quân đánh phá thành Xương Giang, rồi đánh Bình Than, thanh thế rất lớn. Bấy giờ có Trần Thiên Lại, trước là chủ nhân của Lê Ngạ, thấy gia nô cũ của mình mượn tiếng quý tộc khởi nghĩa thì sinh lòng bất phục, bèn tự xưng là Hưng Vận quốc thượng hầu, mộ binh đánh nhau cả với Lê Ngạ và quân Minh. Trần Thiên Lại rất tích cực viết hịch kể rõ xuất thân nô lệ của Lê Ngạ với mọi người, và chỉ trích việc Lê Ngạ giả danh quý tộc.
Những việc làm của Trần Thiên Lại đã khiến cho cuộc khởi nghĩa của Lê Ngạ tổn hại trầm trọng, thuộc hạ của Ngạ dần bỏ đi gần hết. Lý Bân đợi lúc Lê Ngạ và Trần Thiên Lại đánh nhau đuối sức rồi mới tung quân đánh, dẹp được cả hai. Đây là một sự kiện khá hy hữu trong lịch sử, trong khí thế chống quân Minh, Trần Thiên Lại chỉ vì việc cá nhân mà khởi binh đánh lại một phong trào kháng Minh.
Những cuộc khởi nghĩa liên tiếp diễn ra khiến cho Lý Bân phải vất vả đánh dẹp liên tục. Quân Minh vẫn tạm thời chiếm ưu thế trên các mặt trận nhờ luôn duy trì một lực lượng viễn chinh trên dưới 10 vạn quân và hàng vạn ngụy quân. Nhưng giặc không thể nào rảnh tay để triệt để giữ yên một vùng nào, chỉ giữ được trị an ở trong các thành trì lớn, các phủ huyện, đồn quân. Còn tại những nơi hẻo lánh, rừng núi, sự kiểm soát của quân Minh không ngăn được việc khai sinh các phong trào khởi nghĩa. Trong bối cảnh đó, quân Lam Sơn càng có thêm nhiều thời gian để củng cố lực lượng. Nghĩa quân Lam Sơn không đơn độc. Cuộc chiến của họ là cuộc chiến chung của cả dân tộc Việt.

Lê Lợi giăng thiên la địa võng, đại phá 10 vạn quân Minh


10 vạn quân Minh rơi vào cạm bẫy
   Lý Bân cùng Phương Chính dùng tên Cầm Lạn là phụ đạo Quỳ Châu (thuộc Nghệ An ngày nay) làm kẻ dẫn đường, từ hướng Quỳ Châu tiến đánh quân Lam Sơn, quân đông đến 10 vạn. Quân số lần này cho thấy được rằng quân Minh đánh giá nghĩa quân Lam Sơn rất cao và cũng rất quyết tâm tiêu diệt cuộc khởi nghĩa.
Do vấp phải sự phản kháng của nhân dân cả nước ta, quân Minh đã có quãng thời gian vất vả, buộc phải tạm ngưng các chiến dịch quyết định để tiêu diệt cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Nhưng vẫn lượng quân thường trực đông đảo, chính quyền đô hộ lại một lần nữa giành lại được quyền kiểm soát toàn lãnh thổ. Phong trào khởi nghĩa bùng phát mạnh trong năm 1419 nhưng manh mún không có điểm tựa chung, dần đi đến chỗ tàn lụi. Cho đến nửa cuối năm 1420, Tổng binh Lý Bân vừa rảnh tay sau những cuộc hành quân đánh dẹp liên tục các cuộc khởi nghĩa, đã bắt đầu chiến dịch tấn công đội quân của Bình Định vương Lê Lợi.
Tháng 11.1420, Lý Bân sai Chỉ huy sứ Phương Chính đem quân tiến vào rừng núi tìm diệt quân Lam Sơn. Lúc này quân ta đã đông mạnh hơn hẳn thời gian đầu, nhân dân trong vùng đã chủ động cho con em mình vào rừng tìm đến chỗ Lê Lợi để xin gia nhập nghĩa quân. Ước chừng thời điểm này, quân Lam Sơn đã có số lượng lên đến hơn 1 vạn người. Tất nhiên là quân ta vẫn không thể so sánh với quân Minh về số lượng và trang bị, nên phải lựa chọn cách đánh thích hợp theo phương châm lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh. Lê Lợi cho quân mai phục ở bến Bổng Tân, thượng lưu sông Chu đợi giặc.
Phương Chính vẫn ỷ rằng quân mình đông mạnh, cứ men theo dọc sông Chu tiến quân, nhằm hướng căn cứ của quân Lam Sơn mà chúng mới do thám được tin tức. Ngày 30.11.1420, Phương Chính dẫn quân lọt vào đúng trận địa mai phục của quân ta. Lê Lợi chờ cho giặc tiến sâu vào giữa trận địa mai phục rồi mới phát lệnh tấn công. Quân mai phục từ bốn phía vùng dậy vây lấy giặc mà đánh giết. Quân Minh bị bất ngờ không kịp trở tay, phút chốc đã bị tổn thất nặng nề, số quân còn lại mặc dù còn đông nhưng nhanh chóng vỡ trận bỏ chạy tứ tán trước khí thế tấn công của nghĩa quân Lam Sơn. Quân ta toàn thắng, thu được hơn trăm con ngựa chiến.
Sau trận đại thắng, thanh thế nghĩa quân Lam Sơn rất lớn, nhân dân trong vùng nô nức đến tòng quân. Phương Chính thua trận lại rút về tuyến sau, đóng trại phòng thủ. Lê Lợi thắng được một trận quan trọng, nhưng biết rằng gian nan vẫn còn rất lớn. Ngài nói với các tướng : “Quân địch vừa mới thua trận, tất nhiên chúng để tâm đề phòng cẩn mật. Vậy ta không nên giao chiến”. Thế nhưng các tướng Lam Sơn vừa mới đại thắng, đem lòng khinh địch. Có người dẫn quân đến phá trại giặc, bị Phương Chính đánh bại, tổn thất nặng nề. Lê Lợi biết quân Minh vẫn còn rất đông, bèn dời quân đến Nang Ninh để tránh. Quân Minh lại mở đợt hành quân tiến đánh Nang Ninh, Lê Lợi dẫn quân tránh đến Mường Thôi (tây bắc Thanh Hóa, chưa rõ địa điểm cụ thể).
Lý Bân từ nhận thấy Phương Chính đánh không dứt điểm được, tự mình dẫn thêm quân đến tiếp viện. Lý Bân cùng Phương Chính dùng tên Cầm Lạn là phụ đạo Quỳ Châu (thuộc Nghệ An ngày nay) làm kẻ dẫn đường, từ hướng Quỳ Châu tiến đánh quân Lam Sơn, quân đông đến 10 vạn. Quân số lần này cho thấy được rằng quân Minh đánh giá nghĩa quân Lam Sơn rất cao và cũng rất quyết tâm tiêu diệt cuộc khởi nghĩa. Lý Bân dự định rằng dẫn quân tấn công từ hướng Quỳ Châu sẽ khiến quân ta bị bất ngờ, lại thêm số lượng áp đảo hoàn toàn sẽ đảm bảo chắc chắn một chiến thắng cho quân Minh. Nhưng nhờ vào tai mắt của nhân dân trong vùng, mọi đường đi nước bước của quân Minh đều được bộ chỉ huy nghĩa quân nắm được. Dựa vào đó, Lê Lợi xếp đặt thế trậnđón đánh giặc.
Khoảng vài trăm quân tinh nhuệ dưới sự chỉ huy của tướng Phạm Vấn, Lê Triệu chuẩn bị trận địa mai phục ở Bồ Mộng để đón lõng quân Minh. Quân chủ lực Lam Sơn thì chia làm nhiều hướng bố trí mai phục ở Bồ Thi Lang, nằm trên đường mà quân Minh phải đi qua để đến đại doanh của Lê Lợi đóng ở Mường Thôi. Khi giặc từ Quỳ Châu kéo đến, Lê Lợi sai hai tướng Lê Lý, Lê Hướng dẫn vài ngàn khinh binh ra đón đánh, rồi giả thua dụ địch vào trận địa mai phục ở Bồ Mộng. Quân Minh ban đầu chiếm được lợi thế, hăm hở đuổi theo quân của hai tướng Lê Lý, Lê Hướng.
Giặc đuổi đến Bồ Mộng, gặp phục binh quân ta nổi lên cùng số quân đang rút lui quay lại quyết trận sống mái với chúng. Bốn mãnh tướng Lam Sơn là Phạm Vấn, Lê Triệu, Lê Lý, Lê Hướng cùng các quân lấy ít đánh nhiều, bẻ gãy mũi tiên phong của giặc, chém được hơn ba trăm thủ cấp tại trận. Quân Minh núng thế, nhưng vẫn còn rất đông. Các tướng Minh cứ bất chấp tổn thất nhân mạng của binh lính mà tiến. Phạm Vấn cùng các tướng ít quân phải lui, mở đường cho quân Minh càng tiến sâu vào rừng núi.
Lý Bân, Phương Chính vượt qua được ải Bồ Mộng, cứ nhằm hướng đại doanh Lê Lợi hùng hổ tiến lên. Đến Bồ Thi Lang, lại trúng mai phục lớn. Lần này, quân giặc không còn đối mặt với vài trăm quân, mà là hàng vạn quân mai phục, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Bình Định vương Lê Lợi. Giặc lấy tốc chiến làm lợi thế, cứ tiến gấp mà thiếu dò xét, trong khi quân tướng Lam Sơn đều lấy chiến thuật mai phục làm sở trường. Chờ cho phần đông quân Minh lọt vào trận địa đã chuẩn bị sẵn, Lê Lợi phát lệnh tấn công. Tên đạn như mưa trút vào quân Minh, kế đến là lớp lớp quân Lam Sơn từ các hướng xông thẳng vào chia cắt đội hình giặc mà giáp chiến.
Quân Minh ban đầu cố sức chống trả, nhưng trước tinh thần chiến đấu xả thân của quân ta, giặc nhanh chóng chịu tổn thất nặng đến hơn 3.000 quân, dẫn đến vỡ trận, quân tướng tranh nhau chạy dài. Lê Lợi thừa thắng thúc toàn quân đuổi gấp, không cho quân Minh có thời gian tái tổ chức lại lực lượng. Quân ta đuổi liên tục 3 ngày đêm không ngừng nghỉ, dọc đường chém giết quân Minh nhiều vô kể. Chủ tướng quân Minh là Lý Bân, Phương Chính hoảng hốt không đoái hoài đến sĩ tốt, mạnh ai nấy chạy thoát thân.
Đến sách Ba Lẫm, huyện Lỗi Giang (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa ngày nay), Lê Lợi cho dừng quân nghỉ ngơi, sửa sang khí giới, chỉnh đốn lại hàng ngũ. Quân Minh tại các đồn vốn đóng quanh vùng rừng núi tây Thanh Hóa để kìm kẹp quân dân ta, nay trước thế mạnh của quân Lam Sơn đều phải bỏ đồn rút lui. Các tướng giặc là Tạ Phượng, Hoàng Thành dồn quân về đóng giữ trại Quan Du (thuộc huyện Quan Hóa, Thanh Hóa), che chắn cho thành Tây Đô bấy giờ là thủ phủ Thanh Hóa, cũng là một thành trì tối quan trọng trong hệ thống quân sự của giặc Minh tại vùng lãnh thổ phía nam Đại Việt.
Lê Lợi sai quân khiêu chiến, quân Minh cố thủ trong trại không ra đánh. Quân ta bèn chia quân làm nhiều toán, luân phiên nhau đánh phá trại Quan Du bất kể đêm ngày. Hễ toán quân này đánh giặc, thì các toán quân khác ở trong trại nghỉ ngơi dưỡng sức. Cứ thế ngày qua ngày, quân ta càng đánh càng hăng, mà giặc ở trại Quan Du thì luôn căng thẳng chống đỡ rất mệt mỏi. Thấy thế giặc đã mệt mỏi, Lê Lợi một mặt vẫn cho quân tấn công hướng chính diện, đồng thời sai hai tướng Lê Sát, Lê Hào cầm kỳ binh đánh úp vào trại giặc ở một hướng khác. Quân Minh thế đã suy, lại bị bất ngờ nên không thể chống nổi. Trại Quan Du vỡ, quân Lam Sơn tràn vào tàn sát quân Minh, chém giặc hơn 1 vạn tên, khí giới thu được rất nhiều.
Sau những trận đại thắng liên tiếp, oai danh của Bình Định vương Lê Lợi lừng lẫy khắp cả nước. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bấy giờ vẫn chưa ra khỏi địa phương Thanh Hóa, nhưng sức hút của nó thực sự đã mang tính toàn quốc. Quân Minh từ sau trận Quan Du, thế ngày một suy. Còn nghĩa quân Lam Sơn càng đánh càng mạnh, nhân dân khắp nơi luôn chực chờ giúp sức cùng đoàn quân dưới trướng Lê Lợi giải phóng non sông.

Quân Minh - Ai Lao tạo gọng kìm, Lê Lợi mở con đường máu

   Với tinh thần chiến đấu quên mình, quân Lam Sơn đã tạo nên một trận đánh huyền thoại. Các tướng Lam Sơn là Lý Triện, Lê Hướng, Lê Lĩnh, Lê Hào, Phạm Vấn… dẫn quân xông ra phá vòng vây, tướng sĩ người người tranh nhau tiến lên trước, thế mạnh như bão táp. Tham tướng nước Minh là Phùng Quý bị chém chết tại trận, cùng với hơn 1.000 quân Minh bỏ mạng trong chốc lát, 100 con ngựa chiến rơi vào tay nghĩa quân Lam Sơn.
Việc Ai Lao trở giáo theo quân Minh là một mối nguy rất lớn cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Mặc dù trong năm 1421, quân ta liên tục đánh bại quân Minh và quân Ai Lao nhưng cũng chịu tổn thất không nhỏ. Thời điểm bấy giờ cả ta và địch đều cần thời gian nghỉ ngơi, bổ sung lại lực lượng. Năm 1422, Lê Lợi thu quân từ Ai Lao về đóng ở trại Quan Du để giữ thế kìm tỏa quân Minh trong thành Tây Đô, đồng thời tích cực dưỡng quân tích lương, chuẩn bị cho những chiến dịch lớn.
Về phía địch, cả quân Ai Lao và quân Minh cũng đều tranh thủ gom quân thành lập các mũi tấn công mới. Tháng 3.1422, thành phần tướng lĩnh quân Minh ở nước ta có thay đổi. Tổng binh Lý Bân chết. Tham tướng Trần Trí lên thay Bân giữ chức Tổng binh, nắm quyền cao nhất trong lực lượng quân Minh tại Đại Việt. Bằng việc nắm giữ nguồn tài lực dồi dào hơn quân Lam Sơn rất nhiều, quân Minh và quân Ai Lao đều có sự phục hồi sức mạnh nhanh. Đến cuối năm 1422, liên quân Minh – Ai Lao bắt đầu lập kế hoạch tấn công mới. Từ Đông Quan, các tướng Minh là Trần Trí, Mã Kỳ đem đại quân xuống Thanh Hóa, nhằm hướng trại Quan Du là nơi Lê Lợi đóng đại doanh. Ai Lao cũng đem lực lượng tiến đóng ở Kiệt Mang, chờ phối hợp với quân Minh tấn công quân Lam Sơn từ hướng tây nam. Quân Minh có chiến kỵ mạnh, quân Ai Lao có tượng binh mạnh, tạo thành thế 2 gọng kìm kẹp quân Lam Sơn vào giữa. Địch đã đông lại đánh quân ta từ cả hai phía trước sau, thế rất hung hiểm.
Trước tình hình đó, Lê Lợi quyết định sai tướng Nguyễn Chích dẫn quân đánh vào cánh quân Ai Lao trước khi quân Minh kịp tới để phá thế gọng kìm. Nguyễn Chích trước kia dựng căn cứ Hoàng Nghiêu, phất cờ khởi nghĩa từ những năm 1413, cũng là một thế lực nghĩa quân có tiếng trong vùng Thanh Hóa. Nhiều lần quân Minh đem quân tiến đánh, Nguyễn Chích vẫn cùng đội quân của mình đứng vững, giữ quyền kiểm soát ba huyện Đông Sơn, Nông Cống, Ngọc Sơn. Sau khi Lê Lợi xưng vương, khởi nghĩa đánh quân Minh, lập được nhiều chiến công, Nguyễn Chích cảm phục dẫn quân mình đến xin gia nhập. Sự tham gia của Nguyễn Chích thể hiện tinh thần đoàn kết vì lợi ích chung.
Được Lê Lợi giao trọng trách đánh quân Ai Lao, Nguyễn Chích hết lòng chiến đấu. Quân Ai Lao đánh với Nguyễn Chích không chống nổi phải rút lui, nhưng chúng vẫn còn lực lượng khá đông. Chỉ 3 ngày sau, quân Minh lại cùng quân Ai Lao hai mặt cùng tiến đánh Quan Du. Nghĩa quân Lam Sơn cũng chia quân làm 2 mặt đánh trả lại. Trận chiến diễn ra ác liệt và dai dẳng, quân ta chết và bị thương nhiều. Lê Lợi nhận thấy tình hình bất lợi, muốn dẫn quân rút lui. Nhưng lúc này quân Ai Lao đã chắn mất lối đi về căn cứ địa, còn quân Minh thì bủa vây trước mặt. Lê Lợi nhân đêm tối đem quân lặng lẽ bỏ trại rút lui về hướng bắc, kéo đến đóng ở Khôi Huyện (thuộc Nho Quan, Ninh Bình ngày nay). Việc quân Lam Sơn lui về hướng bắc khiến cho quân Minh và quân Ai Lao không lường được, cho nên quân ta có thời gian thoát khỏi vòng vây. Nhưng chẳng lâu sau, liên quân Minh – Ai Lao đã phát hiện ra và nhanh chóng đuổi theo.
Nghĩa quân Lam Sơn đóng ở Khôi Huyện dưỡng thương, nghỉ ngơi vàgấp rút sửa chữa vũ khí. Lê Lợi đóan rằng quân giặc sẽ sớm đến, cố gắng an ủi sĩ tốt, sẵn sàng chờ đánh giặc. Quả nhiên chỉ sau 7 ngày, quân Minh và quân Ai Lao đã hùng hổ tiến đến. Giặc không dồn quân đánh thẳng ngay mà chia binh làm 4 đạo, đi vòng bủa vây quân ta từ 4 hướng, quyết không cho nghĩa quân một con đường thoát nào. Trong tình thế nguy cấp, Bình Định vương Lê Lợi cho tụ họp tướng sĩ, nói rằng: “Giặc vây ta bốn mặt, có muốn chạy cũng không có lối nào. Đây chính là tử địa mà binh pháp đã nói, đánh nhanh thì sống, không đánh nhanh thì chết”.(theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
Dứt lời, ngài sa hai hàng lệ. Tướng sĩ đều cảm khái, quyết liều chết với giặc. Với tinh thần chiến đấu quên mình, quân Lam Sơn đã tạo nên một trận đánh huyền thoại. Các tướng Lam Sơn là Lý Triện, Lê Hướng, Lê Lĩnh, Lê Hào, Phạm Vấn… dẫn quân xông ra phá vòng vây, tướng sĩ người người tranh nhau tiến lên trước, thế mạnh như bão táp. Tham tướng nước Minh là Phùng Quý bị chém chết tại trận, cùng với hơn 1.000 quân Minh bỏ mạng trong chốc lát, 100 con ngựa chiến rơi vào tay nghĩa quân Lam Sơn. Quân ta nhằm thẳng vào hướng hai đại tướng nước Minh là Tổng binh Trần Trí, Nội quan Mã Kỳ mà đánh gấp, ai chống là chết. Tướng giặc không chống nổi cách đánhquyết tử của binh tướng Lam Sơn, cắm đầu bỏ chạy về hướng thành Đông Quan. Các hướng quân Minh do đó mà nối nhau tan vỡ, dù rằng vẫn còn rất đông. Tướng Ai Lao là Mãn Sát thấy quân Minh tan chạy, rất khiếp sợ quân ta nên cũng lệnh cho quân Ai Lao rút nhanh.
Quân Lam Sơn làm nên một chiến tích phi thường với tổn thất cũng khá nặng nề. Khôi Huyện bấy giờ cũng là nơi không tiện đóng giữ vì nằm giữa tuyến đường từ thành Đông Quan đến thành Tây Đô, đóng quân tại đây rất dễ bị vây. Bình Định vương Lê Lợi sau trận đánh đẫm máu đã dẫn quân rút về núi Chí Linh, dựa vào núi rừng hiểm trở mà cố thủ. Đây là lần thứ ba quân Lam Sơn rút lên núi Chí Linh. Nơi này là nơi thiện hiểm, dễ thủ khó công, giúp đảm bảo an toàn cho nghĩa quân nếu quân Minh ỷ đông tiến đánh. Nhưng núi Chí Linh cũng là nơi dân cư thưa thớt, rừng thiêng nước độc. Sau liên tiếp những trận chiến ác liệt với giặc mạnh, giờ đây nghĩa quân Lam Sơn lại phải đương đầu với những ngày tháng gian khổ thiếu thốn. Sự gian khổ và tinh thần vượt khó để đi đến thắng lợi của binh tướng Lam Sơn đã được Nguyễn Trãi mô tả lại trong Bình Ngô Đại Cáo
:Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm
Cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan

Tạm dịch :
Trời thử lòng người trao cho mệnh lớn 
Ta đấy gắng chí khắc phục gian nan

Nguyễn Trãi vung bút lừa giặc, Lê Lợi mài gươm chờ thời

   Nguyễn Trãi đã dùng lời văn của mình lèo lái các sự kiện theo một hướng khác, làm thay đổi tính chất thực của sự việc và không quên khoét sâu vào tâm lý kiêu ngạo của kẻ địch. Sứ giả Lê Trăn, Lê Vận đưa thư cầu hòa được thuận lợi. Thông qua Sơn Thọ và Mã Kỳ, Tổng binh Trần Trí chấp nhận giảng hòa với Bình Định vương Lê Lợi. Quân ta trở về căn cứ Lam Sơn nghỉ ngơi, bồi dưỡng lực lượng.
Đầu năm 1423, Lê Lợi đem quân về núi Chí Linh thủ hiểm. Nghĩa quân Lam Sơn sau những trận đánh ác liệt, mặc dù liên tục chiến thắng oanh liệt những đã chịu nhiều tổn thất. Tiếp đó, tướng sĩ lại phải chịu đựng sự cùng cực do sống trong núi rừng thưa thớt. Lúc này việc tiếp tế gặp khó khăn, nghĩa quân dần rơi vào cảnh thiếu thốn lương thực. Suốt hai tháng liền, trong quân chỉ ra rau dưa cầm hơi, rồi đến ăn cả cỏ cây, măng tre. Lê Lợi trong lúc khốn khó, phải lệnh giết 4 con voi trận của mình và một số ngựa chiến để nuôi quân. Tình hình đói khổ quá mức, một số người không chịu đựng nổi bắt đầu kéo nhau đào ngũ.
Lê Lợi phải dùng nghiêm lệnh, bắt được viên tướng đào ngũ tên là Khanh, liền cho chém rao. Nhờ dùng biện pháp mạnh, kỷ luật quân Lam Sơn lại được giữ vững, không còn người đào ngũ nữa. Nhưng tướng sĩ khổ sở đã lâu, muốn nghỉ ngơi, đồng loạt khuyên Bình Định vương tạm hòa hoãn với quân Minh. Lê Lợi bất đắt dĩ phải thuận theo, sai hai người thân cận là Lê Vận, Lê Trăn đem thư sang trại Sơn Thọ, Mã Kỳ cầu hòa. Thư do Thừa chỉ Nguyễn Trãi soạn thay lời Bình Định vương, lời lẽ tỏ ra rất nhún nhường :
Tôi nghe nói: “Sinh đời thái bình, ai chẳng được ở yên; gặp đời thánh minh, ai chẳng được thỏa sống”. Nay tôi sinh đời bình, gặp thời thịnh, mà lại thường phải than là mất chỗ ở yên là cớ làm sao? Trước vì tri huyện Đỗ Phú là người đồng hương, cùng tôi có hiềm khích, nó đút lót tham chính Lương Nhữ Hốt, nói vu cho tôi khinh mạn quan trên, cậy mạnh mà chống lại mệnh trên, nếu không trị trước, tất có lo sau. Nhữ Hốt báo với quan quản binh cùng nội quan Mã Kỳ nhân đó cho quan quân đến đánh úp bộ chúng tôi, không kể trẻ già, đều bị chém giết bắt bớ, họ hàng tôi đều tan tác, vợ con tôi đều chia lìa. Lại khai quật mồ mả tổ phụ tôi phơi bày hài cốt.
Tôi không biết kêu đâu, tiến thoái đều khó, bèn sai thân nhân đến Tam ty tạ tội, thì hai ba lần sứ đi đều bị giết, không ai được về. Tôi không biết tính sao, đành phải chạy đi núp náu cho qua năm tháng, để đợi quan trên xét soi. Sống tạm nơi rừng núi đã sáu năm trời, ngày cơm hai bữa, chưa từng có bữa nào no. Song chim tinh vệ lấp biển, há quản gian lao, kẻ oan ức trả thù, cũng liều sống thác. Nên tôi đem bộ chúng đến vây quê nhà Đỗ Phú, bắt họ hàng làng xóm nó để hả lòng căm giận mà thôi, đâu dám có chí khác.
Nay nghe quan tổng binh là bực đức lớn ân rộng, tâm như Đặng Vũ dụ địch, chính như Hoàng Bá dạy dân, thực là dịp cho tôi được đổi lỗi sửa mình. Vậy xin kính sai bọn anh họ là Lê Vận dâng thư đến viên môn, giải bày oan khổ, cúi xin đại nhân tha cho lỗi đã qua, mở cho đường đổi mới. Nếu được rủ lòng khoan thứ, thật là ơn tạo hóa của trời đất vậy. (trích Quân Trung Từ Mệnh Tập)
Nguyễn Trãi đã dùng lời văn của mình lèo lái các sự kiện theo một hướng khác, làm thay đổi tính chất thực của sự việc và không quên khoét sâu vào tâm lý kiêu ngạo của kẻ địch. Sứ giả Lê Trăn, Lê Vận đưa thư cầu hòa được thuận lợi. Thông qua Sơn Thọ và Mã Kỳ, Tổng binh Trần Trí chấp nhận giảng hòa với Bình Định vương Lê Lợi. Quân ta trở về căn cứ Lam Sơn nghỉ ngơi, bồi dưỡng lực lượng.
Việc giảng hòa thành công có công lao rất lớn của văn thần Nguyễn Trãi và hai sứ giả Lê Trăn, Lê Vận. Tuy nhiên văn chương của Nguyễn Trãi có hoa mỹ đến đâu, tài ăn nói của sứ giả có lưu loát đến đâu cũng không thể nói suông với quan tướng nước Minh mà khiến chúng giảng hòa được. Thực ra, phía giặc Minh chấp nhận hòa hoãn cũng là vì chúng đang gặp những khó khăn nghiêm trọng, và đã sẵn có ý muốn chiêu dụ Lê Lợi.
Bởi vì Trần Trí đánh nhau với quân Lam Sơn đã lâu ngày, điều động mấy lần lên đến hàng chục vạn quân mà vẫn thường bại trận, đã sợ uy thế của Lê Lợi. Trong khi đó, tình hình phương bắc cũng không cho phép Chu Đệ tiếp tục gửi thêm quân tăng viện cho chiến trường Đại Việt. Trước đây, Chu Đệ vừa muốn đánh Mông Cổ, vừa muốn nam chinh nên áp dụng chính sách chia rẽ, mua chuộc các bộ tộc Mông Cổ, lợi dụng bộ tộc này đánh bộ tộc kia. Chính sách này ban đầu đem lại tác dụng lớn, nhưng dần dần các thế lực Mông Cổ đều nhận ra sự gian trá của Chu Đệ, bắt đầu liên kết nhau đồng loạt tấn công nước Minh còn mạnh mẽ hơn trước. Bộ tộc Ngõa Lạt, thế lực Mông Cổ hùng mạnh nhất lúc bấy giờ đã liên tiếp uy hiếp biên thùy phía bắc nước Minh.
Chu Đệ phải mấy lần thân chinh, động binh mỗi lần hàng chục vạn quân, quốc khố nước Minh trở nên trống rỗng, dân chúng điêu đứng vì chiến tranh. Năm 1423, Chu Đệ dẫn quân tiến sâu vào đất Mông Cổ, nhưng quân Ngõa Lạt lại tránh giao chiến, dẫn dụ quân Minh sa lầy giữ thảo nguyên mà không thu được thành quả nào. Nhân lực, vật lực đổ vào cuộc chiến dai dẳng với Mông Cổ đã khiến nước Minh hụt hơi, không còn đủ tiềm lực mà tăng viện cho quân Minh ở Đại Việt. Bọn tướng lĩnh giặc Minh trên lãnh thổ nước ta phải tự liệu lấy đường tiến thủ dựa trên lực lượng hiện có trong tay.
Cục diện trên toàn lãnh thổ nước ta lúc này là quân Minh vẫn đủ sức dồn quân đã bại bất kỳ cuộc khởi nghĩa nào, kể cả khởi nghĩa Lam Sơn. Nhưng mặt khác chúng không còn khả năng duy trì sự kiểm soát trên toàn lãnh thổ như trước nữa. Tướng lĩnh nước Minh chắc hẳn đã tính toán ra điều này, một cuộc chiến tổng lực để tiêu diệt quân Lam Sơn ắt sẽ khiến chúng mất thêm một phần binh lực lớn. Và một khi hào kiệt khắp nơi lại một phen nổi lên, quân Minh chung cuộc vẫn khó tránh khỏi bại vong. Hòa hoãn với Lê Lợi là một giải pháp tháo gỡ tình thế khó khăn của quân Minh, nhất là các tướng giặc đã bắt đầu lo sợ phải chịu trách nhiệm về những thất bại liên tiếp trước quân ta.
Trong thời gian hòa hoãn, Trần Trí, Sơn Thọ vừa cố gắng chỉnh đốn lại lực lượng, vừa tìm cách dụ dỗ Lê Lợi bằng vật chất. Quân Minh thường đem tặng Lê Lợi trâu bò, cá muối, nông cụ, thóc giống… Vì khiếp oai quân ta, lúc này tướng giặc thực sự đã chấp nhận để cho Lê Lợi được yên ổn làm một sứ quân cát cứ, có quyền tự trị trong một vùng nhỏ, miễn sao lợi ích của nước Minh trên toàn quốc vẫn được duy trì. Thế nhưng Bình Định vương Lê Lợi mang hoài bão lớn, muốn khôi phục lại giang sơn nước Việt, đâu chỉ mong làm chúa một phương để mà thôi. Tranh thủ thời cơ, quân ta tích cực rèn thêm nhiều chiến cụ, tăng cường phòng bị nơi hiểm yếu và trù tính các kế hoạch để đánh úp quân Minh. Để có thêm lực lượng, nghĩa quân kêu gọi nhân dân quyên góp tiền của, mộ thêm quân lính. Khi tướng giặc đem tặng các vật phẩm, Lê Lợi cũng sai người đem vàng bạc tặng lại để đáp lễ.
Trái với toan tính ban đầu của quân Minh khi chấp nhận giảng hòa, Tổng binh Trần Trí chứng kiến thực lực của quân Lam Sơn ngày một hùng mạnh lên. Khi biết rằng Bình Định vương Lê Lợi ngoài mặt hòa hảo nhưng bên trong vẫn không từ bỏ chí hướng đánh đuổi quân Minh, Trần Trí bèn toan trở mặt. Khoảng mùa thu năm 1424, Quân Minh bắt giam sứ giả Lê Trăn không cho về, và sửa soạn lực lượng chuẩn bị tiến đánh. Biết tin giặc giam sứ giả, Bình Định vương Lê Lợi rất tức giận, cho họp tướng sĩ, tuyệt giao với quân Minh. Các tướng đều đồng lòng xin quyết chiến. Sau hơn một năm trời hòa hoãn với quân Minh, một giai đoạn chiến đấu mới của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn lại mở ra.

Lê Lợi bất ngờ nam tiến, bắt trọn ổ giặc Minh

   Nước Minh càng lúc càng sa lầy tại Đại Việt. Nay bạo chúa đã chết, nhà vua mới lên ngôi, trong triều đình nước Minh liền có những bàn luận sôi nổi việc nên bỏ hay cố thực hiện cái gọi là "giữ đất An Nam".
Thành quả của việc tạm hòa với giặc được đề cập trong kỳ trước là rất lớn. Sau hơn một năm hòa hoãn, quân Lam Sơn từ chỗ bị vây khốn nơi núi Chí Linh, chịu cảnh đói khát nay đã trở lại với một khí thế mạnh mẽ hơn. Giờ đây quân ta không chỉ có nhiều lương thực, khí cụ mà còn đông đảo hơn trước. Bằng sự tự tin và tinh thần quyết chiến cao độ, quân Lam Sơn tiếp tục con đường chiến đấu của mình.
Bấy giờ là năm 1424, tại nước Minh có sự thay đổi lớn. Minh Thành Tổ Chu Đệ trong lần thứ 5 thân chinh đánh Mông Cổ, đã không thể hóa giải được chiến lược của quân Ngõa Lạt Mông Cổ dưới sự chỉ huy của thủ lĩnh Arughtai. Quân Ngõa Lạt luôn tích cực tấn công biên giới nước Minh, cướp bóc và tiêu hao lực lượng nước Minh dần dần. Nhưng khi quân Minh điều động lực lượng lớn tấn công, quân Ngõa Lạt lại rút lui về thảo nguyên, tránh giao chiến, chờ cho quân Minh kiệt sức trong cuộc rượt đuổi phải tự lui binh. Với lực lượng hầu như thuần kỵ binh, quân Ngõa Lạt luôn giành lợi thế tuyệt đối trong các cuộc rượt đuổi trên thảo nguyên bao la. Chu Đệ lúc này đã già yếu, mệt mỏi vì cuộc hành quân bắc tiến cực nhọc và vô vọng, chết ở sông Du Mộc. Quân tướng nước Minh giữ kín tin Chu Đệ chết, rút về đến Bắc Kinh mới cho phát tang. Thái tử Chu Cao Sí lên nối ngôi, tức vua Minh Nhân Tông.
Trước đây, vì sự độc đoán của Chu Đệ, quan tướng nước Minh chỉ dám răm rắp theo lệnh. Nước Minh càng lúc càng sa lầy tại Đại Việt. Nay bạo chúa đã chết, nhà vua mới lên ngôi, trong triều đình nước Minh liền có những bàn luận sôi nổi việc nên bỏ hay cố thực hiện cái gọi là "giữ đất An Nam" (cách gọi nước ta của phương bắc thời xưa). Rõ ràng tình hình nước Minh thời bấy giờ không hề dư dả binh lực và các nguồn lực khác nữa cho cùng lúc hai mặt bắc phía bắc và phía nam. Thêm nữa, mặt trận phía bắc chống Mông Cổ đối với nước Minh là mặt trận có tầm quan trọng hơn việc đàn áp các cuộc khởi nghĩa ở Đại Việt rất nhiều, nó có thể can hệ đến sự tồn vong của đế chế Minh.
Minh Nhân Tông Chu Cao Sí phân vân không quyết định được, vì ngoài vấn đề cân nhắc lợi hại, việc rút quân khỏi nước ta sẽ là một sự thừa nhận thất bại, một đòn giáng mạnh vào thể diện của Minh triều. Vua Minh cho triệu Công bộ thượng thư Hoàng Phúc bấy giờ kiêm chức Bố chính, Án sát ti tại An Nam về hỏi ý kiến. Hoàng Phúc tâu rằng: “Nếu được người giỏi phủ ngự An Nam, thì có thể giữ được vô sự”. Vua Minh cho lời ấy là phải. Hoàng Phúc được cho lưu lại nước Minh, tham mưu bên cạnh vua mới. Binh bộ thượng thư Trần Hiệp lên thay Phúc nắm quyền hai ti Bố chính, Án sát trong bộ máy đô độ giặc Minh tại nước ta. Nước Minh vẫn chưa từ bỏ việc chiếm đóng Đại Việt, nhưng bắt đầu có thái độ mong muốn hòa hợp dân tộc, nới lỏng sự bóc lột, đồng hóa dân tộc một cách dần dần, ôn hòa hơn.
Tuy nhiên lúc này vua Minh lại được tin Trần Trí đã thất bại trong kế hoạch chiêu dụ Lê Lợi, bèn xuống chiếu trách hỏi. Trí tâu lên rằng: “Giặc Lê Lợi chạy trốn sang Lão Qua, bị Lão Qua đuổi bèn quay về huyện Côi, châu Ninh Hoá [tức Ninh Bình ngày nay]. Quan quân tiến đánh, viên Đầu mục nguỵ là bọn Phạm Ngưỡng đem trai, gái 1.600 người ra hàng. Lê Lợi tuy nói rằng sẽ đưa hơn 480 nam nữ ra hàng, nhưng rồi dừng lại tại huyện Nga Lạc, phủ Thanh Hoá; lại nghe rằng vẫn không ngừng tiếp tục tạo khí giới. Dối trá như vậy, đáng mang quân đánh dẹp.”
Minh Nhân Tông nhận được thư tâu, lại xuống chiếu căn dặn bọn Trần Trí: “Ngươi hãy ước tính mưu kế giặc, trù hoạch đúng nên tiến hay chưa? Nhưng ta nghe rằng nguyên nhân gây ra bọn giặc này, do quan ty nhũng nhiễu áp bức, bọn chúng cùng quẫn bất đắc dĩ gây ra như vậy. Nay dùng phép đại xá để thiên hạ cùng đổi mới, đối với Giao Chỉ lại càng tăng thêm sự khoan tuất. Nếu trong muôn một, lương tâm bọn giặc này chưa mất hết, chúng có thể suy nghĩ sửa đổi. Nay nếu quan quân chưa tiến, thì mang thư đến chiêu dụ, sẽ không hỏi đến lỗi xưa, lệnh cho về đất cũ an cư lạc nghiệp. Nếu bọn này chấp mê không chịu ra, vẫn tiếp tục hành động như trước, thì hãy tâu đầy đủ sự thực, để có cách khu xử khác. Nếu quan quân đã tiến, thế không thể dừng lại, phải hết sức cẩn thận. Giặc âm mưu quỷ quyệt, dựa vào chổ hiểm đặt phục binh, hãy sử dụng thám thính đằng xa để không lầm vào kế giặc. Lúc hành quân, phải ước thúc quân lính, đừng nhiễu hại nhân dân.”(theo Minh Thực Lục)
Vua mới của nước Minh vẫn nuôi hy vọng chiêu dụ Lê Lợi, bất đắc dĩ mới dùng binh tiến đánh. Trong chiếu chỉ, Minh Nhân Tông đã có ý trách móc bọn quan lại đô hộ hà hiếp dân ta nên dẫn đến việc phản kháng. Vua Minh lại hạ lệnh cho đình chỉ việc khai thác vàng bạc ở nước ta chuyển về nước, mong rằng có thể thu phục được nhân tâm. Thái độ của vua Minh Nhân Tông đối với người Việt so với Minh Thành Tổ Chu Đệ rõ ràng là nhân đạo hơn. Nhưng vì đứng ở vị thế một vị vua phương bắc, Minh Nhân Tông không thể nào có được sự thấu hiểu với nhân dân ta, càng không thể hành động vì nguyện vọng, lợi ích của dân Việt. Vua Minh vẫn có mục tiêu là duy trì sự thống trị của nước Minh đối với nước ta, và sẵn sàng dùng vũ lực để đàn áp các cuộc khởi nghĩa.
Tháng 10.1424, trong lúc tướng lĩnh nước Minh còn đang do dự thì Bình Định vương Lê Lợi đã chủ động ra tay đánh trước. Lê Lợi cho họp tướng sĩ, thảo luận về sách lược tiến thủ. Tướng Nguyễn Chích, bấy giờ giữ chức Thiếu úy, thưa rằng: “Nghệ An là nơi hiểm yếu, đất rộng người đông. Tôi đã từng qua lại Nghệ An, nên rất thông thuộc đường đất. Nay ta nên trước hãy nên đánh lấy Trà Long, chiếm giữ bình định cho được Nghệ An để làm chỗ đất đứng chân, rồi dựa vào đấy mà lấy tiền tài sức lực. Sau sẽ quay cờ trẩy ra Đông Đô thì có thể tính xong được việc dẹp yên thiên hạ”.
Nghệ An thời bấy giờ ở xa thủ phủ Đông Quan hơn Thanh Hóa, binh lực quân Minh ở đây mỏng và yếu hơn. Người Minh chỉ mới thành lập lại được bộ máy đô độ từ năm 1414. Dân xứ Nghệ trước theo nhà Hậu Trần rất đông đảo, bị quân Minh đàn áp đẫm máu. Những người dân còn lại vẫn mang nặng lòng thù hận quân Minh tàn ngược, lại khổ sở cùng cực vì ách đô hộ, ngày ngày cầu mong có dịp đứng lên đánh đuổi giặc. Lê Lợi nghe qua lời Nguyễn Chích, khen là phải. Trước tiên muốn tiến xuống Nghệ An, Bình Định vương cho quân đánh thành Đa Căng (thuộc xã Thọ Nguyên, Thọ Xuân, Thanh Hóa) để đẩy chiến tuyến giữa ta và địch lùi về phía đông, khai thông đường tiến quân xuống phía nam, giúp hạn chế nguy cơ bị đánh tập hậu khi chuyển quân.
Thành Đa Căng do ngụy quan Lương Nhữ Hốt, giữ chức Tham chính chỉ huy. Với chiến thuật hành quân bí mật quen thuộc, Lê Lợi đem tượng binh, bộ binh tập kích thành Đa Căng dữ dội, Lương Nhữ Hốt thua trận chớp nhoáng, một thân bỏ chạy. Quân Lam Sơn giết và bắt được gần như toàn bộ lực lượng giặc tại Đa Căng, thu được khí giới, lương thực rất nhiều. Lê Lợi cho đốt hết thành lũy của giặc. Tướng Minh là Đô chỉ huy sứ Nguyễn Hoa Anh đem quân đến cứu viện cho Lương Nhữ Hốt, đến nơi thì thành đã bị quân Lam Sơn đánh hạ rồi. Quân ta thừa thế tiến đánh luôn Nguyễn Hoa Anh, cả phá được giặc. Hoa Anh thua chạy về thành Tây Đô. Hai trận thắng liên tiếp, quân Lam Sơn bắt được vợ con của quân Minh rất nhiều, Lê Lợi đều cho thả hết.
Nghĩa quân Lam Sơn theo kế hoạch đã định trước, tiến quân về hướng châu Trà Lân, phủ Nghệ An. Tin tức thành Đa Căng bị hạ, quân Lam Sơn nam tiến khiến cho tướng lĩnh nước Minh rất lo lắng và gấp rút tìm biện pháp đối phó lại

Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật, miền Trà Lân trúc chẻ tro bay

   Bình Định vương Lê Lợi bình tĩnh dàn quân cùng voi ngựa chia đường mai phục đợi sẵn. Bọn Phương Chính tiến trước, trúng vào ổ mai phục. Quân Lam Sơn nhất tề từ các ngã xông ra đánh phá, voi trận giẫm bừa vào hàng ngũ quân Minh. Giặc nối nhau tan vỡ lớn. Quân Lam Sơn chém được các tướng giặc là Đô ty Trần Trung, Chỉ huy vệ Xương Giang Ngũ Vân và hơn 2.000 tên, thu chiến lợi phẩm hơn 100 cỗ ngựa.
Theo sách lược mà Nguyễn Chích đề ra, cuối năm 1424 nghĩa quân Lam Sơn bắt đầu tiến hành kế hoạch tiến vào Nghệ An. Việc đánh hạ thành Đa Căng đã giúp nghĩa quân mở toang con đường tiến về nam. Lê Lợi ngay sau đó đã nhanh chóng tuyển thêm tráng đinh từ trong dân, chỉnh tề đội ngũ, sẵn sàng khí giới, chuẩn bị sẵn lương khô cho đoàn quân nam tiến.
Mục tiêu đầu tiên thuộc Nghệ An mà quân Lam Sơn nhắm đến là châu Trà Lân (hai huyện Con Cuông, Tương Dương, tỉnh Nghệ An ngày nay). Sở dĩ Bình Định vương Lê Lợi và các tướng lĩnh Lam Sơn lựa chọn nơi này là do nó vừa có vị trí từ trên cao đánh xuống đồng bằng, vừa có thể giúp nghĩa quân kiểm soát toàn bộ vùng rừng núi tây Nghệ An khi chiếm đóng được. Lực lượng địch đóng giữ tại châu Trà Lân khá mỏng, chỉ có khoảng hơn 3.000 ngụy quân dưới quyền chỉ huy của thổ tù Cầm Bành.
Hay tin quân Lam Sơn tiến đánh châu Trà Lân, Cầm Bành lập tức đem quân chặn đánh. Đồng thời quân Minh trong khắp vùng Thanh Nghệ cũng kéo nhau vây đánh để giải cứu Cầm Bành và tiêu diệt nghĩa quân. Từ thành Tây Đô, Tổng binh Trần Trí cùng các tướng Minh là Lý An, Phương Chính, Thái Phúcmở cửa thành đem hàng vạn quân đuổi theo sau đoàn quân Lam Sơn. Đô chỉ huy đồng tri nước Minh là Sư Hựu lúc này ở Nghệ An cũng đem trên dưới 2.000 quân đến hội với Cầm Bành chặn đánh quân ta. Bình Định vương dẫn quân đến núi Bồ Đằng (thuộc xã Châu Nga, huyện Quỳ Châu, Nghệ An ngày nay) thì thám binh báo về trước mặt, sau lưng đều có giặc. Quân Lam Sơn lại một lần nữa rơi vào thế lưỡng đầu thọ địch, nhưng bấy giờ lực lượng của quân ta đã khác trước, binh lính từng trải nhiều trận, kinh nghiệm trận mạc cũng đã dày dặn. Phía quân Minh thì cũng không hoàn toàn nắm lợi thế. Giặc tuy trước sau hai mặt tiến đánh nhưng hành quân gấp gáp bị động, quân lính dưới trướng Trần Trí nhiều lần bại trận dưới tay quân Lam Sơn nên cũng đã sinh lòng nhác sợ.
Dù giặc hai mặt tiến đánh nhưng hành tung đã bị quân ta sớm biết được. Lúc này trời đã xế chiều, Bình Định vương Lê Lợi bình tĩnh dàn quân cùng voi ngựa chia đường mai phục đợi sẵn. Bọn Phương Chính tiến trước, trúng vào ổ mai phục. Quân Lam Sơn nhất tề từ các ngã xông ra đánh phá, voi trận giẫm bừa vào hàng ngũ quân Minh. Giặc nối nhau tan vỡ lớn. Quân Lam Sơn chém được các tướng giặc là Đô ty Trần Trung, Chỉ huy vệ Xương Giang Ngũ Vân và hơn 2.000 tên, thu chiến lợi phẩm hơn 100 cỗ ngựa. Trần Trí cùng quân tướng Minh tháo chạy ra thật xa mới định thần lại, thu thập quân binh. Quân Minh từ tướng tới lính càng khiến sợ lối đánh mai phục lợi hại của quân Lam Sơn hơn nữa.
Thắng được trận Bồ Đằng, quân Lam Sơn tạm thời cắt đuôi được Trần Trí và gây cho địch thiệt hại nặng. Kế đến Lê Lợi tiếp tục dẫn quân tiến vào đất của châu Trà Lân, đụng trận với quân của Sư Hựu tại Trịnh Sơn Trang (xã Thạch Ngàn, huyện Con Cuông, Nghệ An). Vừa thắng trận trước đội quân đông đảo của Trần Trí, quân Lam Sơn không ngán ngại gì đội quân của Sư Hựu, cứ vỗ mặt đánh trực diện. Quân của Sư Hựu không cầm cự nổi được bao lâu đã thiệt hại hơn 1.000 quân, Thiên hộ Trương Bản bị chém tại trận, chỉ còn số ít bỏ trốn. Sư Hựu một mình đào thoát khỏi chiến địa. Vì hành quân gấp không thể thu mang theo nhiều quân nhu, Lê Lợi cho quân đốt hết lương thảo, khí giới bắt được từ cánh quân của Sư Hựu. Quân Lam Sơn vượt Trịnh Sơn Trang tiến đóng ở sách Mộc. Trần Trí sau trận thua ở Bồ Đằng lại thu thập quân lính bám đuôi quân Lam Sơn. Trí tiến quân đến núi Trạm Hoàng, được tin quân ta vừa diệt gọn cánh quân của Sư Hựu, khiếp vía không dám giao chiến nữa, lui binh về giữ thành Nghệ An.
Điều đó có nghĩa là quân Minh hầu như đã chấp nhận thí mất châu Trà Lân cùng đám ngụy quân của Cầm Bành, để đổi lấy một sự an toàn cho quân Minh và tăng cường phòng thủ thành Nghệ An. Các trận thắng liên tiếp dài từ xứ Thanh sang xứ Nghệ của quân Lam Sơn đã tạo nên một bước ngoặc mới về chiến lược của hai bên. Quân Minh dù vẫn còn đông đảo hơn quân Lam Sơn nhiều, nhưng đã phải chuyển từ chiến lược chủ động tấn công sang chiến lược phòng thủ. Tướng lĩnh giặc giờ đây muốn nhử quân ta chủ động đánh đồn, công thành để chúng có thể dựa vào thành trì, nguồn lương thực dồi dào đã tích lũy thời gian dài để thủ thắng trước quân Lam Sơn. Bởi vì nghĩa quân tuy giỏi đánh nơi rừng núi, giỏi mai phục nhưng chưa quen đánh thành, lương thực khí giới cũng không so bằng quân Minh.
Bình Định vương bấy giờ rất tranh thủ thời gian, tiến lên vây đánh quân của Cầm Bành ở châu Trà Long. Cầm Bành ít quân nhưng nắm giữ địa lợi, rút lên sơn trại cố thủ. Bấy giờ vào tháng Giêng năm 1425, Phương Chính dẫn quân Minh từ thành Nghệ An đến châu Trà Lân, phô trương thanh thế với quân Lam Sơn nhưng không dám tiến đánh vì sợ địa hình đồi núi dễ trúng mai phục, chỉ viết hịch kể tội. Lê Lợi thấy địa hình sơn trại của Cầm Bành khó tấn công, Phương Chính lại đóng quân rình phía sau, bèn chia quân vừa vây chặt Cầm Bành, vừa ghìm nhau với Phương Chính. Lê Lợi lại cùng tướng sĩ ra sức tuyên truyền chính nghĩa, phủ dụ nhân dân trong vùng. Kể cả những người trước theo Cầm Bành, đều được khuyên bảo vỗ về trở lại nghiệp cũ. Nhân dân nô nức theo về, cùng góp quân lương tiếp sức cho nghĩa quân Lam Sơn vây đánh giặc.
Trong thời gian quân ta vây Cầm Bành, đã có nhiều thư từ qua lại giữa ta và quân Minh. Bình Định vương muốn thăm dò ý định của Phương Chính, sai Hàn lâm viện Thừa chỉ Nguyễn Trãi viết thư trả lời Phương Chính và khiêu chiến. Thư viết rằng:
“Bảo cho mày nghịch tặc Phương Chính: Kể đạo làm tướng, lấy nhân nghĩa làm gốc, trí dũng làm của. Nay bọn mày chỉ chuộng lừa dối, giết hại kẻ vô tội, hãm người vào chỗ chết mà không xót thương, việc ấy trời đất không dung, người mà đều giận, cho nên liền năm chinh phạt, hằng đánh hằng thua. Thế mà không biết trước tự cải quá, lại còn bới bẩn cho thêm thối, hối sao cho kịp được! Huống chi bây giờ nước mùa xuân mới sinh, lam chướng bốc độc, thế không thể chịu lâu được. Nay mày chỉ nắm đại binh mà nấn ná không tiến, khiến quân lính nhiễm lam chướng dịch lệ mà chết, đó là tội ai? Binh pháp có nói: “Kẻ nhân giả lấy yếu chế mạnh, kẻ nghĩa giả lấy ít địch nhiều”. Nay mày muốn đánh, thì nên tiến quân giao chiến, để quyết sống mái, đừng làm khổ cho quân sĩ hai nước làm gì.”(trích Quân Trung Từ Mệnh Tập)
Phương Chính là tên tướng thất phu, đọc thư của Nguyễn Trãi rất tức tối nhưng vẫn không dám tiến quân. Chỉ trả lời rằng: “Mày nếu muốn đánh nhau thì hãy ra chỗ đồng bằng đất phẳng”.
Nguyễn Trãi lại viết thư đáp: “Bảo cho mày nghịch tặc Phương Chính: Kể người dùng binh giỏi thì không có đâu là hiểm, đâu là không hiểm, không có đâu là dễ, đâu là không dễ. Thắng hay phụ ở tướng, chứ không ở đất hiểm hay dễ. Vào chỗ hiểm mà dánh nhau không khác gì hai con hổ đánh nhau ở trong thung lũng, giỏi thì được, vụng thì thua. Bởi vậy, đất không có bình thưởng nhất định, trận không có thế thưởng nhất định. Mày nếu không lui, thì phải đem binh ra mà quyết chiến thôi.”(trích Quân Trung Từ Mệnh Tập)
Liên tiếp hai thư khiêu chiến mà quân Minh vẫn chưa dám giao chiến, chỉ chực ở phía sau quân ta. Sơn Thọ lại đem chiếu thư của vua Minh Nhân Tông đến gặp Lê Lợi để chiêu hàng, chiếu viết rằng:
“Ngươi vốn là kẻ lương thiện, từ lâu có lòng thành quy phụ. Nhưng quan ty cai trị không đúng cách, sinh ra nghi sợ rồi ẩn trốn nơi núi rừng, không toại chí nguyện. Nay sau khi đại xá, bỏ hết sai lầm quá khứ, hàm chứa sự canh tân. Đặc cách sai người mang sắc dụ ban cho ngươi chức Tri phủ Thanh Hoá, cai trị dân một quận. Hãy đến nhận chức ngay, để đáp lại sự cứu xét đến lòng thành và bao dung đãi người của Trẫm”(theo Minh Thực Lục)
Lê Lợi nhận chiếu, họp các tướng lại bàn rằng: “Hiện Cầm Bành bị vây khốn đốn, lẽ ra bọn tên Chính phải cấp cứu ngay mới phải, thế mà đến nay vẫn còn dùng dằng quanh co. Đó tất là có ý nhát sợ. Chi bằng ta hãy cứ vờ bằng lòng hòa, để xem tình thế. Trong khi thư từ qua lại độ một tháng, thì ta đã bắt được Cầm Bành rồi”.(theo Đại Việt Thông Sử)
Bàn định xong, Lê Lợi tương kế tựu kế viết thư để vào trong bè, thả xuôi dòng cho Phương Chính và Sơn Thọ: “Chúng tôi muốn trở về Thanh Hóa, nhưng bị Cầm Bành ngăn chặn. Vậy ông cho người tới giải hòa để thông lối về, rất mong”(theo Đại Việt Thông Sử).
Phương Chính xem thư tưởng thật, bèn sai người đưa thư đến cho Cầm Bành, khuyên hòa giải với Lê Lợi. Vậy là giặc đã trúng kế của quân ta. Cầm Bành thủ hiểm hơn 2 tháng trời, lương hết binh mỏi, chỉ còn cầu mong quân Minh đến cứu viện. Đến khi nhận thư của Phương Chính hắn mới biết chắc rằng viện binh sẽ không đến.Quân lính của Cầm Bành lúc này rất bất mãn, tự ý kéo nhau ra hàng. Cầm Bành cùng kế cũng phải mở cổng trại ra hàng. Lê Lợi chấp nhận cho Cầm Bành đầu hàng, lệnh cho quân sĩ: “Tướng giặc đã hàng, mảy may cũng không được xâm phạm. Bất cứ tội to, tội nhỏ, đều xá cho hết.”(theo Lam Sơn Thực Lục)
Quân Lam Sơn bình định được châu Trà Lân, quân dân càng thêm phấn chấn, thế quân càng mạnh. Về sau, Cầm Bành lại sinh lòng khác, cùng thuộc hạ đang đêm trốn đi. Quân ta bắt lại được, Lê Lợi sai đem chém Cầm Bành. Chiến công tại châu Trà Lân đánh dấu một bước phát triển mới của nghĩa quân Lam Sơn. Quân ta đã đủ sức mạnh để đánh lớn với giặc, và có thể hoàn toàn chiếm thế thượng phong. Khí thế của chiến dịch thật như đôi dòng trong Bình Ngô Đại Cáo mà Nguyễn Trãi đã viết :
“Bồ Đằng chi đình khu điện xế
Trà Lân chi trúc phá hôi phi”
Tạm dịch :
“Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay”

Lê Lợi: Gươm mài đá, đá núi phải mòn; Voi uống nước, nước sông cũng cạn

Quân Minh hùng hổ kéo qua sông
   Lê Lợi cũng cho quân dựng trại dọc bờ sông, giương cờ gióng trống, phô trương thanh thế. Đêm đến, đèn đuốc quân Lam Sơn sáng rực một khúc sông, thu hút sự chú ý của quân Minh. Trong khi đó, tượng binh và quân tinh nhuệ của ta đã âm thầm vượt sông ở một đoạn sông khác, đi vòng ra phía sau lưng địch mai phục sẵn.
Châu Trà Lân thời kỳ thuộc Minh là vùng đất sinh sống của các sắc dân Thái, Mường, Việt. Nhiều gia đình ở đây có con em là thuộc hạ của tù trưởng Cầm Bành vừa bị quân Lam Sơn đánh bại. Bình Định vương Lê Lợi biết rõ điều đó, trước sau đã nhiều lần căn dặn quân lính không được xâm phạm đến nhân dân, chỉ cố gắng chế phục Cầm Bành, chiếm lấy đất đai mà thôi. Đến khi Cầm Bành bị mưu phản bị giết, những người thuộc hạ cũ đa số được Lê Lợi tha tội. Ngài cố sức an ủi nhân dân, mọi người đều mến phục. Bình Định vương Lê Lợi kén chọn những trai tráng khỏe mạnh, lấy được hơn 5.000 người hạng ưu xung vào đội ngũ quân Lam Sơn. Uy võ và đức độ của Lê Lợi càng thêm lừng lẫy.
Vào khoảng giữa năm 1425, tại nước Minh, vua Minh Nhân Tông chết. Thái tử Chu Chiêm Cơ lên nối ngôi, lấy hiệu Tuyên Đức, sử gọi là Minh Tuyên Tông. Vua mới của nước Minh vẫn kế tục chính sách cố giữ “đất An Nam”, chiến tranh Minh – Việt vẫn tiếp diễn.
Lại nói bọn Phương Chính sau khi trúng kế trá hàng của Bình Định vương, để mất châu Trà Lân vào tay quân ta thì rất cay cú. Phương Chính biết mình bị lừa, giận dữ đem quân tiến đánh. Nhưng thế quân ta đã vững, đánh lui được quân Minh. Phương Chính cùng Sơn Thọ phải dẫn quân rút về thủ thành Nghệ An, chờ đợi viện binh từ Đông Quan xuống phối hợp. Bình Định vương Lê Lợi dẫn quân tiến đóng tại Khả Lưu (thuộc Đô Lương, Nghệ An ngày nay), phủ dụ nhân dân, lập mưu đánh thành Nghệ An. Thế nhưng thành này kiên cố, chưa dễ công phá.
Nhân lúc vua Minh Tuyên Tông vừa lên ngôi, bọn thái giám Sơn Thọ lại viết thư dụ hàng. Quan tướng nước Minh đã rất cố gắng dụ dỗ, mua chuộc Lê Lợi, tỏ ra sẵn sàng bỏ qua chuyện cũ và hứa hẹn về quan tước. Nhưng quân giặc bạo ngược đã lâu ngày, nay chẳng qua thua trận liên tiếp mới phải xuống giọng chiêu an. Bởi thế mà người nước ta trên dưới đã không còn lòng tin được nữa. Vả lại, chí của Lê Lợi không chỉ muốn bản thân được êm ấm, mà là cứu muôn dân, khôi phục giang sơn. Bình Định vương Lê Lợi nhận thư của Sơn Thọ, cho họp các tướng, bàn rằng : “Giặc sai người đến lừa ta, ta nhân chỗ sơ hở của chúng mà lừa lại, chính là dịp này đây”.
Lê Lợi muốn thăm dò tình hình mới sai sứ giả thư từ qua lại day dưa với giặc, cốt là để cho người được ra vào thành Nghệ An mà do thám việc phòng bị của quân Minh đóng giữ thành. Một lần nữa, tướng lĩnh nước Minh lại thua trí của Bình Định vương và đầu não quân Lam Sơn. Sứ ta mấy lần vào thành, đều tích cực quan sát đường đi lối lại và sự bố phòng của quân Minh trong thành. Sau mấy lần thư từ qua lại mà không đạt được mục tiêu gì, Sơn Thọ mới dần hiểu ra mưu kế của quân ta, bèn tuyệt giao và càng chú tâm phòng bị.
Trong thời gian thư từ với giặc, Lê Lợi cho quân đóng chiến thuyền, chuẩn bị lương thực, khí giới. Ngài cho huấn luyện quân lính một cách bài bản các môn võ nghệ, kỹ thuật chiến đấu, các chiến thuật, hiệu lệnh để dùng đánh thành. Tướng giặc vừa tuyệt giao, quân Lam Sơn đã sẵn sàng đội ngũ, voi ngựa thuyền bè chia làm hai đường thủy bộ tiến đánh thành Nghệ An. Tuy nhiên, quân sắp đi thì có tin do thám báo về rằng quân Minh từ thành Đông Quan đến cứu viện thành Nghệ An, voi ngựa rất đông đảo.
Lê Lợi được tin báo, xét rằng tình hình khó mà đánh thành ngay được, bèn họp các tướng bàn rằng: “Quân địch đông, quân ta ít, đem ít đánh đông chỉ ở những đất hiểm là có thể lập được côngVả chăng binh-pháp nói: "Nhử người tới, chứ không để người dữ tới".”
Từ kế hoạch đánh chiếm thành Nghệ An, bộ chỉ huy nghĩa quân chuyển sang lập mưu đánh diệt quân Minh ở bên ngoài thành trì.
Lê Lợi nói với các tướng: “Trần Trí bị vây khốn đã nhiều ngày, bây giờ có viện binh tới, y tất nhiên ra đánh”. Một thế trận liên hoàn sau đó được bộ chỉ huy nghĩa quân bày ra để đón đánh quân địch tại ngay địa bàn mà quân ta đang chiếm giữ. Các tướng Đinh Liệt, Lê Ninh được lệnh đi đường tắt tiến nhanh đến huyện Đỗ Gia (thuộc Hương Sơn, Hà Tĩnh ngày nay), tranh chiếm trước địa lợi. Lê Lợi thì đích thân chỉ huy đại quân, chia quân phục sẵn các nơi hiểm yếu, đón đánh quân Minh tại ải Khả Lưu (thuộc huyện Anh Sơn, Nghệ An).
Trần Trí có được viện binh, quả nhiên mở cổng thành dẫn quân đến đánh Khả Lưu, đúng như Lê Lợi tiên liệu trước. Quân của Đinh Liệt và Lê Ninh đụng trận với Trần Trí trước tại Đỗ Gia. Với lực lượng ít ỏi, quân Lam Sơn tại đây chỉ có nhiệm vụ đánh thăm dò, kéo dài thời gian cho quân ở Khả Lưu bố trí lực lượng rồi nhanh chóng rút đi. Quân Minh vượt Đỗ Gia tiến đến Khả Lưu, dàn quân đối lũy với quân ta, hai bên cách nhau một con sông Lam. Bấy giờ quân Lam Sơn đã hùng mạnh, không còn chênh lệch về quân số nhiều như trước nữa. Trần Trí thấy trận thế quân ta đã vững, bèn cho quân hạ trại, chuẩn bị chiến cụ, thuyền bè vượt sông. Lê Lợi cũng cho quân dựng trại dọc bờ sông, giương cờ gióng trống, phô trương thanh thế. Đêm đến, đèn đuốc quân Lam Sơn sáng rực một khúc sông, thu hút sự chú ý của quân Minh. Trong khi đó, tượng binh và quân tinh nhuệ của ta đã âm thầm vượt sông ở một đoạn sông khác, đi vòng ra phía sau lưng địch mai phục sẵn.
Rạng sáng ngày 17.5.1425 Âm lịch, quân Minh cậy có hạm thuyền hùng mạnh, cứ ồ ạt cho quân vượt sông đánh vào trại quân ta. Một phần lực lượng quân Lam Sơn dàn trận nghênh chiến rồi giả vờ yếu thế, vừa đánh vừa lui dần, dẫn dụ quân Minh vào sâu trong trận địa mai phục. Trần Trí đã nhiều phen thua vì trúng mai phục, nên lần này hắn đã thận trọng hơn trước. Một lực lượng lớn quân Minh vẫn chưa vượt sông mà còn ở bờ phía đông, chờ cho quân tiên phong đánh mở đường, tạo không gian an toàn cho khối hậu quân. Khi thấy quân tiên phong đã trụ vững rồi, Trí mới cho từng tốp nối nhau vượt sông.
Thế nhưng Trần Trí dù đã có phòng bị nhưng vẫn trúng kế quân ta. Khi quân Minh qua sông được chừng một nửa, Bình Định vương Lê Lợi mới phát lệnh tổng công kích. Vẫn là một quan cảnh quen thuộc trong các trận mai phục của quân Lam Sơn, phục binh bốn phía đổ ra vây đánh dữ dội vào đám quân Minh đã vượt sông trước. Quân tiên phong giặc nhanh chóng bị tổn thất nặng, quay đầu chạy ngược về bờ sông. Trần Trí chưa biết xử trí thế nào, thì phục binh của ta vốn đã phục sẵn phía sau trại quân Minh cũng nhất tề xông thẳng ra đánh phá. Quân mai phục của ta đánh vào khối quân của Trần Trí tuy không đông, nhưng đều là tinh binh thiện chiến, đã gây nên sự hoảng loạn về tâm lý cho quân Minh. Trần Trí thua trận nhiều nên sinh nhát vía, chỉ phút chốc gặp quân mai phục, hắn đã cho quân lên thuyền rút lui. Quân Minh tranh nhau lên thuyền, rơi xuống sông chết đuối nhiều gấp mấy lần số bị quân ta giết trong trận.
Tại trận này, theo các sử sách phía ta chép thì quân Minh bị giết và bị chết đuối kể đến hàng vạn tên. Đây có thể coi là một trận đại thắng nữa của quân Lam Sơn sau các trận Bồ Đằng, Trà Lân.

Lê Lợi dùng kế Điệu hổ ly sơn, xác giặc tắc nghẹn cả sông

Quân Minh tháo chạy tìm đường sống (ảnh minh họa)
   Quân Minh không cầm cự nổi trước khí thế đó, trận thế nhanh chóng rối loạn, nối nhau vỡ chạy. Các tướng Minh thúc quân chạy ngược ra sông, nhưng không kịp lên thuyền khi mà mọi ngả đường đều đã do quân Lam Sơn kiểm soát. Quân Minh phần chết trận nơi triền núi, phần bị lùa xuống sông chết. Tình cảnh bi đát của giặc đã được miêu tả lại trong sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư: “Thuyền giặc trôi ngổn ngang, xác chết đuối nghẹn tắc khúc sông, khí giới vứt đầy cả rừng núi”.



Ba chiến thắng liên tiếp tại xứ Nghệ là Bồ Đằng, Trà Lân, Khả Lưu đã thực sự đưa cuộc khởi nghĩa Lam Sơn lên một tầm cao mới.Thế nhưng lúc này điểm yếu của quân Lam Sơn là tiềm lực vật chất không thể sánh được với giặc.
Trần Trí sau khi thua ở Khả Lưu thì cho quân lui về phía hạ lưu. Quân Minh hành quân bằng thuyền nên có tốc độ nhanh, chiếm được chỗ núi cao, gấp rút lên núi đắp lũy, cùng với chiến thuyền dàn trận thủy bộ liên hoàn, ngăn chặn đường quân Lam Sơn tiến xuống đồng bằng. Lê Lợi dẫn quân tiến đánh thì giặc đã chiếm trước địa lợi, lũy trại đã vững rồi nên không thể đánh ngay được. Lương thực của quân Minh được đảm bảo nhờ sự chuẩn bị từ trước. Ngược lại, quân Lam Sơn từ Thanh Hóa tiến vào Nghệ An, đã khá xa hậu phương chính. Tuy rằng được nhân dân trong vùng mới tích cực đóng góp, nhưng do quân số dưới trướng Bình Định vương Lê Lợi bấy giờ đã đông mà vùng Tây Nghệ An lại là nơi đồi núi thưa dân, cho nên quân ta dần đến chỗ cạn lương thực.
Được độ mấy ngày, Lê Lợi bàn với chư tướng: “Quân giặc nhiều lương, đắp lũy để làm kế lâu dài. Quân ta ít lương không thể giữ giằng dai được với nó”.(theo Lam Sơn Thực Lục)
Bộ chỉ huy nghĩa quân bèn tính kế nhử Trần Trí dẫn quân khỏi trại để đánh một trận lớn. Quân Lam Sơn theo lệnh Bình Định vương đốt hết doanh trại. Quân ta giả vờ rút đi, nhưng lại ngầm theo đường vòng đi ngược trở lại, đặt mai phục sẵn đón đánh quân Minh. Trần Trí ở trong lũy trại được tin Lê Lợi đốt doanh trại và lui binh, mừng thầm trong bụng. Trí cho rằng quân Lam Sơn đã hết lương thực và buộc phải rút đi như toan tính của hắn, bèn cho quân đuổi theo, muốn thừa thế truy kích quân ta. Tướng giặc tưởng rằng đã nắm được lợi thế, nào ngờ là lại một lần nữa bị quân ta lừa, trúng vào kế “Điệu Hổ Ly Sơn”.
Quân Minh thủy bộ đều tiến gấp, đến gần Bồ Ải thì bắt gặp quân Lam Sơn. Lê Lợi sai quân khinh kỵ đón đánh quân Minh, vờ như là đội quân đi sau chặn hậu. Trần Trí sai quân ứng chiến, đánh nhau một hồi, kỵ binh Lam Sơn quay ngựa rút lui. Trí hăm hở thúc toàn quân đuổi theo, không hay biết mình đã trúng kế hiểm. Đại quân Lam Sơn mai phục dày đặc ở Bồ Ải, chỉ chờ toàn đội hình quân Minh tiến vào, phục binh liền nổi lên tả xung hữu đột. Giữa chốn núi rừng hoang vu, tiếng reo hò của quân Lam Sơn vang lên dậy đất, tiếng chân người ngựa dồn dập, gươm giáo tua tủa lao thẳng vào quân Minh. Hai hổ tướng Lê Sát, Đinh Lễ đánh hăng hái nhất, tranh nhau đi đầu dẫn quân thọc sâu vào hàng ngũ giặc. Các mãnh tướng Phạm Vấn, Lê Bôi, Lưu Nhân Chú, Nguyễn Xí, Lý Triện, Lê Ngân, Lê Khôi… cũng tranh nhau lên trước, cùng quân sĩ từ các hướng đánh tụ lại, quyết tử với giặc, khí thế rất hùng dũng.
Quân Minh không cầm cự nổi trước khí thế đó, trận thế nhanh chóng rối loạn, nối nhau vỡ chạy. Các tướng Minh thúc quân chạy ngược ra sông, nhưng không kịp lên thuyền khi mà mọi ngả đường đều đã do quân Lam Sơn kiểm soát. Quân Minh phần chết trận nơi triền núi, phần bị lùa xuống sông chết. Tình cảnh bi đát của giặc đã được miêu tả lại trong sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư: “Thuyền giặc trôi ngổn ngang, xác chết đuối nghẹn tắc khúc sông, khí giới vứt đầy cả rừng núi”. Tướng tiên phong quân Minh là Hoàng Thành bị chém chết tại trận, Đô ty Chu Kiệt bị quân ta bắt sống. Trần Trí, Sơn Thọ thu thập tàn quân chạy thục mạng về thành Nghệ An. Lê Lợi thúc quân truy kích theo sau, đuổi giặc đến 3 ngày liền. Giặc chết rơi rớt dọc đường rút chạy. Trần Trí, Sơn Thọ cùng một số quân tướng nước Minh may mắn rút kịp vào thành, đắp thêm hào lũy cố thủ. Kỵ binh Lam Sơn đuổi sát đến chân thành, lập trại dàn quân vây thành.
Bình Định vương Lê Lợi sau trận đại thắng đã dẫn quân tiến xuống được đồng bằng Nghệ An rộng lớn. Theo sách lược Mưu Phạt Tâm Công (đánh vào lòng người), ngài không vội đốc thúc quân sĩ công phá thành Nghệ An mà chủ trương chia quân đi dụ hàng đồn trại giặc ở các châu huyện, ra sức phủ dụ nhân dân. Bấy giờ, quân tướng Lam Sơn đánh trận lâu ngày nơi rừng núi, đói khát gian khổ đã nhiều. Tướng sĩ có người ba ngày trời chưa được một bữa ăn, thế mà vẫn chẳng mảy may xâm phạm đến tài sản của dân. Bình Định vương đã ra quân lệnh: “Nhân dân ta lâu nay đã khốn khổ về chánh trị bạo tàn của người Minh! Vậy quân sĩ đến châu huyện nào, cũng không được xâm phạm của dân một mảy may. nếu không phải là trâu bò thóc gạo của ngụy quan, thì dù có thiếu thốn cũng không được lấy”. (theo Đại Việt Thông Sử)
Đạo quân nhân nghĩa của Bình Định vương Lê Lợi đã được đền đáp lại xứng đáng. Tại các châu huyện mà quân Lam Sơn đến chiêu dụ, hầu hết quân giặc gồm cả ngụy binh và quân Minh đều mở cửa quy hàng. Tri phủ châu Ngọc Ma là Cầm Quý lại còn dẫn 8.000 quân bản bộ, 10 thớt voi chủ động đến cửa quân ta xin hàng, Lê Lợi thu nhận, phong cho chức Thái úy. Về phía nhân dân trong các vùng mà quân Lam Sơn đi qua, sự chào đón quân ta rất nồng nhiệt. Từ lúc tin tức quân Lam Sơn tiến quân vào Nghệ An, muôn dân đã hết sức ngóng trông. Đến khi quân ta tiến xuống đồng bằng, người già người trẻ từ khắp các thôn làng đều tranh nhau đem thóc gạo, rượu thịt đến khao quân, dù rằng dân chúng đa phần đều nghèo khổ. Già trẻ đều vui mừng bảo nhau:  “Không ngờ ngày nay lại được trông thấy uy nghi của nước cũ” (theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư). Bình Định vương Lê Lợi đem chia các tặng phẩm của dân chúng cho tướng sĩ, mọi người lại được no đủ mà càng vững lòng đánh giặc. Trai tráng từ khắp nơi trong xứ đều hăng hái xin gia nhập hàng ngũ nghĩa quân. Lê Lợi kén lấy người khỏe mạnh để dùng.

Cẩm Y Vệ nhúng mũi vào cuộc chiến tốn xương máu của nhà Minh trên đất Việt


Cẩm y vệ nhà Minh
   Ngay từ những năm Minh Thành Tổ Chu Đệ còn trị vì, đã có những quan viên nước Minh tỏ thái độ không đồng tình với chính sách hai mặt của vua Minh tại nước ta. Thế nhưng, dưới bàn tay sắt của Chu Đệ và tai mắt giám sát chặt chẽ của cơ quan mật vụ Cẩm Y Vệ, những ai dám lên tiếng trái ý đều mang tai họa.
Chiến tranh chống quân Minh xâm lược cũng giống như mọi cuộc chiến khác ở thời kỳ trung đại về mặt thông tin liên lạc. Nước Minh là bên điều quân viễn chinh, tin tức từ đầu não triều đình đến được quân tướng ngoài mặt trận phải mất hàng tháng trời. Một sự kiện diễn ra ở vùng Thanh Nghệ nước Đại Việt, nếu tính từ khâu báo cáo lên vua Minh cho đến khi tướng lĩnh quân Minh nhận được chỉ thị của vua thì có khi phải mất hơn nửa năm. Chính vì vậy, kế hoạch của Minh triều thành hay bại phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của tướng chỉ huy ngoài mặt trận.
Thế nhưng bấy giờ phong trào Lam Sơn nổi lên, nhân tài hội tụ, cơ mưu thường vượt trên hẳn các tướng giặc. Quân Minh do đó mà liên tiếp thua kế, bại trận. Trải ba năm từ 1424 đến 1426, nước Minh liên tiếp đổi ngôi hai lần (Minh Nhân Tông thay Minh Thành Tổ trị vì được một năm thì chết, Minh Tuyên Tông lên nối ngôi), thay tướng tại Đại Việt một lần (Trần Trí thay Lý Bân làm Tổng binh). Các vua Minh đều rất thất vọng với các tướng của mình, thường hay ra chiếu trách phạt và chỉ đạo. Thế nhưng các chiếu chỉ vua Minh thường không theo kịp diễn tiến của cuộc chiến tại nước ta, càng góp phần khiến cho tướng lĩnh quân Minh thêm bối rối, mắc thêm những sai lầm.
Ngay từ những năm Minh Thành Tổ Chu Đệ còn trị vì, đã có những quan viên nước Minh tỏ thái độ không đồng tình với chính sách hai mặt của vua Minh tại nước ta. Thế nhưng, dưới bàn tay sắt của Chu Đệ và tai mắt giám sát chặt chẽ của cơ quan mật vụ Cẩm Y Vệ, những ai dám lên tiếng trái ý đều mang tai họa. Kể từ năm 1424 trở đi, làn sóng chỉ trích việc nam chinh mới rộ lên dần dưới thời vua Minh Nhân Tông Chu Cao Sí.
Góp phần không nhỏ vào làn sóng đó chính là sự phản kháng mãnh liệt của nhân dân Việt và những chiến thắng của quân Lam Sơn trước quân Minh đô hộ. Bên cạnh đó, thực tế nước Minh cũng không ở trong hoàn cảnh yên ổn mà lo chuyện mở rộng lãnh thổ, bởi sức ép từ quân Mông Cổ ở phương bắc luôn đe dọa sự tồn vong của đế chế. Binh lực phải chia ra hai hướng bắc nam đã có lúc khiến cho quốc khố nước Minh gần đến chỗ cạn kiệt, quân dân nhiều vùng phải khổ sở vì lao dịch và chiến đấu.
Áp lực từ bên cương phía bắc và trong nước đã khiến vua Minh Nhân Tông phải nhìn nhận lại về cuộc đô hộ của nước Minh tại đất Việt. Vị vua này đã tỏ ý muốn chiêu dụ các lực lượng khởi nghĩa tại nước ta. Thực chất đó chỉ là một thái độ thiện chí nửa vời, vì vua Minh Nhân Tông có xuống nước so với Minh Thành Tổ Chu Đệ nhưng chung quy vẫn muốn duy trì sự thống trị của nước Minh đối với người Việt, xóa sổ nước Đại Việt, dần đồng hóa dân ta với dân nước Minh. Điều đó hoàn toàn đi ngược lại nguyện vọng của nhân dân Việt. Bởi vậy, việc chiêu dụ của vua Minh Nhân Tông không hiệu quả. Nhân dân ta vẫn đứng lên đánh đuổi quân Minh để mong giành lại độc lập, và vua Minh lại tiếp tục việc đàn áp. Mọi chuyện đâu lại hoàn đấy, chiến tranh vẫn tiếp diễn theo một quán tính đã thiết lập sẵn.
Giai đoạn từ nửa cuối năm 1425 đến đầu năm 1425, khi phong trào Lam Sơn có những bước phát triển vượt bậc cũng là lúc vua Minh Nhân Tông càng thêm khó xử. Khi biết tin Lê Lợi dẫn quân tiến vào Nghệ An, vua Minh đã mong muốn đánh nhanh. Thái giám Sơn Thọ theo ý của Trần Trí tâu lên rằng có thể chiêu dụ Lê Lợi. Vua Minh nghe theo, giáng chiếu chỉ đem chức Tri phủ Thanh Hóa ra để mua chuộc Lê Lợi bãi binh, quy hàng. Thực sự vua tôi nước Minh đã đánh giá quá thấp chí hướng của Lê Lợi. Quân Lam Sơn chẳng những không đầu hàng, còn lợi dụng điều này để lừa giặc không đem binh cứu viện kịp thời cho Cầm Bành tại châu Trà Lân, giúp quân ta chiếm được Trà Lân dễ dàng. Binh bộ thượng thư Trần Hiệp báo tin Trà Lân thất thủ về triều, Vua Minh rất tức giận, xuống chỉ trách phạt nặng nề Trần Trí, Phương Chính. Lúc này quan Ngự sử nước Minh còn hặc tội bọn đô chỉ huy Sư Hựu, Trương Hùng làm nhiều việc trái quân pháp. Vua Minh sai bắt Sư Hựu, Trương Hùng về kinh trị tội.
Tờ chiếu chỉ trách tội của vua Minh có lời lẽ rất gay gắt: “Triều đình mệnh các ngươi trấn thủ Giao Chỉ là để yên ổn một phương. Nay được biết bọn đầu đảng Lê Lợi cướp phá châu huyện, ngăn cắt đường sá. Các ngươi mới đây tâu rằng đã chiêu dụ Lê Lợi xin đợi mùa thu mát đến Thanh Hoá nhậm chức. Nay đã mùa thu rồi, thực sự Lợi đã đến nhậm chức chưa? Trẫm ước tính tên giặc này nguỵ trá, không có lòng quy thuận, chỉ dùng lời lẽ hoãn binh để bọn chúng được thung dung tụ tập, tương lai tất gây hậu hoạn, các ngươi không suy nghĩ đến hay sao? Về việc Thổ quan Tri phủ Cầm Bành tại châu Trà Lung bị Lợi đánh vây 7 tháng nay rồi, lương thảo sắp hết, quân chết đến một phần ba, Bành vẫn kiên thủ cự địch, Giao Chỉ có được người như vậy cũng không dễ kiếm! Các ngươi từng chứng kiến lòng trung thành của con người này, sao không điều binh cứu viện?
Khi sắc dụ đến nơi, như thấy Lê Lợi không có bụng quy thuận hãy tìm cánh đánh bắt. Gấp phát binh tiếp viện Cầm Bành, vỗ về hậu hĩ, để bồi dưỡng lòng kiên cường trung thuận. Các ngươi đều là đại thần của triều đình, cần đồng tâm hiệp lực làm tròn uỷ nhiệm, đừng lo việc ban thưởng phong tước không được công bằng ! ”
Thực ra tin tức của vua Minh nhận được không hoàn toàn chính xác. Cầm Bành không cố thủ nổi đến 7 tháng. Thời điểm vua Minh ra chiếu chỉ này thì Cầm Bành đã đầu hàng quân ta rồi. Quân Minh khi hay tin Cầm Bành bị giết thì cho rằng Cầm Bành tử thủ đến chết, nhưng thực chất là lập mưu làm binh biến sau khi đầu hàng nên bị Lê Lợi giết. Bọn Trần Trí nhận được tờ chiếu trách phạt thì rất sợ hãi, điều binh tiến đánh quân ta thì thua ở trận Khả Lưu, rồi sau lại thua ở trận Bồ Ải.
Đến khi vua Minh Tuyên Tông Chu Chiêm Cơ lên nắm quyền giữa năm 1425, triều đình nước Minh đã chia làm hai phe chủ hòa và chủ chiến với Đại Việt rõ rệt. Phe chủ chiến dẫn đầu là các tướng lĩnh đã tham chiến tại nước ta, nổi trội nhất là Trương Phụ, tên tướng luôn phục tùng Chu Đệ trong các kế hoạch thôn tính và đồng hóa nước ta. Trương Phụ và các tướng lĩnh luôn cho rằng rút quân, nghị hòa với người Việt là một sự mất thể diện, và làm “phí công đánh dẹp” của quân tướng nước Minh. Phe chủ hòa thì nổi lên là các quan văn có uy tín và quyền hành lớn thời bấy giờ, được vua Minh Tuyên Tông tin dùng gồm Dương Sĩ Kỳ, Dương Vinh, Dương Phổ (được gọi là nhóm Tam Dương). Những người này vốn chủ trương đề cao trị quốc bằng đức chính, không thích việc gây chiến liên miên tạo áp lực lên nhân dân.
Minh Tuyên Tông mặc dù muốn dùng đức chính, nhưng vẫn chịu ảnh hưởng từ tư tưởng bành trướng cố hữu của các triều đại Trung Hoa và sợ mất thể diện nên vẫn thi hành chính sách đàn áp. Tuyên Tông xuống chiếu trách mắng và đôn đốc bọn quan tướng Minh:
“Giặc Lê Lợi vốn chỉ là tên nhãi con, nếu sớm tận tâm đánh bắt, thì dễ như nhặt một cọng lá. Nhưng rồi các ngươi ngồi yên không lo tính, dưỡng giặc nên trở thành mối hoạ. Nay nghe tin mang binh tới ải Khả Lưu và châu Trà Lân, cả hai nơi đều nhục vì tổn thất. Do bọn ngươi ngày thường dựa vào ý riêng tranh hơn thua, không ai chịu nhường. Lúc đụng việc thì kẻ dũng tiến quân một mình nhưng vô mưu, người khiếp nhược thì sợ co lại không cứu. Như vậy thì làm sao thành công được? Luận tội há có thể tha được ư! Nay tạm khoan dung, các ngươi ngày đêm hãy đồng tâm hiệp lực, luyện tập sĩ tốt tinh nhuệ, lo diệt giặc này để chuộc lỗi trước.”
Một điều rõ ràng là quân dân ta không thể trông cậy vào sự thương xót của vua tôi nước Minh được. Sử sách phương bắc vẫn thường đánh giá hai vua Minh Nhân Tông, Minh Tuyên Tông thuộc dạng vua hiền, thế nhưng vẫn không hề từ bỏ tham vọng đô hộ, trái lại cứ tiếp tục chính sách đàn áp các cuộc khởi nghĩa. Sự nhân từ của vua Minh, có chăng chỉ thấm tới một vài cá nhân chịu nghe theo lời “chiêu dụ” của giặc.
Còn lại đại bộ phận nhân dân muốn thoát khỏi kiếp ngựa trâu, tìm lại nhân phẩm của một dân tộc tự do chỉ có một con đường là chứng minh cho bọn giặc thấy rằng người Việt không dễ khuất phục, sẵn sàng chiến đấu đến cùng để giành lại chủ quyền cho đất nước. Chính sự chiến đấu ngoan cường của nghĩa quân Lam Sơn và toàn dân Việt đã ngày càng khiến nội bộ nước Minh dấy lên phong trào phản chiến mạnh mẽ. Những cuộc tranh luận về việc hòa hay đánh tại Minh triều ngày càng gay gắt hơn nữa khi trên chiến trường, quân Lam Sơn càng đánh càng mạnh, càng giáng những đòn mạnh vào quân giặc.

Bị Lê Lợi vây khốn trong 3 thành, quan quân nhà Minh chấn động

Quân Minh bị vây khốn (hình minh họa)
   Bấy giờ, quân Lam Sơn đã vây bức giặc tại ba thành Tây Đô, Diễn Châu, Nghệ An. Nếu Bình Định vương Lê Lợi muốn công phá bất kỳ thành trì nào trong số này đều phải chấp nhận trả giá đắt về nhân mạng.
Tháng 5.1425, quân Lam Sơn gần như đã làm chủ hoàn toàn đất đai Nghệ An. Tổng binh Trần Trí nước Minh cùng đội quân của hắn đóng chặt cửa thành Nghệ An mà cố thủ chờ viện binh. Bên ngoài thành trì, Bình Định vương cho dựng trại, đắp lũy vây lấy thành. Nhân dân trong vùng lũ lượt kéo nhau đến cửa quân góp tiền của và xin gia nhập hàng ngũ, đông như trẩy hội.
Tin tức Trần Trí bị vây khốn tại Nghệ An chấn động cả hệ thống quân Minh đô hộ. Từ thành Đông Quan, tướng Lý An tước An Bình bá lệnh gom quân tất cả các thành trì phía bắc, được vài vạn quân, thuyền bè khí giới đều mạnh, kéo nhau vào cứu viện cho Trần Trí. Bấy giờ Lê Lợi đang gấp rút chuẩn bị binh mã đánh thành, hay tin viện binh tới bèn thay đổi kế hoạch. Quân ta rút xa khỏi chân thành Nghệ An, đem ém quân tại sông Quật Giang huyện Đỗ Gia, là tuyến đường mà quân Minh phải đi qua để tiến về phía tây hòng chiếm lại vùng thượng đạo xứ Nghệ. Lý An vào được thành Nghệ An, hội quân với Trần Trí.
Các quân thủ thành lẫn quân tiếp viện của giặc cộng lại đã vượt hẳn quân Lam Sơn về số lượng. Tướng giặc bị vây lâu ngày, nay có quân đông mạnh liền muốn đánh thốc ra lật ngược tình thế. Nhưng hướng hành quân của Trần Trí đã bị bộ chỉ huy quân Lam Sơn sớm đoán biết được. Khi quân Minh đến huyện Đỗ Gia, đang lúc vượt sông Quật Giang thì bị quân ta phục sẵn từ trước đổ ra đánh. Đám quân Minh đi trước bị chém chết hơn 1.000 tên. Số giặc chết đuối còn nhiều hơn mấy lần. Trần Trí, Lý An liền hạ lệnh cho quân chạy ngược trở về thành Nghệ An, càng ra sức đào hào đắp lũy cố giữ.
Vì tướng giặc trúng mai phục đã nhiều lần nên sinh đa nghi, cho nên trận Đỗ Gia quân Lam Sơn thắng được quân Minh nhưng không được giòn giã như các trận trước. Quân giặc rút kịp về thành vẫn còn rất đông, thành càng khó công phá hơn nữa. Tuy nhiên, việc quân Minh dồn sức cố thủ tại Nghệ An đã mở ra một thời cơ khác cho quân ta. Sau khi bàn bạc cùng các tướng, Lê Lợi nói rằng: “Quân giặc đến hết cả để cứu Nghệ An. Các nơi tất là trống rỗng” (theo Lam Sơn Thực Lục).
Mùa hạ năm 1425, Bình Định vương muốn thừa cơ tiến đánh Diễn Châu và thu phục Thanh Hóa. Trước tiên, sai Đinh Lễ đem quân đi trước đến Diễn Châu phủ dụ nhân dân, vây bức thành trì. Đinh Lễ đến Diễn Châu, dò biết tin 300 thuyền lương của quân Minh do Đô ty Trương Hùng từ Đông Quan sắp đến. Ông đoán rằng quân Minh trong thành sẽ ra đón thuyền lương, nên chưa vội đánh Trương Hùng mà ngầm đặt quân mai phục sẵn gần nơi bến cảng. Ít lâu sau, quả nhiên giặc ở thành Diễn Châu kéo ra như Đinh Lễ tiên liệu. Quân Lam Sơn lặng lẽ chờ giặc lọt vào bẫy, xông ra đánh mạnh, cả phá được. Thiên hộ giặc họ Tưởng và 300 quân bị giết tại trận, số còn lại cố chết chạy về thành Diễn Châu cố thủ. Thừa thắng, Đinh Lễ đem quân đánh Trương Hùng, cướp sạch thuyền lương, đuổi Trương Hùng chạy dài từ Diễn Châu đến tận Thanh Hóa. Trương Hùng chạy kịp đến hội với quân Minh ở thành Tây Đô, đóng trại ngăn chặn quân Lam Sơn.
Đinh Lễ tiến quân đến xứ Thanh Hóa, liệu thế quân ít chưa thể đánh ngay,cho người báo tin về Nghệ An. Lê Lợi được tin, liền sai các tướng Lê Sát, Lý Triện, Lê Bị, Lưu Nhân Chú đem 2.000 tinh binh, 2 thớt voi ngày đêm theo đường tắt đi gấp đến tăng viện cho Đinh Lễ. Quân Minh chỉ lo phòng giữ cánh quân của Đinh Lễ, không hay biết tin tức của cánh quân tiếp viện. Lê Sát cùng các tướng chia quân nửa đêm đánh úp trại giặc, chém hơn 500 tên, bắt sống tù binh rất nhiều. Quân Minh phải chạy vào trong thành Tây Đô mà cố thủ.
Hệ thống kìm kẹp, đô hộ của người Minh tại xứ Thanh Hóa đều bị vô hiệu hóa khi mà lực lượng quân đội giặc bị quân ta vây bức trong thành. Quân Lam Sơn dù thiếu thốn vật chất nhưng đi đến đâu đều theo nghiêm lệnh không động đến tài sản của nhân dân, kể cả những dân sống chung với giặc. Đinh Lễ, Lý Triện chia người phủ dụ nhân dân, không ai là không theo. Người Thanh Hóa trước đã nghe danh Bình Định vương Lê Lợi, nay có dịp đều thi nhau đến cửa quân xin diệt giặc.
Bấy giờ là vào khoảng mùa thu năm 1425, nghĩa quân Lam Sơn chỉ trong khoảng nửa năm đã từ một đội quân chỉ chiến đấu quanh quẩn ở núi rừng tây Thanh Hóa phát triển thành một đội quân đông mạnh, đủ sức bao vây chủ lực quân Minh trong hàng loạt thành trì lớn. Có được điều này một phần là do sự can trường, sức chiến đấu bền bỉ của nghĩa quân, một phân nữa là nhờ sự ủng hộ chân thành, nhiệt tình của nhân dân các xứ. Nhờ vào sự ủng hộ to lớn đó mà quân Lam Sơn có thể tuyển mộ lực lượng tại mọi nơi có dân cư một các rất nhanh chóng. Quân lương, khí giới cũng nhờ vào nhân dân hỗ trợ mà nhanh chóng được sung túc, lại không phải tiếp vận đường xa. Ngoài ra, các tin tức tình báo đều được thông suốt, kịp thời nhờ vào tai mắt của dân, trong khi quân giặc thì luôn mù mờ về tin tức của quân ta. Đó là những lợi thế của một đạo quân giải phóng nhân dân, một đạo quân chính nghĩa mới có được.
Tuy vậy, quân Minh cũng có lợi thế của kẻ cường đạo. Các thành trì mà quân Minh đã xây dựng lên trên lãnh thổ nước ta đều thuộc hàng cứng và chắc, thành cao hào sâu, trên thành thường đặt đại pháo phòng thủ nên rất khó công phá. Quân giặc lại có được lương thực, khí giới, đạn dược dồi dào tích lũy trong các thành. Bởi thế nên dù liên tiếp thua trận, quân Minh vẫn có khả năng cố thủ trong thành, chờ đợi thời cơ thuận lợi về sau. Bấy giờ, quân Lam Sơn đã vây bức giặc tại ba thành Tây Đô, Diễn Châu, Nghệ An. Nếu Bình Định vương Lê Lợi muốn công phá bất kỳ thành trì nào trong số này đều phải chấp nhận trả giá đắt về nhân mạng.
 Trước tình hình đó, Lê Lợi cùng các tướng Lam Sơn đã chủ trương tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu. Lê Lợi đoán biết rằng các thành trì phía nam ở xa cách, mất liên lạc với chính quyền đô hộ đã lâu. Ngài bèn nói với các tướng: “Các vị tướng giỏi thời xưa, thường bỏ chỗ kiên cố mà đánh vào nơi nứt rạn; lánh chỗ xung đột mà đánh vào nơi trống không. Như vậy thì chỉ dùng nửa phần sức lực, mà thu lượm được thành công gấp đôi. Nay hai xứ Thuận Hóa và Tân Bình, mất liên lạc với Nghệ An và Đông Đô đã lâu rồi. Vậy ta nên thừa thời thế tiến đánh hai xứ đó” (theo Đại Việt Thông Sử - Lê Quý Đôn)
Bàn định xong, Lê Lợi phái Tư đồ Trần Nguyên Hãn, Thượng tướng Lê Nỗ, Chấp lệnh Lê Đa Bồ đem 1.000 quân, 1 thớt voi đi kinh lược hai xứ Thuận Hóa, Tân Bình. Sử cũ chép hai từ Kinh Lược, tức là đạo quân Lam Sơn tiến về nam lần này không chỉ có nhiệm vụ chiến đấu đơn độc với quân Minh ở các thành mà còn phải đảm đương nhiệm vụ tuyên truyền, kêu gọi nhân dân cùng đứng lên chiến đấu với nghĩa quân. Các tướng đi đánh Tân Bình, Thuận Hóa không chỉ có năng lực cầm quân đánh trận mà còn phải có khả năng chiêu dụ nhân dân, mộ thêm lực lượng tại chỗ để hoàn thành nhiệm vụ.

Danh tướng Trần Nguyên Hãn ra oai, tương quan lực lượng thay đổi

Tượng danh tướng Trần Nguyên Hãn
   Trần Nguyên Hãn với tài năng và uy tín của mình đã tuyển chọn thêm được hàng vạn quân sung vào đội ngũ, khiến tương quan lực lượng tổng thể giữa quân Lam Sơn và quân Minh có một chuyển biến lớn.
Theo chủ trương tránh mạnh đánh yếu, mùa thu năm 1425 Bình Định vương lệnh cho Tư đồ Trần Nguyên Hãn và Thượng tướng Lê Nỗ, Chấp lệnh Lê Đa Bồ đem quân đi tuần hai xứ Tân Bình (thuộc Quảng Bình ngày nay), Thuận Hóa (thuộc Quảng Trị, Thừa Thiên Huế ngày nay). Nhiệm vụ của Trần Nguyên Hãn và Lê Nỗ không dễ hoàn thành vì quân Minh và ngụy binh ở các xứ này vẫn còn rất đông, mặc dù đã mất liên lạc với các thành trì phía bắc của giặc.
Theo nhiều sử liệu cũ, Tư đồ Trần Nguyên Hãn thuộc dòng dõi Tư đồ Trần Nguyên Đán, một quý tộc nổi danh cuối thời Trần. Là người trí dũng song toàn, Trần Nguyên Hãn từ lúc theo Lê Lợi khởi nghĩa đã nhiều lần xông pha trận mạc, lập nhiều chiến công nơi trận tiền. Bình Định vương biết tài lược của ông, rất tin dùng, cho dự bàn mưu kín, rồi thăng dần lên chức Tư đồ. Việc phái Trần Nguyên Hãn vào nam không chỉ vì tài năng, mà còn vì uy tín của một hậu duệ quý tộc Trần.
Khoảng 1.000 quân Lam Sơn và 1 thớt voi hành quân từ Nghệ An vào nam, đến châu Bố Chính (thuộc Quảng Bình), gặp phải tướng Minh là Nhậm Năng đem quân dàn trận bên sông Giang đón đánh. Trần Nguyên Hãn cùng Lê Nỗ, Lê Đa Bồ thấy quân Minh đông hơn quân ta gấp mấy lần vẫn không nao núng, một mặt cho người về Nghệ An xin thêm viện binh, mặt khác bình tĩnh chia quân đối phó. Quân Lam Sơn ngầm bố trí mai phục chỗ đường hẹp tại Hà Khương, Trần Nguyên Hãn cùng quân tướng còn lại thì ra đường lớn dàn trận dụ địch.
Nhậm Năng vốn chưa đụng trận với quân Lam Sơn nên chưa không rõ về thuật dùng binh của quân ta, cứ đem hết quân qua sông mà đánh vỗ mặt. Trần Nguyên Hãn cầm quân vừa đánh vừa lui, nhử quân giặc vào bẫy. Đến chỗ mai phục, quân ta hai mặt nổi lên đánh kẹp lại. Lê Nỗ dẫn voi và các quân khỏe mạnh xông ra, đánh cắt ngang đội tiên phong của quân Minh, phá nát thế trận của giặc. Nhậm Năng không chống nổi phải quay đầu chạy, các quân tướng giặc cũng đều tan chạy cả. Quân Lam Sơn truy bức đến tận bờ sông. Trận này quân Minh bị giết và chết đuối hơn 1.000 người. Thiệt hại phía quân ta không đáng kể.
Nhậm Năng thua trận đầu nhưng quân vẫn còn đông, tỏ ra thận trọng hơn. Lúc này, Bình Định vương Lê Lợi nhận được tin tức từ cánh quân nam tiến của Trần Nguyên Hãn, Lê Nỗ và Lê Đa Bồ báo về, liệu rằng cần phải dùng thủy quân để tăng cường. Ngài bèn lệnh cho các tướng Lê Ngân, Lê Bôi, Lê Văn An đem 70 chiến thuyền từ Nghệ An vượt biển vào tiếp ứng. Quân Lam Sơn hai đạo thủy bộ họp lại, vừa đánh giặc vừa chiêu mộ thêm lực lượng, cùng nhân dân vây bức, dụ hàng các đồn trại quân Minh ở các châu huyện.
Khí thế của quân Lam Sơn cùng với sự hỗ trợ nhiệt tình của nhân dân khiến cho quân Minh không thể địch nổi, rút vào hai thành Tân Bình, Thuận Hóa tử thủ. Trần Nguyên Hãn vẫn theo sách lược chung, chia quân vây bức thành trì mà không công phá, giữ gìn lực lượng, chiêu dụ nhân dân. Trên thực tế đất đai hai xứ Tân Bình, Thuận Hóa đã thuộc quyền kiểm soát của nghĩa quân Lam Sơn, quân Minh ở trong thành đã hoàn toàn bị cô lập, chỉ còn trông cậy vào lương thực, khí giới đã tích lũy từ trước mà cầm cự lay lắt qua ngày.
Chẳng những chiếm được đất đai, lực lượng quân Lam Sơn lại còn được dịp phát triển vượt bậc về số lượng. Trần Nguyên Hãn với tài năng và uy tín của mình đã tuyển chọn thêm được hàng vạn quân sung vào đội ngũ, khiến tương quan lực lượng tổng thể giữa quân Lam Sơn và quân Minh có một chuyển biến lớn. Cho đến tháng 10.1425, một dải giang sơn từ Thanh Hóa đến Thuận Hóa đã thuộc quyền làm chủ của nghĩa quân Lam Sơn. Ngoài ra mở rộng vùng giải phóng, phát triển thêm thế lực thì việc này còn giúp quân Lam Sơn tránh khỏi mối lo “nội cố”, tức bị trong đánh ra, ngoài đánh vào, phải tiến hành phòng thủ các hai hướng bắc và nam. Với thế trận mới, một lực lượng cơ động chiến lược lớn của quân ta được rảnh tay mà dồn sức tạo thành những mũi tiến công lớn.
Theo như sách lược mà Nguyễn Chích đã đề ra từ trước, quân Lam Sơn sẽ tiến đánh Nghệ An rồi dùng nhân tài vật lực xứ này mà quay ra đánh Đông Quan. Nhưng trong quá trình thực hiện, kế hoạch chung của nghĩa quân đã thay đổi theo tình hình thực tế. Quân ta chẳng những đánh chiếm đất đai Nghệ An mà còn đánh cả Diễn Châu, Thanh Hóa và tiến đánh sâu vào nam, kiểm soát một vùng rộng lớn. Với nhân tài, vật lực các xứ đã chiếm được, quân Lam Sơn đủ sức vừa tiến hành bao vây chặt quân Minh ở các thành trì vừa có thể chuyển sang giai đoạn mới, đó là bắt đầu kế hoạch bắc tiến để thu phục Đông Quan, khôi phục lại toàn bộ giang sơn Đại Việt.Với những chiến công vang dội liên tiếp, các tướng đồng loạt suy tôn Bình Định vương Lê Lợi là Đại Thiên Hành Hóa (tức người thay trời làm việc giáo hóa). Từ đó về sau các mệnh lệnh, thư từ Lê Lợi đều dùng danh hiệu này để xưng.
Bấy giờ, tuy quân dân ta thắng trận giòn giã, nhưng quốc lực nước Minh vẫn đang trong lúc cường thịnh nhất. Mặc dù nước Minh bị phân tán lực lượng khi phải đối phó với người Mông Cổ, nhưng nếu vua tôi Minh triều hạ quyết tâm thì vẫn có thể điều động hàng chục vạn quân để tăng viện cho quân Minh ở Đại Việt. Lê Lợi biết rằng cuộc chiến đấu vẫn còn nhiều gian nan, nên muốn dùng biện pháp chính trị, ngoại giao để phối hợp với quân sự. Để tiện cho việc giao thiệp với nước Minh và góp phần phân hóa nội bộ Minh triều, Lê Lợi đã cho rước một người tự xưng là con cháu họ Trần tên là Trần Cao, từ châu Ngọc Ma về để tôn làm vua.
Thực chất, Trần Cao chỉ là vua bù nhìn để góp phần khiến cho phe chủ chiến ở triều đình nước Minh hết đường viện cớ xua quân tăng viện, là mất đi sự “chính danh” giả hiệu mà vua tôi nước Minh vẫn rêu rao và tự huyễn hoặc chính mình. Còn trên thực tế, Lê Lợi vẫn là người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và dùng uy tín của mình để kêu gọi toàn dân đánh đuổi quân Minh.

Vua Minh nói lời mị dân, Lê Lợi tung 4 đạo quân Bắc tiến

   Lê Lợi nhận định rằng tinh binh của giặc đều tập trung cả ở thành Nghệ An, các xứ thuộc lộ Đông Đô (tức chỉ đồng bằng sông Hồng) đều trống rỗng. Vì vậy, ngài quyết định điều động bốn đạo quân bắc tiến.
Phong trào khởi nghĩa Lam Sơn từ cuối năm 1425 trở đi đã thực sự phát triển thành phong trào mang tính toàn dân, toàn quốc. Với việc nắm giữ vùng đất từ Thanh Hóa trở vào nam, vây bức quân Minh trong các thành trì, quân Lam Sơn đã khiến cho Minh triều hoàn toàn thay đổi thái độ đối với nhân dân ta. Trước đây, quân Minh diệt nước Đại Ngu, rồi đặt thành quận huyện. Nhưng người Minh thực sự chưa bao giờ coi dân Việt là “người một nhà”. Các chính sách đối với dân ta rất hà khắc và bất công, nhằm mục đích kiểm soát toàn bộ dân chúng và bóc lột ở mức độ cao nhất để làm giàu cho đế chế Minh.
Mỗi khi có phong trào phản kháng bùng lên mạnh mẽ, Minh triều bên cạnh việc đàn áp cũng tìm cách chiêu dụ quân dân ta, nhưng thường chỉ là những lời hứa hão huyền và khi việc đánh dẹp được thành công rồi thì chúng lại lộ mặt là quân giặc bạo ngược. Bây giờ khi quân Lam Sơn đang chiếm thế thượng phong trên chiến trường và Minh triều tạm thời chưa thống nhất được kế hoạch đưa quân tăng viện để phản kích, một lần nữa những lời lẽ chiêu dụ đầy vẻ nhân đức lại được ban ra từ một vị vua nước Minh. Đầu năm 1426, vua Minh Tuyên Tông xuống chiếu cho quan lại và dân chúng nước ta, chiêu an và thông báo thay đổi nhiều chính sách thuế khóa, lao dịch nặng nề trước đây hòng làm giảm đi sự chống đối của nhân dân ta. Chiếu viết rằng :
“Đạo lý thống trị cốt ở yên dân, lòng nhân xót thương, cũng nên tha tội. Giao Chỉ từ khi sáp
nhập vào bản đồ dến nay đã hai mươi năm, nhiều lần gây chuyện phản nghịch, phải huy động tới quân của nhà vua. Nhưng ghét chết, thích sống, lòng người không ai khác ai, lội nước vào lửa, bản tâm có ai muốn thế. Xét kỹ duyên do, đều bởi người có chức trách đã không biết cách vỗ về, lại còn cướp bóc không hề biết chán. Tình cảnh kẻ dưới không thấu lên trên, ơn trạch người trên không thấm xuống dưới.

Đến nỗi dân chúng khốn khổ, nảy lòng nghi ngờ, trốn vào núi rừng, họp nhau làm loạn. Xét thực tình đều là do bất đắc dĩ, nên xử tội cũng đáng được xót thương. Vậy ban ơn mưa móc, cho đều được thấm nhuần. Những quan lại và quân dân Giao Chỉ mắc tội phản nghịch và các tội khác, đã bị phát giác hay chưa bị phát giác, đã được xét xử hay chưa được xét xử, kể từ ngày chiếu thư này ban ra, không kể là tội lớn hay tội nhỏ, đều tha cho cả. Quân và dân đất Giao Chỉ, ngoài việc nộp tiền thuế và lương thực ra, các khoản trưng thu khác, cùng những việc đổi lấy vàng bạc, tiền đồng, muối, sắt, hương liệu, thuế cá... đều lập tức đình chỉ cả, cho phép được trao đổi ở trong hạt với nhau, quan phủ kkông được cấm.”(theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)

Lần xuống chiếu này của vua Minh Tuyên Tông khác với những chiếu chỉ trước kia của Minh Thành Tổ Chu Đệ là việc gần như bãi bỏ hoàn toàn những chính sách bóc lột, nô dịch hà khắc mà nước Minh đã áp đặt lên lãnh thổ Đại Việt. Mặc dù vậy, khó mà khẳng định rằng vua Minh sẽ thực sự thi hành chính sách mới nhẹ nhàng hơn đối với nhân dân Việt một khi kiểm soát lại được tình hình. Và tất nhiên là nó cũng không được quân dân Việt tin tưởng, vì những việc làm trước đây của quân Minh với sự chỉ huy của những tướng lĩnh tàn bạo như Trương Phụ, Mộc Thạnh, Lý Bân, Trần Trí, Phương Chính … để khiến nhân dân quá chán ghét. Hơn nữa, ngoài vấn đề lợi ích còn có vấn đề dân tộc, quốc gia. Người Việt đơn giản là muốn làm dân của một đất nước Đại Việt độc lập, tự chủ. Lòng nhớ nước cũ và sự căm thù quân giặc khiến cho hầu hết nhân dân hướng về quân Lam Sơn. Những lời lẽ của vua Minh đều vô dụng.
Mùa thu năm 1426, trải qua gần một năm củng cố các vùng giải phóng, tạo thế bao vây vững chắc quân Minh từ Thanh Hóa trở vào thì Bình Định vương Lê Lợi và tướng lĩnh Lam Sơn vẫn không chủ trương công phá các thành trì bị bao vây. Bởi thời kỳ này việc công thành là việc rất khó khăn, không chỉ đòi hỏi bên tấn công phải có quân đông hơn gấp mầy lần, được huấn luyện kỹ càng mà còn phải có đủ chiến cụ như xe thang, dã pháo, máy bắn đá … Trong khi đó thì thành trì giặc đều có trang bị súng lớn đặt trên thành để phòng thủ, và quân giặc vào thế phải tử thủ sẽ chiến đấu liều chết. Nếu tấn công vào các thành, quân ta phải chấp nhận thương vong lớn. Thay vì chọn cách thức đòi hỏi tiêu hao nhiều nhân mạng, bộ chỉ huy nghĩa quân đã nghĩ ra kế sách vẹn toàn hơn để từng bước vững chắc đi đến thắng lợi.
Lê Lợi nhận định rằng tinh binh của giặc đều tập trung cả ở thành Nghệ An, các xứ thuộc lộ Đông Đô (tức chỉ đồng bằng sông Hồng) đều trống rỗng. Vì vậy, ngài quyết định điều động bốn đạo quân bắc tiến.
Đạo thứ nhất gồm khoảng 3.000 quân và một thớt voi dưới sự chỉ huy của các tướng Phạm Văn Xảo, Lý Triện, Trịnh Khả, Đỗ Bí … tiến đánh các trấn Thiên Quan, Quảng Oai, Gia Hưng, Tam Đái, Tuyên Quang, Quy Hóa, Đà Giang tức vùng tây bắc, với mục tiêu là uy hiếp thành Đông Quan từ mặt tây và án ngữ con đường từ Vân Nam tiến vào nước ta hòng chặn viện binh, quân lương của giặc từ trong nước Minh sang theo hướng này.
Đạo thứ hai có 2.000 quân và 1 thớt voi, dưới quyền chỉ huy của Lưu Nhân Chú, Bùi Bị, Lê Văn, Lê Ninh tiến đánh các xứ Thiên Trường, Tân Hưng và Kiến Xương (tức vùng Thái Bình, Nam Định ngày nay) để phòng khi quân tinh nhuệ của giặc ở thành Nghệ An thua trận rút ra bắc thì chặn đánh tiêu diệt, không cho chúng có cơ hội tổ chức lại lực lượng. Sau Lê Lợi phái thêm 3.000 quân xứ Thanh Hóa và 1 thớt voi ra tăng cường cho đạo quân này, nhận thêm nhiệm vụ đi vòng sang đông bắc tiến chiếm các xứ Khoái Châu, Thượng Hồng, Hạ Hồng, Bắc Giang, Lạng Giang tức là cả một vùng rộng lớn từ ven biển phía đông đồng bằng sông Hồng đến tận vùng biên giới phía bắc, nhằm mục đích bao vây quân Minh từ mặt đông và đón chặn viện binh, quân lương của giặc từ Quảng Tây sang.
Đạo thứ ba có 2.000 quân đều là tinh binh được tuyển chọn, giao cho các tướng Đinh Lễ, Nguyễn Xí tiếp theo sau hai đạo quân trên tiến đánh thẳng vào Đông Quan, không cốt công phá thành trì ngay mà để phô trương thanh thế, phủ dụ nhân dân, thăm dò tình hình rồi mới liệu thế tiến thủ.
Ba đạo quân Lam Sơn bắc tiến có nhiệm vụ khác nhau, cách thức thực hiện nhiệm vụ cũng có sự khác biệt những đều có đường lối chung là dựa vào nhân dân mà chiến đấu, thực hiện lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh. Nghĩa quân Lam Sơn đã thực hiện một phương thức chiến tranh rất mới mẽ và đặc biệt xét tại thời kỳ này. Trong phương thức này, một đội quân không chỉ đóng vai trò chiến đấu, mà còn thêm vai trò tuyên truyền, phát động toàn dân cùng chiến đấu.Tất nhiên mỗi đạo quân chỉ có khoảng vài ngàn người sẽ không thể giao chiến kiểu quy ước với quân Minh ở thành Đông Quan dù thất thế vẫn còn đến hàng vạn tên.
Quân ta thực hiện sách lược luồng sâu vào vùng chiếm đóng của giặc để phát động toàn dân cùng đứng lên đánh địch, kết nối với các lực lượng yêu nước, các anh hùng hào kiệt ở các xứ trước giờ vẫn còn đang phải chịu sự kìm tỏa của giặc hay phải ẩn thân nơi rừng núi, và kết nối với chính những nhóm vũ trang do chính phong trào Lam Sơn đã cài người đến ở trong những địa phương để thành lập bí mật từ trước. Trước khi ra quân, các tướng đều nhận quân lệnh không được tự tiện xâm phạm của dân. Quân đi đến đâu đều nghiêm chỉnh đội ngũ, gần gũi với nhân dân. Những nơi quân Lam Sơn đi qua chợ vẫn họp như thường ngày. Dân chúng đều mừng vui đem rượu thịt ra đón mừng và hưởng ứng hiệu lệnh của nghĩa quân Lam Sơn. Khí thế của quân và dân hòa lại làm một, càng trở nên to lớn và dữ dội khác thường.

Nhà Minh tung 5 vạn viện binh, Lê Lợi có 20 vạn quân chờ đại chiến

Quân Minh đưa 5 vạn viện binh sang cứu vãn
   Tổng lực lượng quân Lam Sơn từ bắc chí nam đến mùa thu năm 1426 đã đông trên dưới 20 vạn quân, và vẫn trên đà phát triển về cả quân số lẫn khí giới, kinh nghiệm chiến đấu.



Trong năm 1426, Bình Định vương Lê Lợi đã tiến thêm một bước trên con đường giải phóng đất nước bằng việc chia quân bắc tiến, phát động nhân dân cùng góp sức tiến công giặc ở khắp nơi. Để đối phó lại, Minh triều bên cạnh việc tiến hành mị dân cũng có những động thái quân sự cứng rắn. Chứng kiến sự bất lực của quan quân nước Minh trước sức tấn công của nghĩa quân Lam Sơn, vua Minh Tuyên Tông quyết định thay tướng và điều sang thêm những đạo quân tiếp viện lớn.
Về tổ chức, tháng 5.1426, Thành Sơn hầu Vương Thông được phong làm “Chinh Di tướng quân”, sang thay Trần Trí đảm nhiệm chức Tổng binh, nắm quyền chỉ huy toàn bộ quân Minh trên lãnh thổ nước ta. Đô đốc Mã Anh được cử làm tham tướng. Những tướng lĩnh cũ là Trần Trí, Phương Chính, Thái Phúc… phần nhiều đều bị vua Minh giáng chiếu hạch tội và trách mắng thậm tệ, sung làm Sự quan – chức quan dành cho những kẻ đang có tội nhưng tạm tha, cho tại chức để lập công chuộc tội.
Về thành phần lực lượng, 5 vạn quân Minh được điều động theo Tổng binh Vương Thông để sang cứu viện cho bọn Trần Trí. Để phối hợp với Vương Thông, vua Minh Tuyên Tông còn lệnh cho 1 vạn quân Minh dưới quyền tướng Vương An Lão từ Vân Nam tiến sang. Trước kia bọn tướng Minh chia ngụy binh các xứ đi làm đồn điền để tích trữ lương thực. Nay thế bức bách, Trần Trí cho gom tất cả quân đi làm đồn điền lại, kể cũng hàng vạn, tất cả đều tập trung về thành Đông Quan. Trần Trí còn ráo riết bắt lính ngụy tại một số vùng quân Minh còn đang chiếm đóng, sắp xếp lẫn với bọn lính người Minh để quản thúc và bắt phải chiến đấu cho chúng.
Trước đây, Trần Trí và bọn Lý An, Phương Chính bị vây bức tại thành Nghệ An. Trần Trí phải khốn đốn lắm mới tháo chạy được về bắc, để Lý An, Phương Chính lại tử thủ thành Nghệ An. Bình Định vương Lê Lợi không đánh thành mà dồn quân bao vây. Đến nay Đông Quan nguy cấp, Trí cùng quẫn sai người giỏi võ nghệ đem mật thư lẻn vào được thành Nghệ An, lệnh cho Lý An, Phương Chính “bỏ thành Nghệ An về để cứu đất căn bản”. Mọi cố gắng có giặc Minh từ tướng đến vua là có được số quân đông để bổ sung cho số bị hao hụt trong các trận đánh trước đó nhằm đối phó với sự lớn mạnh vượt bậc của nghĩa quân Lam Sơn.
Thế nhưng một lần nữa quân Minh đã không có được lợi thế mà chúng muốn. Hiệu lệnh của Bình Định vương truyền đến các xứ, trai tráng nước Việt nô nức tình nguyện sung vào đội quân chính nghĩa để diệt giặc. Chẳng những thế, dân chúng còn tự trang bị khí giới, lương thực mà cung cấp cho nghĩa quân Lam Sơn. Ngoài ra, tại các địa phương ở vùng Kinh lộ mặc dù quân Lam Sơn chưa chiếm được nhưng đã cài người tập họp lực lượng bí mật chờ sẵn trước. Đến khi quân ta đi tuần ra bắc, những đạo quân mật phục này nhanh chóng họp vào hàng ngũ. Bởi thế mà từ chỗ mỗi cánh quân chỉ có vài ngàn quân, quân Lam Sơn bắc tiến nhanh chóng tập họp được lực lượng mỗi cánh quân đông hàng vạn người.
Tổng lực lượng quân Lam Sơn từ bắc chí nam đến mùa thu năm 1426 đã đông trên dưới 20 vạn quân, và vẫn trên đà phát triển về cả quân số lẫn khí giới, kinh nghiệm chiến đấu. Vì là đội quân hiệp nghĩa cứu dân, nghĩa quân Lam Sơn hầu như không cần tốn hao tiền bạc mộ quân, không cần đem chức tước ra cầu hiền mà người người tự đến gia nhập với tinh thần không vụ lợi. Quân Minh thực sự đã phải đối đầu với sức mạnh tổng hợp của cả một dân tộc đang trỗi dậy khẳng định lại sự tự cường của mình.
Cuối tháng 9.1426, Lý Triện dẫn quân tiến gần Đông Quan. Trần Trí sợ quân ta có dịp hiệu triệu toàn dân như những gì đã diễn ra tại Nghệ An, bất đắc dĩ phải thúc quân xuất thành hòng đánh phủ đầu quân ta. Lý Triện cùng các tướng Trịnh Khả, Đỗ Bí đặt quân mai phục tại cầu Ninh Kiều, thuộc Ứng Thiên (Ứng Hòa, Hà Nội ngày nay) đón đánh. Quân ta mưu trí chờ lúc quân Minh đang qua cầu thì đổ ra đánh. Cầu hẹp, quân giặc không tiến được, lớp rơi xuống sông chết, lớp bị giết. Trần Trí bại trận phải chạy ngược về thành Đông Quan cố thủ. Trận này quân Minh có 2.000 tên thiệt mạng. Kế hoạch đánh phủ đầu của Trần Trí thất bại thảm bại, quân ta thuận đà tiến ra, khí thế càng dâng cao.
Một ngày đầu tháng 10.1426, khi các đạo quân Lam Sơn đang đi tuần quanh Đông Đô thì tại thành Nghệ An, tướng Minh là Phương Chính cùng Lý An thình lình mở cổng thành tung hàng vạn quân đánh mạnh phá vòng vây để mở đường thoát ra biển. Trong thành Nghệ An chỉ để lại Thái Phúc cùng một ít quân trấn giữ. Quân Lam Sơn vốn đã xếp đặt sẵn phục binh các nẻo, chỉ đợi giặc kéo ra là đón đánh. Bình Định vương Lê Lợi liền tức khắc dồn quân bao vây đánh diệt quân giặc. Tuy nhiên quân Minh đánh liều chết, lại có thuyền lớn nên phá được vòng vây.
Bình Định vương Lê Lợi một mặt để các tướng Lê Ngân, Lê Văn An, Lê Thận, Phạm Bôi, Lê Văn Linh, Bùi Quốc Hưng ở lại tiếp tục cầm quân vây chặt Thái Phúc tại thành Nghệ An, còn ngài thì đích thân đốc suất quân thủy bộ rầm rộ truy kích theo Phương Chính và Lý An, buộc giặc phải trả giá đắt trên mỗi bước đường tháo chạy. Đến Thanh Hóa, thuyền quân Minh sau phen nguy khốn rốt cuộc thoát được ra biển, nhắm theo hướng bắc mà chèo nhanh, định tiến vào sông Đáy ngược dòng về thành Đông Quan. Bấy giờ quân ta có ít thuyền lớn, không thể đuổi theo được bọn Phương Chính. Nhưng ở các xứ ven biển từ Thanh Hóa trở ra, quân Lam Sơn đã làm chủ phần lớn. Bởi thế, hạm đội quân Minh dưới quyền Phương Chính, Lý An không có đường lên bờ, phải đi lòng vòng ngoài biển.
Bình Định vương Lê Lợi sau khi để xổng hàng vạn quân Minh ở thành Nghệ An, cho rằng mặt trận chính đã chuyển ra bắc, bèn dời dinh đóng tại Lỗi Giang xứ Thanh Hóa, chia quân đi tuần quanh thành Tây Đô. Tướng Minh là La Thông ở trong thành Tây Đô cùng quẫn vẫn nhất quyết đóng chặt cửa thành không ra hàng. Lê Lợi ủy lạo tướng sĩ, thăm hỏi thân thuộc ở Thanh Hóa. Kỳ lão và nhân dân trong vùng đều tình nguyện sung quân diệt giặc. Bình Định vương kén người khỏe mạnh, tùy tài lược cao thấp mà xếp vào đội ngũ. Ai nấy đều vui vẻ, nóng lòng chờ dịp lập công.
Cuối tháng 10.1426, hai đạo viện binh giặc đã rầm rộ kéo sang. Phía đông bắc, Vương Thông cũng Mã Anh dẫn 5 vạn quân từ Quảng Tây tiến theo đường Lạng Sơn xuống Đông Quan. Ở hướng tây bắc, Vương An Lão dẫn 1 vạn quân Vân Nam theo đường từ Đà Giang (Lai Châu ngày nay) tiến xuống đồng bằng.Tương quan lực lượng của hai bên bấy giờ có sự khác biệt lớn tại các mặt trận. Nếu như từ Thanh Hóa trở vào nam, quân Lam Sơn vẫn nắm ưu thế tuyệt đối cả về lực lượng lẫn thế trận thì ở mặt trận từ đồng bằng sông Hồng trở ra các vùng trung du và biên giới phía bắc, quân Minh đã có lực lượng đông mạnh hơn quân ta nhờ vào nỗ lực gom quân của Trần Trí và sự tăng viện từ nước Minh sang.

Dùng kế phá 'giáo dài nơi ngõ hẹp', 2 lần đánh bại quân Minh

Kỵ binh thời Lê - hình minh họa
   Cả hai trận Xa Lộc và Nhân Mục đều áp dụng cách đánh giống nhau là đón chặn giặc nơi đầu cầu. Sở dĩ tướng lĩnh Lam Sơn chuộng cách đánh này là vì quân Lam Sơn thường phải lấy ít địch nhiều, giỏi đánh nhau nơi đường hẹp.
Phong trào Lam Sơn tính đến nửa cuối năm 1426 đã phát triển rất mạnh mẽ, mang một tầm cỡ khác hoàn toàn so với thời gian còn hoạt động ở xứ Thanh Hóa, đủ khả năng huy động được sức mạnh toàn dân tộc ở mức độ cao nhất. Tuy nhiên, để đi đến chiến thắng cuối cùng vẫn còn một chặng đường đầy cam go, thử thách. Đế chế Minh thời vua Minh Tuyên Tông đang bước vào giai đoạn cực thịnh, không dễ dàng chấp nhận thất bại. Việc tung quân tiếp viện và thay tướng tại Đại Việt chứng tỏ quyết tâm đàn áp của vua tôi nước Minh. Tình hình chiến sự vẫn còn diễn biến rất phức tạp.
Mặc dù Bình Định vương Lê Lợi đã bố trí bao vây phần lớn lực lượng quân chủ lực nước Minh trước khi Vương Thông tiến sang dưới tại thành Nghệ An, nhưng với tinh thần liều chết phá vây, bọn Lý An, Phương Chính đã thoát được vòng vây để tháo chạy ra biển. Nghĩa quân Lam Sơn lúc này đã có quyền kiểm soát các vùng ven biển, cố gắng ngăn chặn không cho Lý An, Phương Chính lên bờ. Thế nhưng quân Lam Sơn không đủ quân số để có thể đóng chặn mọi ngả sông, lại càng không đủ thuyền bè để cơ động đuổi đánh hạm đội giặc. Lý An và Phương Chính cho thuyền chở quân đáng một vòng lớn trên biển để tránh quân Lam Sơn đóng dày ở vùng Trường Yên, Thiên Trường rồi rẽ vào vùng hạ lưu sông Hồng, lựa những chỗ mỏng yếu của quân ta, vừa đánh mở đường vừa tiến gấp ngày đêm, ruốt cuộc cũng về được Đông Quan hội quân với Trần Trí. Đương lúc ấy cũng là lúc Vương Thông rầm rộ tiến quân sang.
Mặc dù các cánh quân bắc tiến của nghĩa quân Lam Sơn đều đã chiêu mộ thêm nhiều quân lính, mỗi cánh quân đều có quân số đông đảo gấp mấy lần lúc mới tiến ra nhưng vẫn ít hơn tổng số quân Minh cả cũ lẫn mới cộng lại. Bấy giờ trong các cánh quân Lam Sơn thì cánh quân của các tướng Lý Triện, Đỗ Bí, Trịnh Khả, Phạm Văn Xảo là rơi vào thế nguy cấp hơn cả vì cánh quân này hoạt động ở phía tây thành Đông Quan, có nguy cơ bị cả hai hướng quân Minh từ Vân Nam và từ Đông Quan cùng đánh kẹp lại. Để tránh nguy cơ đó, chư tướng bàn nhau chia quân đón đánh trước. Hai tướng Trịnh Khả, Phạm Văn Xảo dẫn quân đến lộ Tam Giang đón đánh 1 vạn quân Vân Nam dưới trướng của tướng Vương An Lão.
Vẫn theo chiến thuật quen thuộc, Trịnh Khả và Phạm Văn Xảo cho quân phục sẵn ở cầu Xa Lộc (thuộc Tứ Xã, Lâm Thao, Phú Thọ ngày nay), chờ khi quân Minh đang qua cầu thì quân Lam Sơn đổ ra đánh mạnh. Tốp tiên phong quân Minh vừa qua cầu thì bị quân ta dồn lại bao vây, không thể dàn trận. Đám quân Minh theo sau bị dồn ứa lại trên cầu không tiến được, che lấn nhau rơi xuống sông. Kịch chiến một hồi, quân ta cả phá được giặc. Quân Minh bị giết và chết đuối hơn 1.000 quân, số còn lại tan chạy về thành Tam Giang để trú thân.
Trong lúc Trịnh Khả và Phạm Văn Xảo đánh bại quân của Vương An Lão thì hai tướng Lý Triện, Đỗ Bí vẫn còn lưu quân ở mặt tây thành Đông Quan. Trần Trí nhân cơ hội quân ta bị phân tán, sai Đô ty Vi Lượng mở cổng thành dẫn quân ra ra đánh. Lý Triện và Đỗ Bí cũng cho quân mai phục ngay đầu cầu Nhân Mục (thuộc Nhân Chính, Thanh Xuân, Hà Nội ngày nay) đón đánh quân Minh. Vi Lượng cậy quân đông hùng hổ tiến qua cầu.
Nhưng cầu hẹp khiến giặc phải xếp hàng dọc nối đuôi qua. Quân Lam Sơn ở bên đầu cầu bên này đều là những quân tinh nhuệ dày dặn trận mạc, bình tĩnh chờ giặc vừa qua cầu được vài tên thì quây lại đánh. Quân Minh dù có đông cũng không phát huy được ưu thế về quân số, rốt cuộc tan chạy. Vi Lượng không thoát kịp, bị quân ta bắt sống. Các tướng là Đào Sâm, Tiền Phụ, Triệu Trinh cùng khoảng 500 quân Minh bị giết tại trận. Quân ta đại thắng.
Cả hai trận Xa Lộc và Nhân Mục đều áp dụng cách đánh giống nhau là đón chặn giặc nơi đầu cầu. Sở dĩ tướng lĩnh Lam Sơn chuộng cách đánh này là vì quân Lam Sơn thường phải lấy ít địch nhiều, giỏi đánh nhau nơi đường hẹp. Trên đồng bằng rộng lớn, chỉ có ở chỗ cầu vượt sông là có đường hẹp, nơi mà quân ta có thể phát huy tối đa ưu thế về tinh thần chiến đấu và kỹ năng chiến đấu điêu luyện nhờ dày dặn trận mạc, đồng thời khiến cho ưu thế về quân số của đối phương trở nên khó phát huy.
Hai chiến thắng liên tiếp tiêu biểu cho chiến thuật lấy ít địch nhiều đã khiến nhuệ khí quân ta dâng cao. Nhưng chỉ mấy ngày sau, Vương Thông cùng 5 vạn viện binh, 5.000 ngựa chiến đã nhập thành Đông Quan. Quân Minh cả mới lẫn cũ cộng lại đông đến mười mấy vạn quân, trong số đó có nhiều quân chính quy tinh nhuệ của nước Minh. Vừa đến Đông Quan, Vương Thông đã lập tức thực hiện kế hoạch hành quân lớn. Đầu tháng 11.1426, Vương Thông sau khi để lại một số quân trấn thủ tại thành Đông Quan, thân đem 10 vạn quân chia làm 3 đạo rầm rộ mở chiến dịch tổng phản công.
Cánh thứ nhất do Phương Chính, Lý An chỉ huy tiến đóng dài từ cầu Yên Quyết (thuộc Yên Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội ngày nay) đến cầu Sa Đôi (thuộc Đại Mỗ, Nam Từ Liêm, Hà Nội ngày nay), dọc theo sông Nhuệ (tức sông Đáy đoạn chảy qua Hà Nội ngày nay).
Cánh thứ hai do Sơn Thọ, Mã Kỳ chỉ huy đóng quân từ đầu cầu Nhân Mục đến cầu Thanh Oai (thuộc Bình Minh, Thanh Oai, Hà Nội ngày nay), dọc sông Đỗ Động.
Cánh thứ ba do Vương Thông trực tiếp thống lĩnh cùng với các tướng Trần Hiệp, Lý Lượngvượt qua cầu Tây Dương (tức Cầu Giấy, Từ Liêm, Hà Nội ngày nay) tiến đóng ở bến Cổ Sở (Yên Sở, Hoài Đức, Hà Nội ngày nay), bắt cầu phao cho quân vượt sông Nhuệ.
Mục tiêu cụ thể đầu tiên của Vương Thông chính là tiêu diệt đạo nghĩa quân Lam Sơn hoạt động ở vùng tây Đông Quan do các tướng Lý Triện, Đỗ Bí chỉ huy, lúc bấy giờ đang đóng quân tại Ninh Kiều (Chương Mỹ, Hà Nội ngày nay). Khí thế ban đầu của quân tướng dưới trướng Vương Thông mới sang rất đáng gờm. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép: “Quân giặc dàn doanh trại liền nhau đến vài mươi dặm, cờ xí rợp đồng, giáo mác rực trời, tự cho là đánh một trận là bắt hết được quân ta”.

Trận Tốt Động - Chúc Động, xác quân Minh tắc nghẹn cả sông

   Kết thúc trận chiến, số quân Minh bị quân Lam Sơn giết chết và chết vì giẫm đạp lên nhau lên đến hơn 5 vạn tên, chưa kể số giặc bị chết đuối mà theo các sử sách nước ta ghi lại một cách hình tượng hóa là “Giặc chết đuối rất nhiều, nước sông ở Ninh Kiều do vậy mà tắc nghẽn”(theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư).
Cuối năm 1426, chiến sự phía tây thành Đông Quan bắt đầu diễn ra những cuộc đụng độ lớn. Vương Thông đã dẫn 10 vạn quân chia làm ba đạo tiến đánh cánh quân của Lý Triện, Đỗ Bí đang đóng doanh tại Ninh Kiều (Chương Mỹ, Hà Nội ngày nay). Sở dĩ Vương Thông không dồn quân vào một mũi tiến công duy nhất mà chia quân ra ba hướng là vì hắn muốn thực hiện bao vây, diệt gọn toàn bộ lực lượng quân Lam Sơn ở tây Đông Quan, từ đó tạo đà tiến công lớn cho quân Minh tiếp tục đánh tỏa ra. Tướng giặc đánh giá rằng quân của Trịnh Khả, Phạm Văn Xảo còn bận tay ở thành Tam Giang, Lý Triện và Đỗ Bí sẽ khó chống nổi đòn tổng lực của quân Minh.
Vương Thông đã đánh giá không chính xác về khả năng đánh tốc chiến của quân Lam Sơn. Tướng lĩnh của ta không chấp nhận ở yên một để cho địch vây khốn. Ngay lúc mà quân Minh đang triển khai thiết lập vòng vây thì Lý Triện, Đỗ Bí đã tung quân đánh trước. Ngày 5.11.1426, quân ta nhắm đánh vào cánh quân của Sơn Thọ, Mã Kỳ là cánh quân mỏng yếu nhất trong ba cánh bao vây của quân Minh. Lý Triện và Đỗ Bí đặt mai phục ở cánh đồng Cổ Lãm (thuộc Thanh Oai, Hà Nội ngày nay) rồi cho du binh đánh vào trại của Sơn Thọ, Mã Kỳ để nhử địch.
Thấy bóng quân Lam Sơn, Kỳ và Thọ thúc quân sáp lại đánh. Quân ta vờ tháo chạy dụ địch đuổi theo qua cầu Tam La (thuộc Hà Đông, Thanh Oai, Hà Nội ngày nay), là chỗ bùn lầy khó đi. Thình lình phục binh nổi lên cùng voi chiến xông ra đánh tạt ngang vào đội hình quân Minh, thả sức chém giết. Hơn 1.000 quân Minh trong chốc lát đã bỏ thây tại trận. Sơn Thọ và Mã Kỳ hết sức kinh sợ, dẫn quân chạy ngược về thành Đông Quan. Quân ta truy kích trên đoạn đường dài mấy mươi dặm, đến tận cầu Nhân Mục mới ngưng. Giặc phơi thây dọc đường rút chạy, thêm 500 tên bị bắt sống.
Vòng vây mà Vương Thông dự định tạo ra nhanh chóng bị chọc thủng một mảng lớn. Không dừng lại ở đó, Lý Triện và Đỗ Bí thừa thắng đem quân tiến đánh bọc hậu cánh quân của Phương Chính, Lý An hòng tạo ra sự tan rã dây chuyền trong hàng ngũ giặc. Thế nhưng Phương Chính và Lý An khi hay tin Sơn Thọ và Mã Kỳ bại trận đã kịp thu quân về thành. Quân Lam Sơn cũng thu quân vào lúc chậm tối. Lúc này Vương Thông với lực lượng hùng mạnh vẫn đóng tại Cổ Sở. Hay tin hai cánh quân đã bị quân Lam Sơn bức rút, Thông cho người vào thành lệnh cho toàn bộ số quân tướng đã rút về phải quay ngược trở ra, tập trung tại bến Cổ Sở ngay trong đêm 5.11.1426.
Từ kế hoạch bao vây, quân Minh chuyển sang kế hoạch dồn quân thành một khối để đánh vỗ mặt vào căn cứ Ninh Kiều. Hôm sau, ngày 6.11.1426, Lý Triện cùng Đỗ Bí lại đem tượng binh, bộ binh đến đầu cầu Cổ Sở khiêu chiến. Vương Thông đã có phòng bị trước, sai quân đào bẫy gài chông sắt, đan tra làm lá chắn. Khi tượng binh Lam Sơn tiến đánh, quân Minh vờ vứt lá chắn bỏ chạy. Tượng binh quân ta thừa thế xông tới, giẫm phải chông sắt, thế quân khự lại. Quân Minh dùng súng và hỏa tiễn bắn ra, quân ta chết nhiều, phải rút lui.
Vương Thông thắng được một trận, bèn thúc toàn quân đánh tràn. Lý Triện, Đỗ Bí liệu thế binh ít không chống nổi, cho đốt bỏ doanh trại ở Ninh Kiều, lui quân về giữ Cao Bộ (xã Trung Hòa, Chương Mỹ, Hà Nội ngày nay), đồng thời cho người cấp báo với cánh quân của Đinh Lễ, Nguyễn Xí, Trương Chiến, Lê Hối đang đóng ở Tham Đàm (Thanh Trì, Hà Nội ngày nay), đề nghị đem quân ứng cứu. Quân của Đinh Lễ, Nguyễn Xí nắm giữ là đạo quân tinh nhuệ nhất trong các đạo quân bắc tiến, trong đó có cả đội Thiết đột đặc biệt tinh nhuệ cũng được Bình Định vương Lê Lợi gởi gắm cho Lễ và Xí, hai chiến tướng rất được Lê Lợi tín nhiệm. Nhận được tin cấp báo, Đinh Lễ, Nguyễn Xí cùng các tướng tức tốc cho quân lên đường tiếp viện, hội quân ở Cao Bộ. Cuộc hành quân diễn ra bí mật trong đêm, giặc chưa dò biết được.
Trong khi đó, Vương Thông dẫn quân đánh vào doanh trại quân ta ở Ninh Kiều thì chỉ thấy một nơi trống vắng, trại thì đều đã cháy ra tro. Quân Minh tạm đóng tại Ninh Kiều, dò tin tức quân ta. Biết được Lý Triện và Đỗ Bí đã đóng giữ Cao Bộ, Vương Thông bàn với các tướng Minh chia quân làm hai ngả đường tiến đánh. Đạo chính binh do Vương Thông chỉ huy đi theo đường cái từ Ninh Kiều qua Tốt Động, Chúc Động (thuộc Chúc Sơn, Chương Mỹ, Hà Nội ngày nay) đánh thẳng vào mặt phía động Cao Bộ. Đạo kỳ binh theo đường nhỏ từ Chúc Động đi vòng lên mặt bắc Cao Bộ, đem theo súng lớn, định đặt súng bắn vào phía sau quân Lam Sơn khi quân ta phải đối trận với cánh quân chính của Vương Thông.
Tướng lĩnh quân Lam Sơn biết rằng trên đường tiến quân giặc Minh tất phải đi qua Tốt Động, Chúc Động nên đem quân tinh nhuệ mai phục sẵn để đợi. Nghĩa quân lại bắt được gián điệp của quân Minh, tra khảo ra được kế hoạch của giặc định đặt súng bắn vào phía sau quân ta, hễ nghe tiếng pháo thì các hướng quân Minh sẽ cùng tiến đánh mạnh. Lý Triện, Đinh Lễ bèn bàn với các tướng tương kế tựu kế, lệnh cho các quân mai phục khi nghe tiếng súng thì vẫn nằm im để chờ giặc tiến vào. Một đêm mưa gió tháng 11.1426, hai đạo quân Minh từ hai ngả tiến đánh Cao Bộ. Đạo kỳ binh giặc tiến qua Chúc Động, chính binh của Vương Thông thì gần đến Tốt Động.
Khoảng canh năm, quân ta chủ động cho phát pháo. Vương Thông tưởng đạo kỳ binh đã tiến vào thuận lợi, thúc quân tiến gấp để phối hợp. Chờ giặc lọt vào trận địa mai phục ở Tốt Động, phục binh Lam Sơn bốn bề nổi lên đánh quyết tử. Trời mưa khiến đường xá lầy lội, người ngựa quân Minh bị mắc lầy, trước sau không ứng cứu được nhau. Quân Lam Sơn thừa thế chém giết thả cửa, tượng voi từ Cao Bộ xông tới băm nát đội hình hành quân của giặc. Ở phía Chúc Động, đạo kỳ binh cũng trúng mai phục và thiệt hại nặng nề. Vương Thông hết đường chống đỡ, cùng quân tướng mạnh ai nấy chạy, giẫm đạp cả lên đồng đội. Đến Ninh Kiều, giặc tranh nhau qua cầu, rơi xuống sông chết đuối nhiều vô kể. Binh bộ thượng thư nước Minh là Trần Hiệp, nội quan Lý Lượng, đô chỉ huy Lý Đằng đều chết trong đám loạn quân. Vương Thông cũng bị thương, may sao thoát được. Các tướng Minh khác là Mã Kỳ, Mã Anh, Sơn Thọ… ai nấy đều cắm đầu chạy thục mạng về thành Đông Quan, đóng cửa thành cố thủ.
Kết thúc trận chiến, số quân Minh bị quân Lam Sơn giết chết và chết vì giẫm đạp lên nhau lên đến hơn 5 vạn tên, chưa kể số giặc bị chết đuối mà theo các sử sách nước ta ghi lại một cách hình tượng hóa là “Giặc chết đuối rất nhiều, nước sông ở Ninh Kiều do vậy mà tắc nghẽn”(theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư). Ngoài ra, chừng 1 vạn quân Minh bị bắt sống. Khí giới, xe cộ, lương thảo, lừa ngựa, vàng bạc, quân nhu mà quân Minh để lại dọc đường nhiều không kể xiết, đều rơi vào tay quân Lam Sơn. Thế lực quân ta sau trận đại thắng đã áp đảo quân Minh. Trên thực tế, Vương Thông cùng đạo viện binh của hắn đã bị đánh tan tác. Trận chiến tại Ninh Kiều (hay còn gọi là trận Tốt Động – Chúc Động) là một trong những trận đại thắng nổi tiếng trong toàn bộ lịch sử Việt Nam, tiêu biểu cho tinh thần “lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều”. Trong Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi đã mô tả về trận này với âm hưởng hùng tráng:
Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lý
Tốt Động chi thi tích dã, di xú thiên niên.
Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ
Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi
Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần
Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ
Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong

Tạm dịch:
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng
Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt

Trong cơn cùng quẫn, giặc Minh phá hủy 2 bảo vật của Đại Việt

Nhiều bảo vật nước ta bị mất trong binh lửa
   Trong tình thế nguy khốn, Vương Thông đã hạ lệnh cho nấu chảy chuông Quy Điền và vạc Phổ Minh - hai trong bốn thứ bảo vật được tôn vinh là An Nam Tứ Đại Khí để đúc chiến xa và súng đạn
Chiến thắng Ninh Kiều (trận Tốt Động – Chúc Động) đã đánh tan đạo viện binh của Vương Thông, mở ra một cơ hội lớn cho nghĩa quân Lam Sơn tiếp tục đà tiến công trên toàn bộ lãnh thổ Đại Việt. Đinh Lễ cùng Lý Triện thừa thắng kéo quân đến trước chân thành Đông Quan vây bức, binh uy vang lừng như sấm dậy.
Từ trước trận chiến này, Bình Định vương Lê Lợi vẫn đóng ở Thanh Hóa là quãng giữa các mặt trận để tiện điều quân trên các hướng tiến công và bao vây, đồng thời củng cố những vùng hậu phương. Khi hay tin quân ta đại thắng, Vương bèn đem đại quân chia hai đường thủy bộ tiến gấp ra bắc, đóng đại doanh ở Thanh Đàm. Chư tướng đều đến đón mừng.
Khi quân dân ta nức lòng vì trận đại thắng thì Vương Thông đã tranh thủ sai người đem thư cấp báo về triều đình nước Minh, xin thêm quân tiếp viện. Vua tôi nước Minh dù rất bối rối trước tin bại trận, nhưng phần đông vẫn chưa từ bỏ dã tâm xâm lược. Các quan tâu lên vua Minh Tuyên Tông rằng: “Từ khi Hoàng Phúc bị triệu về, trung quan Mã Kỳ sang thay khích thành biến loạn ở Giao Chỉ. Xin lại cho Hoàng Phúc sang nhậm chức cũ, thì loạn ở Giao Chỉ tự nhiên yên được.” (!?) (theo Việt Sử Tiêu Án – Ngô Thì Sĩ)
Sở dĩ có lời tâu này là vì Hoàng Phúc khi làm quan ở nước ta chỉ chuyên tâm lo việc dân sự, không gây nhiều thù oán, tương đối được lòng dân. Các quan lại nước Minh hy vọng rằng Hoàng Phúc quay lại nước ta sẽ giúp hóa giải phần nào lòng căm thù của nhân dân. Thế nhưng thực sự đó chỉ là những ý nghĩ viển vông do thiếu thông tin thực tế. Hoàng Phúc dẫu ôn hòa nhưng kẻ sĩ trong nước ta đều biết hắn là người chuyên lo việc xóa bỏ tín ngưỡng, văn hóa truyền thống của người Việt để thay thế bằng văn hóa phương bắc. Sự ôn hòa của Hoàng Phúc cũng không thể bù được sự tham tàn của quan tướng nước Minh. Chiêu bài vừa đánh vừa xoa của giặc vốn chỉ có tác dụng lúc ban đầu khi mà nhân dân ta chưa nhận rõ bản chất. Minh Tuyên Tông nghe theo lời tâu của các quan viên,  bàn kế hoạch điều động thêm quân tiếp viện mới. Vua Minh định bụng rằng trước tiên cho quân đông mạnh đánh bại quân Lam Sơn, rồi sẽ cho Hoàng Phúc lo việc thu phục lòng dân.
Lại nói tình thế chiến trường lúc bấy giờ, cuối tháng 11.1426 Bình Định vương dời đại doanh đến đóng ở Tây Phù Liệt (thuộc Thanh Trì, Hà Nội ngày nay), đốc suất quân thủy bộ vây thành Đông Quan càng chặt. Lúc này Vương Thông vẫn còn một số trại đóng ngoài tường thành làm nhiệm vụ tiền tiêu, với hệ thống hỏa pháo đặt trên thành lũy, nối liền từ nội thành ra căn cứ thủy quân ở Đông Bộ Đầu (thuộc phường Nguyễn Trung Trực, Ba Đình, Hà Nội ngày nay) khá mạnh. Hệ thống phòng thủ thủy bộ liên hoàn này là niềm hy vọng cho quân Minh cầm cự lâu dài với quân Lam Sơn. Về phía ta, bộ binh, tượng binh đều mạnh nhưng vẫn có điểm yếu là súng ống, thuyền bè ít và kém hơn quân Minh. Là một đội quân đi lên từ gian khổ, nghĩa quân Lam Sơn chưa thể xây dựng một hạm đội hùng mạnh trong thời gian ngắn được.
Để đánh phá thủy quân của giặc, đầu não Lam Sơn đã bày ra một kế hoạch phối hợp liên hoàn giữa thủy và bộ. Đầu tiên, cánh thủy quân với hơn 100 chiến thuyền dưới sự chỉ huy của các tướng Trần Nguyên Hãn, Bùi Bị được lệnh ngược dòng sông Lũng Giang (tức sông Đáy ngày nay) ra cửa Hát Môn (thuộc Phúc Thọ, Hà Nội ngày nay), là chỗ giao nhau giữa sông Lũng Giang và sông Lô (tức sông Hồng ngày nay). Tại đây, Trần Nguyên Hãn và Bùi Bị sẽ thống lĩnh thủy quân Lam Sơn xuôi dòng xuống đánh căn cứ Đông Bộ Đầu từ hướng đông bắc.
Cánh quân thứ hai do Đinh Lễ chỉ huy với khoảng 1 vạn bộ binh lặng lẽ tiến đóng ở cầu Tây Dương (Cầu Giấy, Hà Nội ngày nay), chuẩn bị phối hợp tấn công thành Đông Quan từ phía tây. Bình Định vương Lê Lợi thì cầm quân chủ lực và tượng binh tiến đánh cửa nam thành Đại La cũ (cổng thành cũ nằm bên ngoài thành chính Đông Quan). Nửa đêm 23.11.1426, quân Lam Sơn đồng loạt tấn công từ khắp các hướng, phóng hỏa đốt các nhà dân bỏ trống quanh các đồn trại quân Minh để bao vây giặc bằng lửa. Phương Chính phụ trách cầm quân Minh ở các đồn ngoài không thể nào chống nổi thế mạnh áp đảo của nghĩa quân, thương vong rất nhiều. Binh tướng Minh hoảng loạn trước sức tấn công của quân ta, tranh nhau chạy vào thành trong, xác chết nằm chồng lên nhau.
Khi quân ở các đồn đã rút hết vào thành, căn cứ Đông Bộ Đầu của thủy quân Minh hoàn toàn bị cô lập. Thủy quân của Trần Nguyên Hãn và Bùi Bị thuận dòng đánh xuống, phối hợp với bộ binh quân ta đánh kẹp lại, diệt gọn thủy quân Minh. Kết thúc trận đánh, quân Lam Sơn thu được hơn 100 chiến thuyền, khí giới, nghi trượng nhiều vô kể. Những nhân dân Đông Quan trước đây bị buộc theo giặc nay được giải phóng hoàn toàn, đều vui vẻ theo về với Bình Định vương Lê Lợi.
Vương Thông bị vây bức trong nội thành vẫn chỉ huy quân tướng cố sức chống giữ mãnh liệt. Nhưng quân Minh đã bị cô lập, lại chịu sự tấn công dồn dập của quân Lam Sơn nên dần hết khí giới, đạn dược. Trong tình thế nguy khốn, Vương Thông đã hạ lệnh cho nấu chảy chuông Quy Điền và vạc Phổ Minh - hai trong bốn thứ bảo vật được tôn vinh là An Nam Tứ Đại Khí để đúc chiến xa và súng đạn. Lại thêm một sự mất mát về văn hóa mà dân tộc ta phải chịu do cuộc chiến tranh đem lại. Quân Minh ở thành Đông Quan ngày đêm tăng cường đào hào đắp lũy, gia cố tường thành. Vì lương thực trong thành còn dồi dào và tường thành vững chắc, nên giặc còn hy vọng cố thủ đến chờ viện binh sang cứu.

Nguyễn Trãi dùng bút lực ngang 10 vạn binh, quân Minh buông vũ khí

   Việc dụ hàng diễn ra tương đối thuận lợi. Nhờ vào tài văn chương của Nguyễn Trãi và sách lược địch vận đúng đắn của Lê Lợi, hàng loạt các thành trì là Diễn Châu, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa đều mở cổng thành đầu hàng.
Trái với kỳ vọng của vua tôi nước Minh, từ khi Tổng binh Vương Thông mang quân sang nước ta, thất bại cứ nối tiếp thất bại. Chẳng những không thể đảo ngược tình thế, Vương Thông cũng giống như người tiền nhiệm là Trần Trí càng lút sâu vào thế phòng ngự bị động, bị vây khốn trong thành Đông Quan. Quân Lam Sơn dưới sự chỉ huy trực tiếp của Bình Định vương Lê Lợi đã bao vây giặc khắp cả bốn bề.
Mùa đông năm 1426 tại dinh Tây Phù Liệt nơi Lê Lợi đóng quân, các hào kiệt, quân dân, thổ hào, tù trưởng các xứ kéo nhau đến bái kiến đông nghịt. Lê Lợi đều lấy lễ tiếp đón nồng nhiệt, rồi tùy tài mà cất nhắc chức vị lớn hay nhỏ. Dù chưa sạch bóng quân thù, nhưng quân Lam Sơn đã nắm quyền kiểm soát hầu hết lãnh thổ cả nước. Lê Lợi bắt đầu tiến hành những bước để kiến lập chính quyền mới là định chức tước hai ban văn võ, quy định luật lệ, xếp đặt lại các phủ trấn, đặt các quan tuần kiểm ở các cửa biển trọng yếu để khám xét người qua lại, lùng bắt những kẻ đưa tin cho giặc. Những kẻ cộng tác với quân Minh gây tội ác với nhân dân bị đem ra xét xử.
Về phía giặc, ngoài thành Đông Quan thì vẫn còn 12 thành trì kiên cố khác mà quân Minh đang chiếm giữ cũng ở trong tình thế bị vây bức, cô lập là Thuận Hóa, Tân Bình, Nghệ An, Diễn Châu, Tây Đô, Cổ Lộng, Điêu Diêu, Tam Giang, Thị Cầu, Xương Giang, Chí Linh, Khâu Ôn. Quân Minh triệt để dựa vào ưu thế của thành cao, hào sâu để cầm cự với quân dân ta. Lúc này quân đội Lam Sơn đã đông đến hơn 30 vạn quân và được sự hỗ trợ nhiệt thành của nhân dân, nhưng bộ chỉ huy Lam Sơn vẫn đề cao chiến lược bao vây, chiêu dụ hơn là quyết công phá các thành. Bởi nếu công thành quân ta sẽ phải chấp nhận thương vong lớn.
Lê Lợi vẫn mong muốn một chiến thắng trọn vẹn nhất và còn phải để giành lực lượng đề phòng nước Minh có thể tung thêm những lực lượng mới để tăng viện. Thế nhưng Vương Thông sau khi liên tiếp đại bại nhận thấy rằng tình thế khó mà thay đổi, và việc bại vong của quân Minh chỉ còn là vấn đề thời gian. Một khi khí giới, lương thảo trong thành đã cạn, quân Minh chỉ còn đường chết đói hoặc bị giết.
Trước tình thế đó, Vương Thông đã phải tính đường nghị hòa. Thông phái thái giám Sơn Thọ đem thư đến cho Lê Lợi, xin được hòa hoãn để rút binh về nước. Nhận được thư xin hòa, Lê Lợi nói: “Không đánh mà khuất được quân của người, ấy là mưu hay nhất trong các mưu hay!” (theo Lam Sơn Thực Lục). Việc giảng hòa và thư từ qua lại với quân Minh được Lê Lợi giao phó cho Hàm lâm viện thừa chỉ Nguyễn Trãi lo liệu. Nguyễn Trãi biên thư trả lời Vương Thông rằng:
“Tôi nghe, trời đất đối với muôn vật, nổi sấm sét mà ý hiếu sinh vẫn có ở trong; cha mẹ đối với các con, đánh roi vọt mà ơn dưỡng dục vẫn có ở đây. Nay vâng được thư của ngài cho tôi được tự tân, hân hạnh khôn xiết, thật không khác đức lớn của trời đất cha mẹ, dẫu có tan xương, nát thịt, cũng không đủ báo đền.
Song nếu ngài thực có lòng thương xót dân chúng, thì nên sai đầu mục đến các thành Diễn Châu, Nghệ An, Tân Bình, ra lệnh cho họ đem quân về, tôi sẽ lập tức sắm đủ phương vật tiến cống, cúi xin ngài sai quan cùng đi với tử đệ thân tín của tôi để đến đầu hàng phục tội. Cầu cống đường sá thì tôi xin nhận sửa đắp, không phải phiền đến quan quân. Giá được người nhận lời, không những sinh linh nước tôi được khỏi lầm than, mà binh sĩ Trung Quốc cũng khỏi nỗi khổ gươm giáo vậy.” (theo Quân Trung Từ Mệnh Tập)
Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi viết thư cho Vương Thông, tuy lời lẽ nhún nhường mà mưu kế sâu xa. Lúc bấy giờ ở một số thành trì, tướng lĩnh nước Minh giữ thành vẫn kiên trì tử thủ. Nguyễn Trãi muốn nhân việc hòa nghị để mượn lời của Vương Thông dụ hàng các thành trì, khiến cho chúng tự xếp giáo quy hàng, quân ta đỡ nhọc công đánh dẹp.
Theo kế hoạch rút quân, quân Minh từ các thành sẽ tập trung cả về Đông Quan, rồi rút về nước Minh một lượt. Vương Thông trong tình thế cùng quẫn đã chấp nhận kế hoạch này, sai người đi cùng với người của ta đem thư gởi cho các thành Tây Đô, Diễn Châu, Nghệ An, Tân Bình… Để tiện việc báo cáo về nước, Vương Thông khuyên Lê Lợi nên lập con cháu họ Trần lên làm vua hòng bịt miệng phái chủ chiến tại triều đình nước Minh, cũng là để bào chữa cho tội đánh dẹp thất bại của Vương Thông về sau. Lê Lợi trước đó đã lập Trần Cảo làm vua bù nhìn, nay theo lời Vương Thông, mọi thư từ với nước Minh đều lấy tên Trần Cảo làm vua. Còn bản thân Lê Lợi chỉ xưng là Lam Sơn Động Chủ. Đây là một thủ đoạn chính trị tạm thời của Lê Lợi và quân Lam Sơn để giúp cho quân dân ta đỡ tốn xương máu cho cuộc chiến mà vẫn đuổi được giặc về nước.
Việc dụ hàng diễn ra tương đối thuận lợi. Nhờ vào tài văn chương của Nguyễn Trãi và sách lược địch vận đúng đắn của Lê Lợi, hàng loạt các thành trì là Diễn Châu, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa đều mở cổng thành đầu hàng. Quân Lam Sơn giữ đúng giao ước, hễ quân tướng giặc ra khỏi thành đều được cấp thuyền bè, sửa sang cầu cống cho thuận lợi đến tập kết tại thành Đông Quan, lại còn cho đoàn tụ vợ con, cấp cho lương thực, thuốc men dọc đường đi. Công lao của Nguyễn Trãi trong việc thuyết phục Vương Thông và dụ hàng các thành trì là rất lớn. Nhờ vào việc này mà ông càng được Lê Lợi tin dùng và hậu thế luôn dành lời ca tụng.
Học giả Bùi Huy Bích thế kỷ 18 đã nhận định về những văn thư mà Nguyễn Trãi làm trong công cuộc ngoại giao, địch vận là “có sức mạnh như 10 vạn quân”. Lời bàn ấy không hề quá lời bởi muốn công phá một trong số các thành trì kiên cố của quân Minh đều phải dùng quân đến hàng vạn mới chắc thắng. Tất nhiên, thành tựu của Nguyễn Trãi cũng là thành tựu chung của tướng sĩ Lam Sơn, khi mà sức mạnh của quân ta đã làm cho giặc khiếp vía trước. Tỷ như văn chương và mưu lược của Nguyễn Trãi sắc sảo mà quân Lam Sơn không chiếm được tiện nghi từ trước, thì cũng chẳng dễ gì khiến các tướng Minh chịu khuất phục.
Việc hòa nghị đương thuận lợi thì bị phá hoại. Bọn ngụy quan là Lương Nhữ Hốt, Trần Phong, Trần An Vinh ở thành Tây Đô (Thanh Hóa) vì sợ rằng khi quân Minh rút về nước rồi thì chúng sẽ không còn chỗ nương thân, nên không chịu phục, vẫn giữ lấy cô thành và khuyên quân Minh giả cách hòa nghị, bên trong tiếp tục nuôi dưỡng thực lực. Như Hốt ngầm biên thư mật báo với Vương Thông rằng: “Trước kia Ô Mã Nhi bị thua ở sông Bạch Đằng, đem quân về hàng. Hưng Đạo Đại Vương cho hàng, nhưng dùng mưu lấy thuyền lớn cho đưa họ về nước, rối cho người giỏi bơi lặn sung làm phu thuyền. Ra đến ngoài biển, lừa lúc ban đêm mọi người ngủ say, bọn phu thuyền lặn xuống nước, dùi đủng đáy thuyền, những người đầu hàng đều bị chết đuối hết, không một ai sống sót trở về được” (theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư).
Vương Thông được thư sợ tái mặt, bèn theo kế của Lương Nhữ Hốt, ngoài mặt vẫn ra vẻ hòa hiếu, bên trong vẫn lo đào hào đắp lũy. Quân Minh đào lũy kép, dưới lũy làm bẫy chông nhọn, đúc thêm nhiều hỏa đồng (súng phun lửa), tính kế cố thủ. Thông lại sai mấy chục tốp thám tử chia làm nhiều ngả đem thư bọc sáp ngầm lẻn về bắc xin thêm viện binh.

Nhà Minh kéo 15 vạn viện binh, huyết chiến thành Xương Giang

Quân Minh bị vây trong nhiều thành
   Khác với các lần tăng viện trước đó, lần này Minh triều gần như chuẩn bị lại cả một bộ khung xâm lược mới với trọn vẹn một đạo quân đông đến 15 vạn, được biên chế đầy đủ, được chuẩn bị về lương thực, khí giới để có thể hoàn toàn độc lập tác chiến trước khi phối hợp được với các đạo quân Minh tại các thành trì trên lãnh thổ nước ta.
Đầu năm 1427, Bình Định vương Lê Lợi mặc dù đã hoàn toàn chiếm thế thượng phong trên chiến trường nhưng vẫn mở cho quân Minh một lối thoát trong danh dự, tích cực thúc đẩy việc hòa nghị. Lê Lợi đã có nhiều nhượng bộ như chấp nhận tôn Trần Cảo làm vua, chấp nhận một nước Đại Việt mới gây dựng lại sẽ thực hiện triều cống nước Minh theo lễ nước nhỏ đối với nước lớn, bản thân Lê Lợi thì chỉ xưng làm Lam Sơn động chủ để tiện cho việc hòa đàm. Đối với quân Minh đầu hàng, phía ta đã cam kết đảm bảo đường sá, thuyền bè đi lại, hứa sẽ giữ an toàn cho chúng rút về nước. Thế nhưng thiện chí đó là không đủ để dập tắt lửa chiến tranh. Trong khi Vương Thông vì nghe lời xui của bọn ngụy quan mà hành xử tráo trở với quân ta, thì tại nước Minh đang gấp rút điều động thêm những đạo quân tiếp viện lớn.
An Viễn hầu nước Minh là Liễu Thăng được vua Minh Tuyên Tông giao cho các quân lấy từ Bắc Kinh, Nam Kinh cùng các tỉnh Hồ Quảng, Giang Tây, Phúc Kiến, Chiết Giang, Sơn Đông, Hà Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Phúc Kiến. Tổng cộng chừng 10 vạn quân tinh nhuệ, 2 vạn ngựa chiến, nhận nhiệm vụ tiến xuống nước ta từ hướng Quảng Tây, phối hợp với quân Minh đang cố thủ ở thành Xương Giang đánh xuống thành Đông Quan từ hướng đông bắc.
Kiềm Quốc công Mộc Thạnh – tên tướng già nhiều phen chinh chiến tại Đại Việt được giao các quân điều động từ Thành Đô, Tứ Xuyên, Vân Nam, tổng cộng chừng 5 vạn tinh binh, 1 vạn ngựa chiến. Đạo quân này nhận nhiệm vụ từ Vân Nam tiến xuống, băng qua vùng Tây Bắc nước ta, trước chiếm thành Tam Giang rồi sau đó đánh tỏa xuống đồng bằng, phối hợp với quân của Vương Thông ở thành Đông Quan.
Khác với các lần tăng viện trước đó, lần này Minh triều gần như chuẩn bị lại cả một bộ khung xâm lược mới với trọn vẹn một đạo quân đông đến 15 vạn, được biên chế đầy đủ, được chuẩn bị về lương thực, khí giới để có thể hoàn toàn độc lập tác chiến trước khi phối hợp được với các đạo quân Minh tại các thành trì trên lãnh thổ nước ta. Để tập trung một lực lượng quân viễn chinh lớn như thế trong bối cảnh vừa mới điều động 5 vạn quân cho Vương Thông đi đánh chưa lâu, nước Minh đã phải mất hơn nửa năm trời tiến hành hàng loạt những cuộc hành quân, gom quân, vận chuyển lương thực, khí giới không ngơi nghỉ. Tướng lĩnh cầm quân đều được vua Minh tuyển chọn từ những tướng có nhiều kinh nghiệm tại Đại Việt. Ngoài Liễu Thăng, Mộc Thạnh còn có các tướng Lương Minh, Lý Khánh, Hoàng Phúc, Thôi Tụ …
Sự tráo trở của Vương Thông và việc nước Minh ráo riết điều quân tiếp viện đều được nghĩa quân Lam Sơn nhanh chóng biết được. Đó là một vấn đề không hề đơn giản đối với quân ta, đòi hỏi phải có những quyết định chính xác để không bị mất đi thế thắng. Nếu như chỉ phải đánh với Vương Thông và những quân Minh ở các thành trì bị bao vây thì quân Lam Sơn đã hoàn toàn áp đảo, chỉ cần chờ cho kẻ địch trong các thành hết lương thực, khí giới chúng sẽ phải quy hàng hoặc chịu chết. Thế nhưng tình hình lúc này đòi hỏi quân ta phải có giải pháp đối với các thành trì để khi viện binh giặc tiến sang, chúng không còn khả năng “nội ứng ngoại hợp”.
Trong quãng thời gian tương đối dài mà nước Minh tiến hành gom quân thì ở trên chiến trường cũng có nhiều diễn biến phức tạp. Tin tức vua Minh quyết định tăng viện lớn đến tai bọn quân Minh trong các thành trì khiến chúng trở nên phấn chấn trở lại, nuôi hy vọng dằn co với quân Lam Sơn cho đến khi được cứu viện. Bình Định vương Lê Lợi căm giận sự giả trá của Vương Thông và bọn quân tướng Minh, bèn tuyệt giao, tăng cường cho quân đánh giặc. Vương Thông thường phái thám tử về bắc xin viện binh và liên lạc, quân ta phục bắt đến hơn 3.000 tên và 500 con ngựa. Thông đành phải thôi không cho người ra thành do thám nữa.
Nhận thấy rằng những thành trì ở gần phía bắc nằm trên hai tuyến đường từ Vân Nam, Quảng Tây nước Minh tiến sang có thể trở thành những điểm tiếp vận, phối hợp với viện binh của giặc, Bình Định vương Lê Lợi đồng loạt điều quân đi đánh chiếm.
Bùi Quốc Hưng lãnh binh đánh thành Điêu Diêu (Gia Lâm, Hà Nội ngày nay), Thị Cầu (thuộc Bắc Ninh ngày nay)
Trịnh Khả, Lê Khuyển nhận lệnh tiến đánh thành Tam Giang (thuộc Vĩnh Phúc ngày nay)
Trần Lựu, Lê Bôi đem quân đánh thành Khâu Ôn (thuộc Lạng Sơn ngày nay).
Riêng thành Xương Giang (Bắc Giang ngày nay) là thành trì vững chắc và nằm ở vị trí chiến lược quan trọng trên tuyến đường Thiên lý từ Quảng Tây đến Đông Quan, Lê Lợi phái hàng loạt tướng giỏi là Lê Sát, Lê Thụ, Nguyễn Đình Lý (tức Lê Lý), Lê Lĩnh, Lý Triện, Lê Hốt … cùng hàng vạn quân đi đánh.
Nhân dân cả nước cũng tích cực tham gia vào các cuộc vận lương, chuyển khí giới cho quân Lam Sơn đánh thành. Kết quả các mặt trận công thành có khác biệt lớn. Thành Điêu Diêu đầu hàng trong tháng 2.1427, thành Thị Cầu đầu hàng tháng 3.1427 sau khi nhận thư dụ hàng do Nguyễn Trãi viết. Thành Tam Giang đầu hàng vào tháng 4.1427 khi Nguyễn Trãi đích thân vào chiêu dụ tướng giữ thành là Lưu Thanh. Việc nhanh chóng chiếm được các thành này giúp cho Lê Lợi có thể nhanh chóng tập trung lại lực lượng, tiếp tục khép chặt vòng vây Đông Quan.
Ở mặt trận thành Khâu Ôn, quân Minh cậy ở gần biên giới, quân lương khí giới đầy đủ nên kiên quyết cố thủ. Trần Lựu, Lê Bôi ngoài việc đối phó với quân Minh trong thành còn phải ghìm nhau với 5 vạn quân của Cố Hưng Tổ ở Quảng Tây. Tại đây diễn ra nhiều trận đánh quyết liệt, hễ quân Lam Sơn tiến đánh thành thì giặc dùng súng thần công, phi pháo bắn ra như mưa, lại có quân Quảng Tây chực ứng cứu. Chiến sự dai dẳng từ tháng 2.1427 đến mấy tháng sau quân ta vẫn chưa hạ được thành. Đến tháng 8.1427, Trần Lựu và Lê Bôi dùng kế nghi binh đánh thành, dụ 5 vạn quân của Cố Hưng Tổ tiến cứu. Quân ta ngầm mai phục ở ải Pha Lũy, đánh tan quân của Cố Hưng Tổ. Bấy giờ Trần Lựu và Lê Bôi mới rảnh tay dốc toàn lực đánh thành Khâu Ôn, phá được thành này. Tàn quân giặc chạy sang Quảng Tây, thương vong rất nhiều.
Riêng mặt trận thành Xương Giang, tình hình còn khó khăn hơn nữa. Thành Xương Giang kiên cố gần ngang ngửa thành Đông Quan, người Minh đã dời dân đến ở rất đông. Khi quân Lam Sơn đánh thành, các tướng Minh là Kim Dận, Lý Nhậm, Mã Trí, Lưu Nhuận, Lưu Tử Phụ … điều động hết quân Minh chính quy, ngụy binh người Việt và dân binh người Minh cả trai lẫn gái đông hàng vạn người quyết đánh trả quân ta đến cùng. Giặc cậy thành cao, súng đạn nhiều, gây cho quân ta rất nhiều thương vong khi cố gắng tiếp cận. Lý Nhậm còn thường lựa những chỗ quân Lam Sơn sơ hở đem quân tinh nhuệ nửa đêm ngầm ra đánh úp, đốt phá chiến cụ. Đối phó với thành trì vững chắc, quân đông tướng mạnh tại thành Xương Giang, quân tướng Lam Sơn đã phải gặp rất nhiều trở ngại. Qua đó cũng cho thấy việc đánh thành là khó khăn như thế nào, cũng thấy được sách lược “đánh vào lòng người” thay vì cố sức đánh thành ngay từ đầu cuộc khởi nghĩa là hết sức đúng đắn.
Thế nhưng, lúc này quân ta đã bước sang giai đoạn quyết định đòi hỏi phải đánh hạ những thành trì nằm ở những vị trí chiến lược quan trọng. Đặc biệt là thành Xương Giang, một thành trì không thể không đánh chiếm trước khi viện binh của Liễu Thăng, Mộc Thạnh tiến sang. Thử thách đối với nghĩa quân Lam Sơn vẫn còn lớn để có thể giành thắng lợi chung cuộc.

Bị bao vây, quân Minh ở thế đường cùng rứt giậu

   Trong năm 1427, đồng thời với các chiến dịch đánh chiếm các thành trì phía bắc thì chiến sự tại thành Đông Quan cũng diễn ra sôi động. Vương Thông cùng quân tướng Minh trong thế chân tường đã lựa chọn con đường quyết tử với quân Lam Sơn, nuôi hy vọng cầm cự cho đến lúc viện binh đến cứu.
Giai đoạn nửa đầu thế kỷ 15, sau cuộc chiến Minh – Đại Ngu vốn đang là thời kỳ các loại súng thần công đặt trên mặt thành phát triển rất mạnh mẽ, trong khi các loại dã pháo cơ động ngoài chiến trường vẫn còn chưa phát triển mạnh. Bởi vậy, thành trì của quân Minh có ưu thế về hỏa lực rất lớn. Ngoài lợi thế về hỏa lực, quân Minh vẫn còn trong tay trên 5 vạn quân. Điều nguy hiểm hơn nữa là chúng tự đặt mình vào thế cùng, sẵn sàng liều chết với quân Lam Sơn chứ không còn dễ dàng tan chạy như thuở nghĩa quân mới nổi lên chống giặc nữa.
Thực ra nếu quyết định công phá Đông Quan, quân Lam Sơn vẫn có cửa thắng cao, nhưng thương vong sẽ rất khó lường. Trong bối cảnh quân ta còn phải chờ đón đánh viện binh, việc hạ thành quả là hạ sách. Bình Định vương Lê Lợi sau khi cân nhắc đã quyết định củng cố vòng vây thành Đông Quan. Nhiệm vụ đặt ra là không chỉ uy hiếp Đông Quan từ một vài hướng, mà còn phải tổ chức bao vây thật kín kẽ, không cho Vương Thông có đường hành quân đào thoát hay phối hợp với các khối quân Minh khác.
Bình Định vương Lê Lợi đã chia quân làm 4 hướng, đóng doanh trại ngay trước 4 cửa thành Đông Quan để bao vây:
- Hướng cửa đông do Thiếu úy Trịnh Khả thống lĩnh
- Thái giám Lê Chửng (hay Lê Cực) cầm quân Thiết Đột giữ cửa tây
- Hướng cửa nam do Tư đồ Đinh Lễ chỉ huy
- Thiếu úy Lý Triện được giao trọng trách trấn giữ cửa bắc
Tuyến sau của bốn doanh này là ba doanh trại Cảo Động (Từ Liêm, Hà Nội ngày nay) nằm phía tây bắc, trại Sa Lôi (thuộc Từ Liêm, Hà Nội) nằm phía tây, Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Nội) nằm hướng nam thành Đông Quan.
Vòng vây hai lớp này đảm bảo quân Minh trong thành Đông Quan hoàn toàn bị cô lập. Để có thể bố trí thế trận này, Bình Định vương Lê Lợi đã phải dùng rất nhiều binh lực. Cùng với việc bố trí lực lượng vây Đông Quan, Lê Lợi cũng dời đại doanh đến đóng ở Bồ Đề (Phú Viên, Gia Lâm, Hà Nội ngày nay). Đại doanh nằm dọc theo dòng sông Hồng, trong doanh dựng một vọng lâu nhiều tầng, cao bằng tháp Báo Thiên (khoảng hơn 90 mét) để nhìn vào trong thành. Ngày ngày, Vương ngự trên tầng cao nhất quan sát động tĩnh quân Minh trong thành. Nguyễn Trãi lúc bấy giờ nhờ có nhiều công lao nơi màn trướng, được tiến phong Triều liệt đại phu, Nhập nội hành khiển, Lại bộ thượng thư kiêm hành Khu mật viện sự là chức quan cao nhất văn ban. Trãi được vinh dự cho ngồi tầng dưới, cùng Bình Định vương thảo luận kế sách và phụ trách soạn thư thảo hịch gởi ra ngoài doanh, phân tích thư từ các nơi gởi đến.
Sở dĩ Lê Lợi trọng dụng một văn nhân như thế, là vì giai đoạn này quân Lam Sơn đã cai quản một vùng lãnh thổ rộng lớn, và cần phải biết cách điều hành bài bản, hòng huy động tối đã nhân tài, vật lực cho trận chiến sinh tử. Nguyễn Trãi là người từng có kinh nghiệm làm quan cho nhà Hồ, lại là một danh sĩ trước khi tham gia vào hàng ngũ nghĩa quân Lam Sơn. Với việc tin dùng Nguyễn Trãi, Lê Lợi vừa phát huy được tài trí của nhân vật này, vừa được lòng hiền sĩ các nơi.
Tại dinh Bồ Đề, Lê Lợi đã xuống những chiếu thư cầu hiền, truyền hịch kêu gọi nhân dân càng chung sức hơn nữa. Một chiến lũy cao ngang mặt thành Đông Quan được dựng lên ở bờ bắc sông Nhị (sông Hồng chảy qua hướng bắc Hà Nội ngày nay), nhờ vào sự đóng góp to lớn về sức người và của cải của nhân dân các xứ gần Đông Quan. Những trại ngoài vây quanh thành Đông Quan cũng đều dựng lũy mà kiềm chế giặc. Chiến thuật lấy lũy vây thành càng làm quân Minh gần như hết đường đào thoát. Quân Lam Sơn đêm ngày tuyển mộ đội ngũ, tập dợt thủy chiến, rèn thêm chiến cụ …
Tuy nhiên Vương Thông cũng không phải là một tướng tay mơ. Mặc dù không có khả năng lật ngược tình thế, tướng giặc vẫn cố gắng điều quân đánh phá vòng vây của quân ta, tìm kiếm những chiến thắng cục bộ hòng khích lệ tinh thần binh sĩ.
Ngày 4.3.1427, quân Minh từ trong thành quan sát thấy cánh quân ở Cảo Động bố phòng sơ hở. Phương Chính bèn cầm quân tinh nhuệ ra đánh úp. Cảo Động là tuyến bao vây vòng ngoài, còn cách thành Đông Quan một vòng vây. Bởi thế mà một số tướng sinh chủ quan, cho rằng giặc kéo ra thành tất gặp phải quân vòng trong trước, rồi quân vòng ngoài mới điều động ứng cứu. Nhưng không ngờ tướng giặc bạo gan lựa chỗ khoảng hở giữa các khối quân ta, dẫn quân luồn sâu xuyên qua trận địa. Lý Triện, Đỗ Bí cùng quân dưới trướng bị đánh bất ngờ nên thương vong lớn. Lý Triện cố sức đánh trả rồi tử trận. Đỗ Bí bị giặc bắt sống làm con tin.
Ngày 13.3.1427, quân Minh vẫn theo chiến thuật luồn sâu thình lình đánh vào trại Sa Đôi. Lần này quân Lam Sơn đã có phòng bị, cố sức chống trả. Hết sạch tên đạn, quân ta dùng cả vò lọ, gạch nấu bếp liệng vào quân Minh. Giặc không tiến được, phóng hỏa đốt nhà dân làm kế hỏa công. Các quân đa phần sợ lửa, nhảy xuống sông bơi trốn, chết đuối rất nhiều. Chỉ có quân Thiên Quan nhiều người không biết bơi, ở lại tử chiến với quân Minh. Khí thế của những người lính cùng đường đã bất ngờ đánh lui được giặc.
Sau hai trận đột kích ra ngoài của quân Minh, Lê Lợi bèn chỉnh đốn các quân, tăng cường phòng bị hơn nữa. Trong cuộc duyệt binh ở Vĩnh Động (Kim Thi, Hưng Yên ngày nay), Vương đã lệnh chém đầu Chánh đốc Nguyễn Liên vì hàng ngũ chiêng trống trễ nải. Nhờ tăng cường nghiêm lệnh, các quân bớt chủ quan hơn với giặc.
Ngày 6.4.1427, Vương Thông đem quân tinh nhuệ đích thân đánh vào trại Tây Phù Liệt. Thái giám Lê Nguyễn cố sức dựa vào lũy mà cầm cự, quân Minh không công phá được. Đến lúc Đinh Lễ, Nguyễn Xí thấy động, liền tức tốc đem 500 quân Thiết đột và tượng binh đến cứu. Tinh binh gặp tinh binh, Vương Thông bỗng chốc trở nên thất thế vì bị hai hướng đánh kẹp lại. Thông liệu thế không chống nổi, bèn hạ lệnh thu quân. Đinh Lễ, Nguyễn Xí ham đánh quá, cứ cưỡi voi đuổi theo bất chấp việc quân của Vương Thông vẫn còn đông. Đuổi đến Mi Động, Thông ngoái lại thấy Lễ và Xí ít quân, liền hô quân đánh quật lại. Voi bị sa lầy, Đinh Lễ và Nguyễn Xí bị giặc bắt. Nơi trướng giặc, Đinh Lễ không ngớt lời mắng chửi. Vương Thông giận quá đem giết đi. Nguyễn Xí thì dù mưu mẹo lừa quân canh, vượt ngục trốn thoát được về.
Những trận tập kích của Vương Thông tuy không làm thay đổi được thế trận chung, nhưng đã khiến quân Minh hăng hái hơn, và làm quân ta tổn thất nhất định. Mỗi một nghĩa quân ngã xuống đều đáng tiếc thương. Trong số những tổn thất đặc biệt phải kể đến là hai danh tướng Lý Triện, Đinh Lễ. Hai ông đều là tướng tài ba, đặc biệt trong chiến cuộc Ninh Kiều đã cùng nhau lập công lao rất hiển hách. Sự hy sinh của hai ông là mất mát rất lớn đối với nghĩa quân.
Những tổn thất ở Cảo Động, Sa Đôi, Mi Động cho thấy rằng tâm lý kiêu binh đã lan truyền trong quân Lam Sơn, sau những ngày dài kinh qua quá nhiều chiến thắng. Bình Định vương Lê Lợi sau khi hay tin Đinh Lễ bị giặc giết rất đau xót, than rằng: “Lỗi tại Lễ quen thắng rồi khinh địch, ta đã nhiều lần răn bảo rồi, quả nhiên bị hại” (theo Đại Việt Thông Sử). Đinh Lễ vốn là cháu gọi Lê Lợi bằng cậu, ngoài nghĩa vua tôi còn có tình thân huyết nhục. Trước đây, Đinh Lễ đại phá quân Minh ở Tốt Động, oai danh lẫy lừng. Quân tướng các doanh đều ca tụng Lễ là giỏi. Duy chỉ có Lê Lợi là răn bảo: “Trăm trận đánh được cả trăm trận không phải là tốt đâu, hắn cậy lanh giỏi quen mùi được luôn, thất bại có thể đứng trông thấy ngay” (theo Đai Việt Sử Ký Toàn Thư). Có thể thấy tâm lý khich địch mà Bình Định vương răn bảo Đinh Lễ cũng là lời nên dành cho toàn quân Lam Sơn vào lúc này.
Một điều may mắn cũng nên kể đến là sự trở về của danh tướng Nguyễn Xí. Ông bị bắt cùng với Đinh Lễ, nhẫn nhịn tìm thời cơ. Cuối cùng dùng mưu lừa được quân canh mà trốn về doanh trại. Khi Xí về đến nơi, Lê Lợi đang dùng bữa, buông đũa chạy vội ra đón mừng. Vua tôi mừng rỡ khôn xiết, Lê Lợi reo lên: “Thực là sống lại!”(theo Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí). Kế đó, Bình Định vương Lê Lợi lại sai đi cầm quân.
Trong lần thứ ba dẫn quân xuất thành đột kích quân Lam Sơn, Vương Thông đã không còn giữ được yếu tố bất ngờ nữa. Việc bắt được tướng của ta chỉ là tận dụng sai lầm cá nhân. Sau trận Mi Động, quân Lam Sơn đã rành mưu của giặc, càng bố trí phòng bị chặt chẽ hơn. Khi các tướng Minh khuyên Vương Thông tiếp tục xuất thành giao chiến, hắn đã bác bỏ vì biết chiến thuật cũ đã không còn dùng được
.

Lê Lợi có 35 vạn quân, sẵn sàng cho trận chiến lớn

   Sự phát triển quá nhanh về quy mô trong một thời gian ngắn bên cạnh việc giúp cho quân đội Lam Sơn trở thành một đạo quân đông mạnh, cũng nảy sinh những khó khăn cho các chỉ huy tối cao ngay trong việc quản lý chính đội quân của mình. Đến năm 1427, quân Lam Sơn đã đông đến hơn 35 vạn người.
Tại mặt trận thành Đông Quan thế trận đã diễn ra đúng như kế hoạch của bộ chỉ huy quân Lam Sơn. Vương Thông sau một số cố gắng quấy rối vòng vây của quân ta, cuối cùng lại phải chịu cảnh bị vây khốn đến mức không còn đường ra khỏi cổng thành. Thế nhưng vẫn còn một những vấn đề lớn mà nghĩa quân Lam Sơn cần phải giải quyết trước khi bước vào trận đánh quyết định với viện binh từ nước Minh sang.
Một trong những vấn đề cốt yếu nhất là chỉnh đốn lại đội ngũ, tổ chức. Sự phát triển quá nhanh về quy mô trong một thời gian ngắn bên cạnh việc giúp cho quân đội Lam Sơn trở thành một đạo quân đông mạnh, cũng nảy sinh những khó khăn cho các chỉ huy tối cao ngay trong việc quản lý chính đội quân của mình. Đến năm 1427, quân Lam Sơn đã đông đến hơn 35 vạn người. Trong số này, có rất nhiều tân binh chưa nhiều kinh nghiệm chiến đấu. Bình Định vương Lê Lợi đã phải tổ chức nhiều cuộc tập trận, duyệt binh để nâng cao khả năng chiến đấu cho các tân binh. Đồng thời, tổ chức quân đội cũng được xếp đặt lại một cách bài bản và quy củ. Kỷ luật được quy định rõ ràng và nghiêm ngặt. Lê Lợi cho thi hành 10 điều nghiêm cấm đối với tướng hiệu và quân nhân, hễ ai phạm phải một trong các điều này đều xử chém:
1 - Làm huyên náo trong quân.
2 - Gây kinh động hão, bịa điều họa phúc làm dao động lòng quân.
3 - Khi ra trận, nghe tiếng trống, thấy cờ hiệu mà giả cách không nghe, không thấy, dùng dằng
không tiến.
4 - Khi ra trận, trông thấy cờ dừng quân, nghe thanh la dừng quân mà không đứng lại.
5 - Nghe tiếng chiêng lui quân mà cưỡng lại không lui.
6 - Canh phòng túc trực không siêng, hoặc ngủ say bỏ canh, bỏ hàng ngũ ngầm trốn về.
7 - Đắm đuối nữ sắc,lén lút thả riêng cho người họ nhà vợ không làm quân dịch.
8 - Thả quân lính để lấy tiền và che dấu không biên vào sổ quân.
9 - Theo thói ưa ghét của riêng mình mà đảo lộn công tội của người.
10 - Bất hoà với mọi người, gian ác, trộm cắp.
( theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư )
Đối với các võ tướng thì có thêm ba điều răn :
1- Chớ thờ ơ.
2- Chớ lừa dối.
3-Chớ tham lam.( theo ĐVSKTT )
Sau đó, lại ra quân lệnh: “Hễ nghe một tiếng pháo nổ mà không có tiếng chiêng thì phải đến ngay để nghe mệnh lệnh. Khi nào có hai, ba tiếng pháo và hai ba tiếng chiêng nổi lên thì là có động gấp rút, bấy giờ chấp lệnh thì mau mau sắp xếp hàng ngũ cho chỉnh tề, thiếu úy thì tới quân doanh để nghe mệnh lệnh. Các quân khi đi trận, mà lùi chạy, hoặc bỏ không cứu quân đoạn hậu thì phải chém. Nhưng khi biết góp sức khiêng ra được bạn đồng ngũ không may chết trận thì được miễn tội chạy trốn ấy.” (theo Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục)
Những quy định rất cụ thể, rõ ràng đã giúp khả năng hiệp đồng tác chiến quy mô lớn của quân Lam Sơn được nâng cao. Đặc biệt là đầu não Lam Sơn dù trên đà thắng trận nhưng vẫn dự liệu việc ra quân bị thất thế bị rút lui, nên ra ra điều luật “bỏ không cứu quân đoạn hậu thì phải chém”. Điều này có nghĩa là chẳng may thất thế, thì đội quân chặn hậu vẫn được coi là đối tượng được các đồng đội hỗ trợ để tìm đường sinh tồn, chứ không phải mặc định là đội cảm tử, “thí mạng” như nhiều quân đội khác.
Thói kiêu binh cũng là một trong những điều quan trọng cần nói. Kiêu binh trước là khinh nhờn quân pháp, sau là chủ quan khinh địch, muốn sớm nhàn hạ. Việc Lý Triện, Đinh Lễ tử trận chính là những ví dụ điển hình về sự tai hại của sự kiêu ngạo. Lê Lợi đã cố gắng uốn nắn, khuyên răn các tướng sĩ của mình. Bấy giờ quân Thiết đột trải nhiều phen gian lao, nhiều người hy sinh. Lê Lợi cố gắng ủy lạo những chiến sĩ tinh anh này, và ra chiếu dụ rằng: “Đồng lòng liều mạng để phá giặc… Đó là công sức của các ngươi. Còn như sắp xếp quy mô kế hoạch, lo liệu áo mặc, lương ăn, ban thưởng, ban tước thì ở cả một mình ta đây. Các ngươi nên một lòng một dạ đánh giặc, đừng ngại nhọc nhằn” (theo KĐVSTGCM)
Lê Lợi thậm chí bất đắc dĩ đã phải dùng nghiêm hình đối với những người có thân tín có công cao, chức lớn để làm răn, hòng củng cố kỷ luật quân đội. Tư mã Lê Lai (tên thật là Nguyễn Thận, đổi sang tên Lê Lai, trùng tên với Lê Lai chết thay cho Lê Lợi) cậy là người theo hầu Lê Lợi từ đầu, có nhiều công lao đánh dẹp, nên ăn nói có nhiều lời khinh mạn. Lê Lợi đã xử tử Lê Lai vì vi phạm quân pháp.

Đại phá thành Xương Giang, đem con gái người Minh chia cho sĩ tốt

   Mùa thu năm 1427, những việc củng cố đội ngũ, hoàn thiện hệ thống cai trị cơ bản đã làm xong, Bình Định vương Lê Lợi tiếp tục những bước chuẩn bị cuối cùng cho trận chiến quyết định. Bấy giờ, thành Xương Giang đã nhiều tháng không hạ được, là một cái gai lớn cần phải gấp rút nhổ bỏ.



Nói về tình hình thành Xương Giang, trước hết phải kể qua chính sách di dân của nước Minh. Bên cạnh việc bắt người Việt đưa sang nước Minh làm nô lệ, Minh triều còn cho người nước Minh sang ở trong các thành thị trên lãnh thổ Đại Việt. Đây là một trong những chính sách nhằm mục đích đồng hóa người Việt. Người nước Minh sang đất Việt ở trước tiên phải kể đến là vợ con, gia quyến của các binh lính, quan lại người Minh. Kế đến là giới thị dân, thương gia. Hiện chưa có con số thống kê, nhưng ước tính có đến hàng vạn người Minh đã sinh sống trên lãnh thổ nước ta, chủ yếu tại các thành lớn hoặc gần biên giới nước Minh như Đông Quan, Tam Giang, Tây Đô, Khâu Ôn… Thường dân người Minh bị bắt làm tù binh đông đúc đến mức Bình Định vương Lê Lợi phải hạ lệnh các xứ chia nhau chu cấp cho họ. Bốn xứ Thiên Trường, Kiến Xương, Lý Nhân, Tân Hưng phải chia nhau nuôi ăn 6.000 thường dân người Minh bị bắt. Điều này thể hiện thiện chí rất lớn của nghĩa quân Lam Sơn, ngay khi mà chiến tranh còn đang gay cấn.
Riêng tại thành Xương Giang, quân Minh chính quy vốn chỉ có vài ngàn, do các tướng Lý Nhậm, Kim Dận, Cố Phúc, Phùng Trí, Lưu Thuận, Lưu Tử Phụ chỉ huy. Các tướng Minh đã dùng lời và đe dọa vừa cổ vũ các dân chúng trong thành (chủ yếu là người Minh), cả nam lẫn nữ, già trẻ đều cùng tham gia thủ thành. Cùng với ưu thế vượt trội về hỏa lực, thêm thành cao, hào sâu, thành Xương Giang trở thành một con nhím vô cùng khó công phá. Xưa kia Lý Thường Kiệt đánh thành Ung Châu, quân tướng đều tinh nhuệ nhưng cũng phải đến hơn một tháng rưỡi mới hạ nổi, thiệt hại lên đến hơn một vạn quân. Ung Châu và Xương Giang đều có điểm chung là quân và dân đều tự đặt mình vào thế cùng mà đồng lòng tử thủ, và đều là thành trì kiên cố, vũ khí dồi dào. Riêng thành Xương Giang còn có ưu thế của thời đại, khi mà hỏa lực trên thành hoàn toàn vượt trội nghĩa quân Lam Sơn. Ngoài ra còn có một điểm bất lợi là quân lính mà Bình Định vương Lê Lợi dùng để đánh thành vốn không phải quân lính tinh nhuệ mà là tân binh mới tuyển ở các lộ Khoái Châu, Lạng Giang khi quân Lam Sơn tiến ra bắc.
Vì có nhiều điều bất lợi nên mặc dù các tướng Lê Sát, Lê Thụ, Nguyễn Đình Lý (tức Lê Lý), Lê Lĩnh, Lý Triện, Lê Hốt đều là tướng tài ba với hàng vạn quân trong tay nhưng đánh với giặc hàng mấy tháng trời vẫn không hạ nổi. Quân Lam Sơn cố gắng tiếp cận tường thành trước hết phải vượt qua hỏa lực của các loại súng đại bác, hỏa tiễn trên thành bắn xuống. Thành cao, quân ta trèo lên thì địch trên thành giương cờ hò hét, chống cự rất mãnh liệt. Đánh nhau ngày đêm, quân ta thiệt hại nhiều vẫn không hạ được thành.
Quân Lam Sơn phải chuyển sang kế hoạch lâu dài hơn. Lê Lợi điều động nhân dân các xứ tích cực rèn vũ khí, đúc súng lớn, tải lương thực tiếp tế cho đội quân đánh thành Xương Giang. Lê Sát cùng các tướng lại ở ngoài thành dựng thêm nhiều chiến cụ công thành, lại đắp núi đất, đặt súng bắn vào thành. Quân dân nước Minh trong thành thiệt hại nặng, nhưng vẫn quyết tâm chiến đấu. Nhân một đêm tối trời, Lý Nhậm dẫn cảm tử quân ra ngoài thành đánh phá, đốt các chiến cụ mà quân ta dày công chế tạo. Quân Lam Sơn bị bất ngờ nên để mất mát các chiến cụ quan trọng và để xổng mất quân địch. Mất đi các chiến cụ, việc công phá thành lại thêm cam go. Quân Lam Sơn dùng kế đào địa đạo vào trong thành. Bọn Lý Nhậm, Cố Phúc phát hiện được, cho đào hào cắt ngang địa đạo, ném đá xuống như mưa, quân ta lại bị thiệt hại. Suốt hơn sáu tháng trời, quân Lam Sơn vừa chế tạo lại chiến cụ công thành vừa đánh giằng co với địch.
Đến tháng 9.1427, mặc dù cục diện thành Xương Giang vẫn không ngã ngũ, tình hình trên cả nước lại có những biến chuyển tích cực. Vòng vây quanh thành Đông Quan đã được củng cố chặt chẽ như kế hoạch của Bình Định vương Lê Lợi. Các hậu phương được củng cố, hệ thống cai trị dần hoàn thiện, lực lượng quân Lam Sơn được bổ sung, quân lính được huấn luyện và trang bị tốt hơn. Thêm nhiều thành trì khác của quân Minh đã bị đánh hạ hoặc xếp giáo quy hàng. Thành Xương Giang càng trở nên trơ trọi. Tình hình mới cho xếp Lê Lợi có thêm nhiều lực lượng cơ động mạnh để tung vào các điểm nóng trên chiến trường. Thái úy Trần Nguyên Hãn được lên đem quân tăng cường cho mặt trận thành Xương Giang, hội binh với Lê Sát và các tướng lên đến 8 vạn quân, nhận nhiệm vụ bằng mọi giá phải sớm hạ được thành trước khi bọn Liễu Thăng, Mộc Thạnh tiến sang.
Đáp lại lòng tin tưởng của Bình Định vương, Trần Nguyên Hãn cùng các tướng đã dùng kế hợp nhiều phương pháp công phá thành. Các núi đất được tăng cường đắp lên quanh bốn mặt thành, từ đó súng đạn, cung nỏ của quân Lam Sơn bắn vào thành tới tấp. Trần Nguyên Hãn lại cho quân một lần nữa đào địa đạo xuyên vào trong thành, đồng thời tung quân với sự yểm trợ của tượng binh tràn lên tấn công khắp bốn mặt thành. Quân Minh nhiều tháng đánh nhau, lực lượng cũng đã hao hụt nhiều. Đến khi quân ta tổng tiến công như thế, chúng đạ bị phân tán làm nhiều hướng, không còn phòng bị được kín kẽ. Quân Lam Sơn từ địa đạo chui lên, đánh tỏa ra, cùng với quân từ bên ngoài, toàn thành bị tắm máu. Bấy giờ là ngày 28.09.1427, thành Xương Giang bị hạ sau 6 tháng bị vây đánh. Bọn tướng Minh từ Lý Nhậm trở xuống đều tự sát. Quân Lam Sơn phóng hỏa đốt thành, bắt sống hết những người còn sống sót. Trần Nguyên Hãn đem hết những chiến lợi phẩm, ngọc lụa, con gái người Minh chia cho sĩ tốt làm quà khích lệ (theo Đại Việt sử ký toàn thư).
Chiến thắng Xương Giang có ý nghĩa lớn về chiến lược. Một điểm nóng đóng vai trò làm bàn đạp cho quân Minh từ trong nước đánh xuống đã bị tiêu diệt sau nhiều tháng khó nhọc. Xương Giang giờ đây lại trở thành một cứ điểm phòng ngự lợi hại của quân Lam Sơn, chắn ngang con đường tiến quân mà giặc dự kiến. Thắng trận không lâu thì thám binh cũng báo về, viện binh nước Minh dưới trướng Liễu Thăng, Mộc Thạnh sau nhiều tháng chuẩn bị, gom quân, hành quân đã tiến đến gần biên giới, chuẩn bị tập kết vượt biên tiến vào lãnh thổ nước ta.
Bấy giờ sau khi thành Xương Giang bị hạ thì trên nước ta chỉ còn bốn thành mà quân Minh còn chiếm giữ là Đông Quan, Chí Linh, Cổ Lộng, Tây Đô. Cả bốn thành đều bị vây chặt không thể cự quậy. Tại mặt trận Đông Quan, quân Lam Sơn lại vừa phá được thành phụ của giặc ở đê Vạn Xuân, từ chỗ ấy đắp lên một chiến lũy dọc đê, chỉ trong một đêm hoàn toàn cắt đứt đường ra thành chăn ngựa, cắt cỏ của quân Minh.Các tướng thấy quân trong thành đã khốn cùng mà viện binh giặc sắp sang, phần nhiều khuyên Bình Định vương đánh gấp để hạ thành Đông Quan, tiệt nguồn nội ứng của giặc. Lê Lợi đáp: “Đánh thành là hạ sách. Ta đánh thành bền vững hàng năm hàng tháng không hạ được, khi ấy quân ta sức mỏi chí nhụt, nếu viện binh của giặc lại đến thì trước mặt, sau lưng đều bị tấn công, đó là con đường nguy hiểm. Chi bằng nuôi sức quân, mài giũa tinh thần sắc bén, để đợi viện binh của giặc. Viện binh giặc bị phá thì thành giặc nhất định phải hàng. Như thế là nhất cử lưỡng tiện, là mưu chước vẹn toàn” ( Đại Việt Sử ký toàn thư).
Chư tướng nghe lời bàn, đều phục là cao luận. Rõ ràng các trận đánh thành Khâu Ôn, Xương Giang là minh chứng rõ nét cho sự khó khăn của việc công phá những thành trì quân Minh. Trong khi quân ta hoàn toàn có khả năng thực hiện chiến lược "Vây thành diệt viện". Theo chiến lược chung, Lê Lợi tiếp tục thực hiện những bước chuẩn bị đón đánh viện binh giặc. Đồng thời, ngài vẫn không quên tiếp tục việc chiêu hiền đãi sĩ. Chiếu cầu hiền đã truyền xuống quân dân, lời lẽ rất khiêm nhường :
"Các thành đã phá được rồi, chỉ còn thành Đông Quan chưa hạ được. Ta vì thế mà nằm không yên chiếu, ăn không ngon miệng, sớm khuya suy nghĩ, khô héo ruột gan. Thế mà bên cạnh ta, vẫn chưa có được người giúp đỡ. Ta tuy là chủ tướng, nhưng xét lại bản thân mình một là già ốm, bất tài, hai là học thức nông cạn, ba là trách nhiệm nặng nề khó bề kham nổi, mà các đại thần như tả, hữu tướng quốc, thái phó, thái bảo vẫn chưa đặt, thái úy, đô nguyên soái vẫn còn khuyết, hành khiển và các quan, mười phần mới được một, hai phần. Cho nên, ta nhún mình thành thực khuyên bảo các hào kiệt cùng nhau dốc sức, cứu giúp muôn dân, chớ có mai danh ẩn tích, để thiên hạ phải lầm than mãi mãi. Nếu có ai khí tiết thanh cao như Tứ Hạo, lánh đời ẩn tích như Tử Phòng cũng hãy ra cứu nạn cho dân đã, đợi khi thành công, muốn thoả chí xưa thì lại trở về rừng núi, không hề cấm giữ". (theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
Lê Lợi đồng thời cũng xuống chiếu dụ quân dân: “Giặc mạnh chưa trừ diệt hết, dân sinh chưa được thỏa thuê, các ngươi có yên tâm không? Xưa kia, họ Hồ lỗi đạo, người Minh thừa cơ kéo sang xâm lược, bắt dân ta phải chịu thuế nặng, sưu cao, hình phạt hà khắc. Các ngươi đều mắc vào vòng bạo ngược của chúng, nên mới cùng nhau đứng dậy, chống kẻ thù địch. Bây giờ công việc đã gần thành tựu, các ngươi nên cố gắng đắp tròn quả núi, đừng để thiếu một sọt đất mà núi phải dở dang! Vả, chỉ phải dùng sức khó nhọc một năm mà được hưởng vui sướng thái bình muôn thuở. Các ngươi hãy cố gắng lên!” (theo Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục)
Riêng đối với quân nhân, tướng hiệu người các xứ Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa là những xứ góp công lớn giúp cuộc khởi nghĩa Lam Sơn vượt qua những thử thách chông gai buổi ban đầu, Lê Lợi vẫn có thái độ ưu đãi đặc biệt. Ngài dụ rằng:
“Ta khởi binh ở đất các ngươi, đã gần thành công. Mong các ngươi trước sau một lòng, vàng đá một tiết, để trọn nghĩa vua tôi, cha con. Ta biết các ngươi đều là hiền sĩ của đất nước. Trước kia, Hưng Khánh, Trùng Quang chỉ có tiếng hão, không nên công gì là bởi chính lệnh không thống nhất, đại thần không được biết gì. Bọn các ngươi chỉ uổng phí sức lực cho họ thôi. Nay thiên hạ về một mối, ta cùng các ngươi như nghĩa cha con, mong các ngươi dốc lòng khôi phục lãnh thổ nước nhà. Từ xưa các tướng văn tướng võ được phong hầu cũng chỉ như các ngươi thôi, có khác gì đâu. Các ngươi hãy chỉnh đốn đội ngũ của mình, luyện tập quân sĩ của mình, sau khi dẹp yên bọn giặc tàn bạo, sẽ chia một nửa sốngười về làm ruộng. Nay trời mượn tay ta diệt giặc, việc không đừng được. Kẻ nào theo lệnh ta thì phá được giặc, vẫn sống mà lại có công, kẻ nào không theo lệnh ta thì chết mà chẳng được việc gì! Mỗi đội đều phải chép lại một bản lệnh này, mỗi ngày đọc đi đọc lại nhiều lần cho quân lính được biết”. (theo ĐVSKTT)
Ngài cũng hứa hẹn sau khi dẹp giặc sẽ thư giãn sức dân, cho quân sĩ được nghỉ ngơi: “Giặc Minh tàn hại dân ta đã hơn hai chục năm. Buổi đầu số quân của ta có mấy trăm người. Hiện nay có 35 vạn. Đợi khi phá được thành Đông Quan, sẽ cho 25 vạn người về nhà làm ruộng, chỉ để lại 10 vạn làm quân để phòng việc nước. Một nhà 3 người thì 1 người làm quân, mọi loại phú dịch đều tha cho 3 năm” (theo ĐVSKTT)
Những chiếu dụ của Lê Lợi ban xuống là một nguồn động viên tinh thần rất lớn đối với quân dân cả nước, cũng là nhắc nhở quân dân rằng cần phải cố gắng hơn nữa mới có thể đi đến thắng lợi cuối cùng. Các chiếu dụ này, hầu hết đều qua ngòi bút của Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi soạn thảo. Sách Lam Sơn Thực Lục đã ghi nhận công lao của Nguyễn Trãi: “Vua từ khi khởi binh cho đến khi dẹp được giặc Ngô và giành lại được nước nhà, bao nhiêu văn thư qua lại ở trong quân ngũ đều do Nguyễn Trãi làm cả”.
Quân Lam Sơn cũng đặc biệt có bước thay đổi từ chế độ tuyển mộ sang chế độ quân dịch. Sổ quân dân đã được lập ra để kiểm soát nhân khẩu trên cả nước. Căn cứ vào sổ sách, tráng đinh sẽ thực hiện nghĩa vụ tòng quân diệt giặc. Những kẻ du thủ du thực, cố tình trốn tránh cũng bị truy xét, bắt buộc sung quân để đền nợ nước. Chế độ quân dịch đã đánh dấu sự chuyển mình của quân đội Lam Sơn từ một đạo quân ứng nghĩa trở thành một quân đội chính quy của chế độ quân chủ chuyên chế. Đây là xu hướng tất yếu đi cũng như việc một hoàng triều mới sẽ hình thành sau khi cuộc khởi nghĩa thắng lợi. Việc đổi sang chế độ quân dịch đã giúp quân ta chủ động được nguồn quân số, và giúp san sẻ trách nhiệm diệt giặc cứu nước một cách công bằng hơn. Lê Lợi đã cố gắng huy động ở mức cao nhất sức mạnh tổng hợp của cả nước
Các biện pháp chấn chỉnh đội ngũ, củng cố sự cai trị, cổ vũ tinh thần quân dân đã đem lại cho quân Lam Sơn một sức mạnh mới, sức mạnh của một vương triều phong kiến đang hình thành. Giặc Minh vẫn chưa sạch bóng trên toàn cõi đất nước, nhưng hiệu lệnh của Bình Định vương Lê Lợi đã thực sự được thông suốt từ trên xuống dưới, cố kết cả nước thành một khối thống nhất. Chỉ có như vậy quân dân ta mới đủ sức đương đầu với lực lượng quân Minh được tổ chức bài bản, quy củ và đông mạnh. Mùa thu năm 1427, nghĩa quân Lam Sơn đã đủ điều kiện để giải quyết dứt điểm những vấn đề còn lại trước khi viện binh giặc tiến sang. Vấn đề thứ nhất là hạ thành Xương Giang, một bàn đạp mà viện binh nước Minh có thể dùng. Vấn đề thứ hai là củng cố các cửa ải, cơ động các lực lượng hùng mạnh nhất lên biên ải để đón đánh giặc.

Lê Lợi giăng thiên la địa võng, chờ đón đầu Liễu Thăng

   Các tướng Lê Sát, Trần Lựu, Lưu Nhân Chú, Đinh Liệt, Lê Lĩnh, Lê Thụ nhận trọng trách đem 1 vạn quân tinh nhuệ lên giữ ải Chi Lăng, là nơi dự kiến diễn ra trận đánh quan trọng đầu tiên trong chiến dịch đánh diệt 10 vạn quân của Liễu Thăng.

Theo chiến lược Vây thành diệt viện, sau các chiến thắng Khâu Ôn, Xương Giang, nghĩa quân Lam Sơn đã hoàn thành kế hoạch chặt đứt những “cầu nối” của quân Minh trên tuyến đường từ Quảng Tây đến Đông Quan. Những lực lượng cơ động đông mạnh của quân ta được rảnh tay, Bình Định vương bèn cho đều quân lên tăng cường cho hai tuyến biên giới tây bắc và đông bắc để chuẩn bị quyết chiến với quân cứu viện của Mộc Thạnh và Liễu Thăng. Khác với những cuộc chiến trước đó của dân tộc Việt khi đối đầu với các đạo quân phương bắc, lần này Lê Lợi và tướng lĩnh Lam Sơn lựa chọn chiến trường chính là ngay ở các cửa ải địa đầu, không cho chúng tiến xuống vùng đồng bằng. Sự lựa chọn này đến như một lẽ hiển nhiên, đến từ hoàn cảnh lúc bấy giờ.
Lý do tiên quyết là ở trong nội địa, quân Minh còn giữa được bốn thành Đông Quan, Tây Đô, Cổ Lộng, Chí Linh làm chỗ trú chân. Nếu để quân tiếp viện của giặc đánh được vào sâu, chúng sẽ giải vây được cho đồng bọn, hình thành thế trận trong đánh ra, ngoài đánh vào. Khi ấy diễn biến trận chiến sẽ trở nên rất khó lường. Lý do thứ hai cũng không kém phần quan trọng là bởi quân Lam Sơn không giống những đội quân mạnh truyền thống trước đây của người Việt. Nếu như các triều trước từ Ngô – Đinh – Tiền Lê – Lý – Trần – Hồ đều có thủy quân hùng mạnh, có thể tận dụng hệ thống sông ngòi chằng chịt làm lợi thế chiến đấu thì ngược lại, quân Lam Sơn khởi phát từ rừng núi Thanh Hóa, giỏi chiến đấu trên bộ, nơi địa hình rừng núi phức tạp.
Đầu tháng 10/1427, hai đạo quân Minh tiếp viện đã tiến sát biên giới. Ở hướng Vân Nam, Kiềm Quốc công nước Minh là Mộc Thạnh cùng các tướng Từ Hanh, Đàm Trung với 5 vạn quân, 1 vạn ngựa đã chỉnh tề đội ngũ, sửa soạn tiến đánh ải Lê Hoa (thuộc Lào Cai, giáp Vân Nam). Phía đông bắc thì tướng giặc là Chinh lỗ tướng quân Thái tử thái phó An Viễn hầu Liễu Thăng, Tham tướng Bảo Định bá Lương Minh, Đô đốc Thôi Tụ, Binh bộ thượng thư Lý Khánh, Công bộ thượng thư Hoàng Phúc, thổ quan Hữu bố chính sứ Nguyễn Đức Huân dẫn 10 vạn quân, 2 vạn ngựa chiến nhằm đánh ải Pha Lũy (nay thuộc Bằng Tường, Quảng Tây, Trung Quốc).
Trước thềm trận chiến quyết định, Lê Lợi đã có lời nhận định: “Giặc vốn khinh ta, cho là ngưới nước ta nhút nhát, sợ oai giặc đã lâu, nay nghe tin đại quân sang, hẳn là ta rất hoảng sợ. Huống chi lấy mạnh nạt yếu, lấy nhiều lần ít đó là lẽ thường. Giặc không thể tính được hình thế được thua của người của mình, không thể hiểu được cơ vi qua lại của thời của vận. Vả lại, quân đi cứu nguy cấp phải lấy mau chóng làm quý, giặc nhất định phải hành quân gấp vội. Binh pháp có nói: Hành quân 500 dặm mà chỉ vội hám lợi thì sẽ què thượng tướng. Nay Liễu Thăng đến, đường sá xa xôi, quân lính tất mỏi mệt. Ta đem quân nhàn khỏe, đợi đánh quân mỏi mệt, nhất định sẽ thắng” (theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
Để nuôi thêm sự kiêu ngạo của giặc, Nguyễn Trãi nhân danh của vua bù nhìn Trần Cảo soạn thư cầu hòa gởi đến Liễu Thăng. Thư có đoạn viết:
“Nay tôi tủi phận là con cháu còn sót lại của vua Trần, ẩn náu ở đất Lão Qua đã hơn 10 năm nay. Người trong nước tôi khổ về chính sự khắc nghiệt của các quan lại triều đình [chỉ quan tướng nước Minh đô hộ]; nhớ lại ơn đức cũ của các vua Trần trước kia, mới cùng bàn nhau đánh đuổi bọn quan cai trị, ép tôi về nước. Khoảng tháng 11 năm ngoái, các quan quân đóng giữ ở các thành các xứ đều đã lục tục mở cửa, bỏ binh giáp, hòa giải cùng với chúng tôi. Tất cả các quan lại và quân dân trai gái gồm có hơn một vạn người, chúng tôi đều thu nuôi cả, không phạm đến mảy may.
Nay tôi lại nghe thấy, triều đình lại sai tướng quân đem đại quân đến bờ cõi nước tôi; không biết rõ đạo quân ấy là quân cứu viện chăng? Hay là quân đến đóng giữ chăng? Hay lại là quân đến làm việc lập lại họ Trần chăng? Các ông ví xét rõ sự tình thời thế, đóng đại quân lại rồi đem việc hào giải của tất cả các quan lại quân dân nói trên kia, làm tờ số tâu rõ công việc về triều đình, tôi cũng liền lập tức cho đúc người vàng, mang tờ biểu, tiến cống thổ sản địa phương.
Còn các bầy tôi trong triều may ra biết đem đường lối thẳng thắn can ngăn Vua [chỉ Tuyên Tông nước Minh] lại làm việc dấy kẻ bị diệt, nối lại dòng kẻ mất gốc mà tránh được việc phi lí dùng binh đến cùng, khoe khoang võ lực như đời Hán, Đường. Sai một vài đặc sứ dụ dỗ bằng lới nói êm ấm để tha tội cho nước An Nam. Làm như thế thì các ông có thể ngồi yên đó mà hưởng thành công. Mà nước lớn sẽ làm trọn được đạo “lạc thiên”; nước nhỏ cũng tỏ được hết lòng thành thực “úy thiên”. Như thế há chẳng tốt đẹp lắm ru!”(theo Quân Trung Từ Mệnh Tập)
Cùng với việc gởi thư vờ xin Liễu Thăng lui binh, quân ta cũng rút bỏ thành Khâu Ôn vừa chiếm được trước đó không lâu, vì thành này nằm ở vị trí quá xa các ải khác trong nội địa, bất lợi để thiết lập phòng thủ. Liễu Thăng dẫn quân tiến vào thành Khâu Ôn, càng đinh ninh là quân Lam Sơn nhát sợ, nóng lòng muốn lập công to.
Mặc dù xác định sẽ đánh giặc nơi địa đầu, nhưng Lê Lợi vẫn theo gương các đời trước cho nhân dân các xứ phía bắc làm kế thanh dã (tức Vườn không nhà trống). Lúa ngoài đồng được gặt sớm, lương thực đều được mang đi cất giấu, không để lại thứ gì mà quân giặc có thể tận dụng làm quân lương tại chỗ được. Trừ những người làm nhiệm vụ chiến đấu, thì nhân dân đều nhận lệnh sơ tán khỏi những nơi dự kiến sẽ trở thành chiến địa.Trong khi thường dân được lệnh lùi về các tuyến sau, thì những chiến binh dũng mãnh nhất tiến lên tuyến đầu. Các tướng Lê Sát, Trần Lựu, Lưu Nhân Chú, Đinh Liệt, Lê Lĩnh, Lê Thụ nhận trọng trách đem 1 vạn quân tinh nhuệ lên giữ ải Chi Lăng, là nơi dự kiến diễn ra trận đánh quan trọng đầu tiên trong chiến dịch đánh diệt 10 vạn quân của Liễu Thăng. Ở mặt trận tây bắc, các tướng Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả, Lê Trung, Lê Khuyển cũng dẫn quân mạnh lên giữa ải Lê Hoa để cầm cự với 5 vạn quân của Mộc Thạnh.
Lê Lợi không chủ quan ở mặt trận nào khi mà cả hai hướng tây bắc, đông bắc đều có quân mạnh trấn giữ. Nhưng riêng đối với cánh quân của Mộc Thạnh, Bình Định vương nhận định rằng: “Mộc Thạnh tuổi đã già, từng trải việc đời đã nhiều, lại biết tiếng vua từ trước, nhất định còn đợi xem Liễu Thăng thành bại ra sao chứ không nhẹ dạ tiến quân”(theo ĐVSKTT). Do đó, ngài ngầm đem mật thư cho Trịnh Khả, Lê Khuyển lệnh không nên đem quân ứng chiến sớm, chỉ cần đặt mai phục để đợi.
Trọng tâm của chiến dịch vẫn được xác định nằm ở mặt trận phía đông bắc với mục tiêu là tiêu diệt cánh quân của Liễu Thăng. Phía sau đội quân của Lê Sát là hàng loạt các đạo quân hùng mạnh khác chực chờ tiếp ứng cho tuyến đầu. Cách ải Chi Lăng không xa, tướng Lê Lý đặt sẵn phục binh đón đánh quân Minh. Sau quân của Lê Lý là đại quân của Trần Nguyên Hãn đóng ở thành Xương Giang dài đến thành Chí Linh bao gồm cả quân thủy lẫn quân bộ, vừa là điểm tựa cho các quân ngoài biên ải, vừa giữ nhiệm vụ cô lập hoàn toàn quân Minh trong thành Chí Linh, không cho chúng có cơ hội xuất thành. Bản thân Bình Định vương Lê Lợi thì bấy giờ đóng ở dinh Bồ Đề (thuộc Gia Lâm, Hà Nội ngày nay), giữ các vệ quân Thiết đột tinh anh cùng các mãnh tướng Nguyễn Xí, Phạm Vấn, Lê Khôi làm lực lượng dự bị, tùy cơ lợi hại mà tung quân vào chiến trận để tiếp ứng cho các hướng quân hay góp sức đánh dứt điểm quân địch.
Một thế trận liên hoàn, nhiều tầng, nhiều lớp đã được bày ra để chờ đánh viện binh của giặc. Toàn bộ quân dân Việt đã tập trung ở mức cao nhất tinh thần và lực lượng, sẵn sàng bước vào trận chiến sinh tử quyết định vận mệnh toàn dân tộc.

Liễu Thăng bị chém tại Chi Lăng, phó tướng lên thay cũng bỏ mạng

   Liễu Thăng cùng đám kỵ binh mải miết đuổi theo Trần Lựu tiến sâu vào ải Chi Lăng, bỏ xa phần lớn quân Minh ở phía sau. Đến núi Mã Yên, Liễu Thăng và hơn trăm quân kỵ vừa qua cầu treo thì lập tức quân Lam Sơn cho phá cầu. Lúc này thì tình thế coi như đã an bài đối với Liễu Thăng
Đầu tháng 10.1427, 10 vạn quân Minh dưới trướng Liễu Thăng ồ ạt vượt biên tiến vào địa giới nước ta. Ngày 8.10.1427, quân Minh đánh ải Pha Lũy. Trần Lựu là vị tướng đầu tiên của nghĩa quân Lam Sơn giao chiến với Liễu Thăng, mở màn chiến dịch Diệt Viện. Quân ta theo kế hoạch đã định trước, chỉ đánh cầm chừng rồi lần lượt rút bỏ ải Pha Lũy, thành Khâu Ôn để nuôi chí khinh nhờn của địch. Những trại nhỏ mà quân Lam Sơn dựng lên trước đó ở biên ải, cũng đều đánh chiếu lệ rồi rút đi cả. Liễu Thăng thắng dễ mấy trận, nhanh chóng có được thành Khâu Ôn làm chỗ đứng chân, quả nhiên sinh lòng coi thường quân Lam Sơn.
Vừa khi quân Minh tiến vào thành Khâu Ôn, thì thư “cầu hòa” của Nguyễn Trãi cũng được đưa đến. Liễu Thăng ngông cuồng không thèm đọc thư mà cho người chuyển thẳng lên vua Minh, rồi tiếp tục điều quân tiến lên. Đúng như tiên liệu của tướng lĩnh Lam Sơn rằng “Quân đi hàng năm trăm dặm mà chỉ vội nhằm lấy lợi thì viên thượng tướng tất phải kiệt quệ” (theo Cương Mục), quân Minh đang cần tiến gấp để kịp cứu viện cho các thành của chúng trong nội địa, nên các hành động của giặc rất gấp gáp, không có sự trù tính thận trọng. Khi quân Minh vào đất của ta, các tướng Lương Minh, Lý Khánh đều sinh bệnh. Điều đó cho thấy thật sự quân Minh đã phải trải qua những cuộc hành quân vất vả.
Trận Chi Lăng – Liễu Thăng cụt đầu:
Trước sự kiêu căng lộ ra cả nét mặt, lời nói của Liễu Thăng thì chính trong hàng ngũ tướng lĩnh quân Minh cũng sinh lo ngại. Bọn Lễ bộ lang trung Sử An, Chủ sự Trần Dung bàn với Thượng thư Lý Khánh:
“Xem lời lẽ, sắc mặt của chủ tướng [chỉ Liễu Thăng], có vẻ kiêu. Kiêu là điều tối kỵ của binh gia. Vả lại bọn giặc nguỵ trá, hoặc có thể làm ra vẻ yếu để dụ chúng ta. Huống tỷ thư dụ rõ ràng là phải phòng ngừa giặc đặt phục binh. Đây là phút an nguy, Ngài nên nói gấp.”
Bấy giờ quân Minh đã tiến đến Ải Lưu (thuộc huyện Chi Lăng, Lạng Sơn ngày nay, nằm ở phía bắc ải Chi Lăng), quân Minh lại gặp đội quân của Trần Lựu đứng chặn đường như trêu ngươi. Lý Khánh dù đang bệnh nằm ở hậu quân, cũng phải cố gượng dậy đến chỗ Liễu Thăng mà can gián khẩn thiết. Thăng ậm ừ, nhưng vẫn kiêu căng bởi vì sự kích động của quân ta. Tại Ải Lưu, Trần Lựu cầm quân khinh kỵ giao tranh một lúc rồi lại rút lui. Liễu Thăng tức mình vì Trần Lựu cứ tháo lui nhưng rồi lại lảng vảng trước mặt, hắn bèn đích thân dẫn vài trăm kỵ binh thân tín quyết truy đuổi đến cùng. 10 vạn quân Minh cùng đội kỵ binh của Trần Lựu rượt đuổi một quãng đường từ Ải Lưu đến tận ải Chi Lăng.
Ải Chi Lăng là một thung lũng hẹp nằm giữa những dãy núi cao vút… Từ xưa ải Chi Lăng hầu như là con đường mà bất cứ đạo quân phương bắc nào cũng phải đi qua khi tiến đánh phương nam. Phía bắc ải là Quỷ Môn Quan, nơi mà cả người phương bắc lẫn người phương nam đều ái ngại khi đi qua. Có câu thơ của binh lính phương bắc rằng :
Quỷ Môn Quan, Quỷ Môn Quan
Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn
Phía nam ải Chi Lăng là Ngõ Thề, nơi mà những đạo quân người Việt ở các triều đại cất lên những lời thề quyết tử rồi bước vào trận chiến với giặc xâm lăng. Phía tây ải là các núi đá vôi nằm cạnh dòng sông Thương. Phía đông là hai dãi núi Thái Hòa, Bảo Đài. Bên trong ải lại có năm ngọn núi Nà Sản, Mã Yên, Phượng Hoàng, Lỳ Lân, Hàm Quỷ chia cắt ải thành những con đường, thung lũng nhỏ. Nhiều nơi trong ải phải bắc cầu treo để đi qua những đầm lầy, thung lũng, khe suối.
Lại nói về việc Trần Lựu thực hiện nhiệm vụ đánh nhử địch đã hoàn thành rất xuất sắc. Sau một hồi truy đuổi gấp, đội hình quân Minh bị kéo giãn ra, đứt đoạn. Liễu Thăng cùng đám kỵ binh mải miết đuổi theo Trần Lựu tiến sâu vào ải Chi Lăng, bỏ xa phần lớn quân Minh ở phía sau. Đến núi Mã Yên, Liễu Thăng và hơn trăm quân kỵ vừa qua cầu treo thì lập tức quân Lam Sơn cho phá cầu. Lúc này thì tình thế coi như đã an bài đối với Liễu Thăng, khoảng 10 vạn quân Minh phía bên đây đầu cầu chỉ còn cách đứng nhìn chủ tướng của mình cùng hơn 100 kỵ binh bị hãm trong trận mà vô phương ứng cứu. Trong phút chốc, phục binh quân Lam Sơn bốn phía nổi lên vây chặt lấy Liễu Thăng, cùng với quân của Trần Lựu quay ngựa đánh dồn lại, nhanh chóng diệt gọn tiên phong của địch. Liễu Thăng bị mắc vào vũng lầy bên sườn núi, quân ta xáp lại dùng giáo đâm chết, rồi chặt lấy đầu hắn làm chiến lợi phẩm trước sự bàng hoàng, ngẩn ngơ và bất lực của quân tướng nước Minh hầu như vẫn còn nguyên vẹn bộ khung, quân số nhưng không thể làm gì ngoài việc đứng nhìn chủ soái của mình chết thảm. Bấy giờ là vào ngày 10.10.1427.
Lợi dụng lúc 10 vạn quân Minh chưa kịp định thần vì cái chết của chủ tướng, các tướng Lam Sơn là Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Đinh Liệt, Lê Khắc Thụ… cùng đem 1 vạn quân gồm cả tượng binh, kỵ binh, bộ binh từ các ngã đường núi xông ra đánh thốc vào đội hình giặc. Quân Minh tiến sang lần này cũng không phải là một đạo quân dễ dàng buông xuôi. Mặc dù bị mất chủ tướng sớm và bị phục binh bốn bề vây đánh, bọn tướng lĩnh còn lại vẫn bình tĩnh điều quân, cố gắng ổn định lại hàng ngũ. Phó Tổng binh giặc là Lương Minh lên thay Liễu Thăng làm chủ tướng, chỉ huy quân tướng đi vòng qua núi Mã Yên, đánh mở đường tiếp tục tiến lên. Lê Sát cùng các tướng không đủ binh lực đánh chẹn đường, sau khi gây thiệt hại nặng ban đầu cho quân Minh thì vòng ra tuyến sau, bám sát theo đội hình hành quân của địch chờ thời cơ đánh phối hợp với các đạo quân khác. Quân Minh vượt qua ải Chi Lăng với thương vong hơn 1 vạn tên. Chiến cụ của chúng gồm súng lớn, đồ dùng công thành, tên đạn đều bị quân ta đốt sạch.
Lương Minh từ chối nghị hòa, vong mạng nơi Cần Trạm:
Bảo Định bá Lương Minh sau những giờ phút kinh hoàng ở ải Chi Lăng vẫn còn trong tay chừng 9 vạn tinh binh, hắn vẫn nuôi hy vọng tiến quân xuống đồng bằng. Lúc này, với mong muốn sớm lập lại hòa bình và tránh khỏi sự thù địch về sau của Minh triều, Lê Lợi sai Nguyễn Trãi gởi thư chiêu dụ Lương Minh ngay khi quân Minh vượt ải Chi Lăng. Thư viết:
“Tôi thường nghe, binh cốt để bảo vệ cho dân, không phải là để làm hại dân, dẹp yên để không phải giết, không phải là để giết nhiều người. Cho nên có câu rằng: “Binh là bắt đắc dĩ mới phải dùng”. Điều mà có thể thôi được hay không thể thôi được, không phải là bản tâm của thánh nhân. Nay các ông đem quân đi sâu vào cõi đất người chính là bị hãm vào thế trong miệng cọp, muốn tiến không được, muốn lui không hay. Còn ta thì nhân thế chẻ tre, sau khi chẻ được mấy đốt, cứ lọng lưỡi vào mà chẻ đi, thực không khó gì. Nhưng ta vẫn nghĩ đến nghĩa nước nhỏ thờ nước lớn, có mặt trời soi trên, không dám thiếu lòng thành kính. Cho nên nhiều lần gửi thư mà các ông vẫn không trả lời. Thế có phải là sự không may của một nước ta chăng? Thế là sự không may lớn cho cả nhân dân thiên hạ. Sao có thể thôi được mà không thôi hẳn.
Trước đây, các thành Tân Bình, Thuận Hóa, Diễn Châu, Nghệ An và Tiền, Hậu vệ, Thị Kiều, Xương Giang, Tam Giang đều đã mở cửa thành, cởi cùng ta hòa giải. Phàm hết thảy quan quân, đàn ông, đàn bà, lớn bé cộng mấy vạn người, ta đều thu nuôi tất cả, không xâm phạm một chút nào. Xin các ông lui ngay quân ra ngoài bờ cõi, ta tự dẹp mở lối về, cho các ông được thung dung đem quân về, ta sẽ đem các quan lại đàn ông, đàn bà nói trên kia trao tất cả ở ngoài bờ cõi. Như thế thì các ông có thể ngồi hưởng thành công mà Nam, Bắc từ nay vô sự, há chẳng hay ư? Nếu có thể thôi được mà không thôi, là do các ông không biết dập tắt lửa đi để cho nó tự cháy lên, không phải là tội của ta vậy. Thư nói không hết lời.”
Khác với nhiều thư từ trước kia, lần này có vẻ như Nguyễn Trãi đã nói với Lương Minh những lời rất thẳng thắn và thực lòng chứ không còn dùng những quyền mưu ẩn đằng sau câu chữ. Việc nghị hòa trên thế thắng đối với nước ta dù rằng không đem lại một chiến thắng trọn vẹn về mặt quân sự, nhưng sẽ là một chiến thắng về ngoại giao rất quan trọng. Việc giành được độc lập mà vẫn giữ được mối quan hệ tốt với nước Minh, một đế chế hùng mạnh nhất phương đông đương thời sẽ mở đường cho một nước Đại Việt mới gây dựng lại phát triển mạnh mẽ, không bị đe dọa bởi chiến tranh và chạy đua vũ trang. Đối với quân Minh, chúng dù vẫn còn lực, nhưng đã mất thế. Việc nghị hòa với quân Lam Sơn cũng là lối thoát khả dĩ nhất cho chúng. Thế nhưng Lương Minh vẫn quen thói cùng binh độc vũ, ngoan cố tiến quân.
Ngày 15.10.1427, quân Minh tiến đến Cầm Trạm (xã Hương Sơn, huyện Lạng Giang, Bắc Giang ngày nay). Tại đây, quân Lam Sơn đã dựng lên một thành lũy nhỏ chắn ngang đường tiến quân của giặc. Hơn ba vạn quân dưới quyền chỉ huy của các tướng Nguyễn Đình Lý, Lê Văn An đã đạt mai phục dày đặc bên đường từ trước. Kịp khi Lương Minh vừa kéo quân đến, phục binh nổi lên đánh phá, lại theo chiến thuật kinh điển của quân Lam Sơn là bẻ gãy tiền phong, nhắm thẳng vào chỗ Lương Minh mà đánh gấp. Đồng thời, các tướng Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Đinh Liệt … trước đó vẫn bám theo sau quân Minh, được dịp cũng hết sức đánh thốc vào mặt sau. Quân Minh cũng ra sức chống trả mãnh liệt, chia thành vòng trận trong ngoài, chiến đấu trên một trận tuyến dài 5 km. Giặc đã tự đặt mình vào thế quyết tử, nên đánh nhau rất hăng. Tuy vậy, quân Lam Sơn vẫn chiếm thế thượng phong nhờ vào sự chuẩn bị kỹ lưỡng từ trước. Bảo Định bá Lương Minh đánh nhau ở vòng ngoài trận, bị trúng lao chết tươi. Quân Minh với các tướng lĩnh còn lại là Lý Khánh, Hoàng Phúc, Thôi Tụ vẫn can trường tiến binh vượt qua Cần Trạm, để lại xác của Lương Minh và hơn 1 vạn đồng đội chết trong trận.

Bị quân Lam Sơn vây khốn, thượng thư nhà Minh cùng đường tự vẫn

Quân Minh liên tục bị đón đánh
   Vừa đặt chân vào địa giới nước Đại Việt, quân Minh đã phải hứng chịu những tổn thất nặng nề. Chỉ trong 5 ngày, cả chủ tướng lẫn phó tướng của giặc đã phải bỏ mạng. Thế nhưng số quân tướng Minh còn lại vẫn chưa chịu bỏ cuộc.
Sau cái chết của Lương Minh trong trận Cần Trạm, bọn Lý Khánh, Thôi Tụ, Hoàng Phúc cố gắng tổ chức lại lực lượng tiếp tục nhằm hướng thành Xương Giang mà hành quân. Do tin tức bị chậm, tướng giặc vẫn cho rằng thành Xương Giang vẫn chưa bị công phá. Chúng hy vọng rằng sẽ vượt qua được sự đánh phá dọc đường của quân Lam Sơn để vào thành Xương Giang dưỡng thương, dùng thành trì làm chỗ tiến thủ.
Qua diễn biến có thể thấy quân Minh tiến sang lần này là một đội quân rất kỷ luật và tinh thần chiến đấu cực cao khi bị mất liền hai tướng soái mà vẫn có thể giữ vững hàng ngũ tiến lên phía trước. Tuy nhiên, thế của giặc đã mất. Mọi hành động của quân Minh đều nằm trong tính toán của các tướng lĩnh Lam Sơn. Quân ta dù không vượt trội về lực lượng, nhưng hoàn toàn nắm thế chủ động trong chiến dịch diệt viện này.
Trận Phố Cát – Lý Khánh cùng kế tự vẫn:
Với ý nghĩ rằng thành Xương Giang vẫn còn do đồng đội chiếm giữ, viện binh nước Minh vẫn giữ được tinh thần mà cố sức chiến đấu. Về phía quân Lam Sơn, các tướng của ta đã không cố gắng khép chặt vòng vây ở Cầm Trạm, cố tình mở đường cho quân Minh tiến xuống. Địa hình từ Cần Trạm trở xuống là thung lũng hẹp và đồi thấp, rừng thưa. Quân ta tập họp lại lực lượng, lợi dụng địa hình theo đường tắt đi gấp bám sát theo sau quân Minh.
Ngày 18.10.1427, quân Lam Sơn tấn công quân Minh tại Phố Cát (Phố Tráng, Lạng Giang, Bắc Giang ngày nay). Tại nơi này, phục binh của quân ta đã xếp đặt sẵn từ trước. Khi quân Minh đến, phục binh trỗi dậy chặn ngang đường tiến. Các tướng Lê Sát, Nguyễn Đình Lý, Lưu Nhân Chú tung hết lực lượng đánh vào hậu quân của giặc. Bị vây đánh dữ dội từ cả hai mặt, quân Minh lâm vào cảnh tiến thoái lưỡng nan. Thượng thư bộ công nước Minh là Lý Khánh lúc này đang bệnh nặng, lại cùng kế, đã tự thắt cổ chết trong quân.
Trận Phố Cát kế thúc nhanh chóng với tổn thất khá nặng nề cho quân Minh. Giặc bị giết đến 1 vạn quân, xác nằm chồng chất lên nhau trên một ngọn đồi, dân gian về sau gọi là đồi Mả Ngô. Quân Lam Sơn bắt được trâu bò, lừa ngựa, quân trang nhiều không kể xiết. Thôi Tụ, Hoàng Phúc là những tướng lĩnh còn lại không còn kế sách gì, chỉ biết cố gắng chỉ huy quân lính vừa đánh vừa rút khỏi trận địa, miễn cưỡng tiến về hướng thành Xương Giang. Lê Sát cùng các tướng cũng giãn ra tái tổ chức lại, chuẩn bị đánh bồi những đòn mới.
Vây khốn Thôi Tụ tại Xương Giang:
Sau bao phen khốn đốn, Thôi Tụ cuối cùng cũng dẫn quân Minh đến được trước thành Xương Giang. Nhưng niềm hy vọng cuối cùng của quân Minh đã khép lại. Ngay trước mắt quân tướng giặc, một thành trì Lam Sơn sừng sững chắn ngang đường. Thôi Tụ, Hoàng Phúc nhất thời chẳng biết tiến thoái đi đâu, bèn đem quân đóng giữa đồng trống, đắp lũy đất thành vòng mà cố thủ.
Bình Định vương Lê Lợi vẫn muốn chừng cho giặc một con đường sống để nối lại mối bang giao về sau, nên đã sai Nguyễn Trãi gởi thêm hai bức thư chiêu dụ. Thư viết:
Tôi nghe: quân của Vương giả, cốt trên thuận òng trời, dưới hợp lòng người. Nay các ông vâng mệnh đi đánh dẹp, chỉ nên trên xét lòng trời, dưới thuận việc người. Trước đây cái tai họa đắm thuyền [trước đó quân Minh hành quân đến Quảng Tây thì bị đắm thuyền chết khá nhiều lính], thì trời đã răn bảo rõ lắm. Phàm quân đi qua một đường nào, việc chạy trốn hại thường thường có đến bao nhiêu người, nhân dân chừa oán lại quá lắm. Các ông bỏ việc ấy không xét đến mà xông pha nguy hiểm, khinh xuất tiến quân. Kinh Dịch có câu nói rằng: “Quân đi phải có kỷ luật, nếu không có kỷ luật thì dẫu phải cùng gặp sự không hay”. Huống chi lòng trời lòng người đã như thế mà các ông còn cố gượng cứ làm, thì tự mua lấy thất bại, há chẳng đáng ư?
Vả lại, bọn An Viễn hầu [Liễu Thăng], Bảo định bá [Lương Minh], Lý thượng thư [Lý Khánh] lại nối nhau bị chết, quân không người thống lĩnh, và không theo kỷ luật, chẳng bại vong sao được. Xin các ông nên chóng lui quân, đóng lại ở đất Long Châu, Bằng Tường[thuộc Quảng Tây, Trung Quốc], tôi lập tức đem ngay các quan lại quân nhân đã bắt được ở các thành đến ngoài cõi, trả lại hết cả. Và đem người vàng đã đúc, sai người đi theo, dâng biểu vào cống để nước nhỏ tôi được hết lễ thờ nước lớn, mà nước lớn được hết đạo vỗ yên người xa. Làm một việc mà được hai điều lợi, hai bên đều tốt cả. Thế không phải là may lớn cho nhân dân cả thiên hạ ư? Các ông nếu còn dùng dằng lâu ngày, chứa lòng nghi ngờ, làm hỏng mưu kế, tôi sợ rằng các ông sẽ chết vùi xương trong bụng cá ở Xương Giang, còn có ích gì đâu?Thư này gửi đến, kính xin trả lời cho biết.
(trích Quân Trung Từ Mệnh Tập)
Một lần nữa Lê Lợi và Nguyễn Trãi lại thể hiện thiện chí rất lớn khi mà phần thắng hầu như đã nắm gần chắc trong tay quân ta. Sự toan tính của Lê Lợi không chỉ gói gọn ở việc thành hay bại trong một cuộc chiến, mà còn nghĩ làm thế nào để giành được độc lập với các giá phải trả về sinh mạng ít nhất và đảm bảo cho một đất nước mới tái sinh có được nền hòa bình lâu dài. Lê Lợi chấp nhận là bên chủ động gây dựng lại lòng tin, gây dựng lại mối quan hệ hữu hảo đối với đế chế Minh đang say máu chiến tranh. Việc này chỉ trông cậy vào tài văn chương của Nguyễn Trãi.
Bọn Thôi Tụ đã cùng đường, nên khi nhận được thư đã hồi đáp, ngỏ ý muốn đầu hàng. Tuy nhiên, với 7 vạn quân còn lại trong tay, Thôi Tụ vẫn chưa cam tâm làm bại tướng. Giặc vẫn đắp lũy đất, đêm bắn pháo hiệu mong quân từ thành Đông Quan, Chí Linh đến cứu. Rõ ràng thiện chí của ta vẫn chưa đủ khuất phục được giặc, mà cần phải dùng thêm võ lực. Bình Định vương Lê Lợi biết được giặc chỉ giả vờ xin hòa, nhất quyết không cho hòa mà càng tăng cường bao vây. Quân ta canh phòng chặt chẽ ở thành Đông Quan, khiến Vương Thông hết đường ứng cứu đồng bọn. Quân giữ thành Chí Linh muốn đem quân lương xuất thành chu cấp cho Thôi Tụ, nhưng Trần Nguyên Hãn chặn ngang đường tiếp vận, cũng không làm được gì ngoài việc phó mặc cho viện binh tự sinh tự diệt. Ở biên thùy, các ải Pha Lũy, Chi Lăng, Mã Yên, Bàng Quan… cũng đều có quân Lam Sơn bịt kín, nội bất xuất ngoại bất nhập.
Đồng thời với các biện pháp củng cố việc bao vây địch ở mặt trận phía đông bắc, quân Lam Sơn cũng tiến hành các bước phá thế ghìm nhau với 5 vạn quân của Mộc Thạnh ở Vân Nam. Đây cũng là chỗ cuối cùng mà bọn Thôi Tụ, Hoàng Phúc hy vọng có thể giúp chúng lật ngược tình thế.

Nguyễn Trãi dùng tâm lý chiến, Mộc Thạnh run rẩy thảm bại

Nguyễn Trãi viết thư khiến giặc kinh hoàng
   5 vạn quân Minh đóng trước cửa ải Lê Hoa đều sợ mất mật khi trông thấy những nhân chứng, vật chứng mà quân Lam Sơn mang đến trước mặt chúng, không còn lòng chiến đấu nữa. Mộc Thạnh biết quân không còn nhuệ khí, bản thân cũng đã khiếp sợ, lập tức hạ lệnh lui binh. Quân tướng nước Minh rút lui trong sự sợ hãi.
Trong lần tăng viện cuối năm 1427, ngoài 10 vạn quân của Liễu Thăng từ Quảng Tây tiến đánh nước ta từ hướng đông bắc còn có cánh quân của Mộc Thạnh với 5 vạn quân từ Vân Nam tiến đánh vùng tây bắc. Mộc Thạnh theo nhận định của tướng lĩnh Lam Sơn là đã già và thận trọng. So với mặt trận đông bắc đánh Liễu Thăng, thì mặt trận hướng tây bắc là thứ yếu. Tuy nhiên, điều này cũng không cho phép nghĩa quân Lam Sơn được lơ là mặt trận này. Bởi nếu biết được quân ta bố trí lực lượng mỏng yếu, Mộc Thạnh ắt sẽ thừa thế tiến vào đánh phá vây cho thành Đông Quan. Ở phía tây Đông Quan, các trận địa bao vây của quân ta sẽ bị uy hiếp trầm trọng từ cả hai phía.
Cánh quân Vân Nam mặc dù không tiến đánh gấp, nhưng đã kiềm chế một bộ phận không nhỏ lực lượng của quân Lam Sơn, cùng với các tướng lĩnh tài ba là Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả, Nguyễn Chích, Lê Trung... Theo lệnh của Bình Định vương Lê Lợi, các tướng lĩnh tại mặt trận phía tây bắc này không chủ động tung quân đánh lớn, mà đặt phục binh để đợi giặc. Nhưng Mộc Thạnh thận trọng không mắc mưu, cứ án binh bất động. Quân ta cũng không thể rút bớt lực lượng tăng cường cho nơi khác khi mà địch tập trung dày đặc bên kia chiến tuyến.
Theo chính sách vừa đánh vừa chiêu dụ, Bình Định vương Lê Lợi cũng sai Nguyễn Trãi dùng danh nghĩa của vua bù nhìn Trần Cảo viết thư cho Mộc Thạnh. Tuy rằng Thạnh mưu trí và thận trọng, nhưng cũng là kẻ cầu toàn, so với Liễu Thăng thì kém ở dũng khí. Nắm được tâm lý của tướng giặc, Nguyễn Trãi không thiên về kích động sự kiêu ngạo như những thư gởi cho Liễu Thăng mà đi sâu vào phân tích sự được mất, lợi hại. Thư có đoạn:
“… Kể ra đồ binh là thứ hung bạo, đánh nhau là việc nguy hiểm. Thánh nhân bất đắc dĩ mới dùng đến. Còn việc dùng binh đến cùng, cậy vào vũ lực là điều mà xưa nay vẫn răn dạy. Từ khi quân nhà vua dẹp yên cõi Giao Chỉ đến giờ, binh đao liền liền, tai vạ chồng chất, một ngày một quá lắm. Người Trung Quốc [chỉ nước Minh] thì bị đòi bắt tần phiền, quân và ngựa đều bị chết. Cái lấy được không bù cho cái bị mất, cái cướp được không chữa được vết tổn thương. Trừ ra, nguyên số quân đi đánh lần tước, và nhiều lần tiếp tục, quân và ngựa chết hại không biết đâu mà tính. Không kể, năm ngoái, lại điện phát quân và ngựa ở ba tỉnh Vân Nam, Tứ Xuyên, Quý Châu hiện nay mười phần không còn một phần. Cứ xem thế, bảo đồ binh là thứ hung bạo, đánh nhau là việc nguy hiểm, há chẳng đúng lắm ru ? … ”(trích Quân Trung Từ Mệnh Tập)
Sau khi phân tích thiệt hơn, Nguyễn Trãi vừa khuyên Mộc Thạnh trình thư về vua Minh và cho lui binh. Mộc Thạnh xem thư, chừng ý chí tiến quân càng giảm xuống, nhưng hắn vẫn không dám cho lui binh vì như thế sẽ phạm quân kỷ của nước Minh.
Trong khi Mộc Thạnh cùng các tướng Lam Sơn ghìm nhau không giao chiến, thì chiến sự đông bắc diễn ra ác liệt với những tổn thất nặng nề cho đạo quân 10 vạn người ngựa dưới trướng Liễu Thăng, liên tiếp hai tướng soái của quân Minh bị giết trong mấy ngày. Việc giành được lợi thế ở mặt trận chính này cũng mở ra những triển vọng dứt điểm mặt trận tây bắc. Bức thư thứ hai mà Nguyễn Trãi gửi cho Mộc Thạnh được gởi đi ngay sau khi Liễu Thăng bị giết ở trận Chi Lăng như một đòn giáng mạnh vào tâm lý của tướng giặc :
“ … Nay đem thực sự bày tỏ hết để đại nhân rõ:
Ngày tháng 9 năm này, An viễn hầu Liễu Thăng thống lĩnh đại quân đến địa phận thành Khâu Ôn. Tôi đã hai ba lần gửi thư nói kỹ về thiên thời, về nhân sự (thời trời, việc người), nói đi nói lại không ngại rờm lời, mà Liễu công cho lời nói của tôi là không đáng tin, bèn mạo hiểm tiến quân vào sâu chuyên việc chém giết, ý định giết hết không để sót người nào. Nhưng không biết đạo trời ưa sống, lòng người ghét loạn. Thành hay bại, phúc hay họa, chỉ trong khoảng trở bàn tay thôi. Ngày 20 tháng 9, tiến quân đến cửa Chi Lăng, quân lính giữ cửa ải của tôi không làm thế nào được, liền phải chống cự lại. Liễu công bị chết tại trận, không biết lẫn lộn vào đâu. Bảo Định bá, Thái đô đốc, Lý thượng thư cũng nối nhau chết nốt. Còn các quân lính đều bỏ trốn chạy tan. Đó tuy cũng là tội lỗi của tôi, cố nhiên không thể chối cãi được, mà cái họa của Liễu công tất phải tự mình chuốc lấy. Người xưa có câu nói: “Cậy vào đức thì tốt, cậy vào sức thì chết”, tức là thế đấy ...”(trích Quân Trung Từ Mệnh Tập)
Lời thư của Nguyễn Trãi vẫn rất ân cần, nhưng rõ ràng đã lấy Liễu Thăng làm tấm gương răn đe Mộc Thạnh. Nguyễn Trãi đã chỉ cho Mộc Thạnh thấy rõ cái giá của việc không nghe lời dụ, cố chấp tiến quân của Liễu Thăng. Những chiến lợi phẩm là bằng sắc, ấn tín của Liễu Thăng, cùng tù binh bắt được trong trận Chi Lăng gồm ba thiên hộ, một đô chỉ huy được Bình Định vương sai đem đến chỗ quân Mộc Thạnh, cho chúng tận mắt thấy bằng chứng về sự bại vong của bọn Liễu Thăng.
5 vạn quân Minh đóng trước cửa ải Lê Hoa đều sợ mất mật khi trông thấy những nhân chứng, vật chứng mà quân Lam Sơn mang đến trước mặt chúng, không còn lòng chiến đấu nữa. Mộc Thạnh biết quân không còn nhuệ khí, bản thân cũng đã khiếp sợ, lập tức hạ lệnh lui binh. Quân tướng nước Minh rút lui trong sự sợ hãi. Thuận đà, Phạm Văn Xảo cùng Trịnh Khả tung quân truy kích toàn tuyến. Giặc nhác thấy quân Lam Sơn, hoảng loạn giày xéo lên nhau mà chạy. Quân ta truy kích đến Lãnh Câu, Đan Xá, đánh giết một trận lớn. 1 vạn quân Minh chết tại trận, 1.000 tên bị bắt sống. Quân Lam Sơn thu 1.000 ngựa chiến cùng vũ khí, lương thực, của cải nhiều hơn cả lúc phá thành Xương Giang.
Xử lý xong cánh viện binh Mộc Thạnh, giờ là lúc quân Lam Sơn chuẩn bị dứt điểm với quân Minh ở cánh đồng Xương Giang.

Đại phá Xương Giang, diệt 5 vạn giặc, bắt sống 300 tướng Minh

   Ngày 3.11.1427, nhân một đêm mưa gió, quân Lam Sơn mở cuộc tổng tấn công tại Xương Giang. Từ bốn phương tám hướng, quân ta bắn pháo vào khối quân Minh, rồi trùng điệp người ngựa, voi chiến đánh dồn lại. Các danh tướng như Trần Nguyên Hãn, Lê Sát, Lê Khôi, Nguyễn Xí, Phạm Vấn, Lê Hối, Đinh Liệt, Lưu Nhân Chú, Nguyễn Đình Lý, Lê Văn An … đều tham chiến, thi nhau giết địch
Sở dĩ phải đánh mạnh khi quân Mộc Thạnh đã rút chạy như kể trong phần trước, là cốt phá đi những lực lượng tinh nhuệ của chúng, đề phòng hậu hoạn về sau và cũng chứng minh cho nước Minh thấy cái giá đắt như thế nào khi động đến nước Đại Việt. Qua trận truy kích không khoan nhượng này cũng cho thấy rằng, những lời chiêu dụ ân cần của Nguyễn Trãi chỉ là những đòn tâm lý chiến chứ không phải thực lòng. Quân Lam Sơn sẵn sàng đánh diệt quân Minh thẳng tay khi có cơ hội chứ không chỉ đơn giản là buộc chúng phải rút lui khỏi bờ cõi.
Sau đại thắng ở hướng tây bắc, nghĩa quân Lam Sơn càng có đủ điều kiện để dồn quân vây Đông Quan và dứt điểm bọn Thôi Tụ, Hoàng Phúc ở Xương Giang. Các lực lượng quân Lam Sơn rầm rộ hành quân dồn lại để xiết chặt vòng vây. Nguyễn Trãi vẫn tiếp tục dùng văn chương để lung lạc tinh thần của quân tướng nước Minh:
“… Ngày nay tôi đã răn bảo quân lính, dẹp mở dường về cho các ông từ Cần Trạm đến Khâu Ôn, nếu thấy đại quân qua lại không được xâm phạm mảy may. Các ông, trọng hạn ba ngày, nên thu nhặt mà đi. Quá hạn ấy mà còn chậm lại, thế là các ông thất tín, không phải lỗi ở tôi vậy. Kinh thi có câu nói: “Người khác có lòng, ta lường tính xem”. Chắc rằng các ông sở dĩ ở chậm lại, có ý trông mong vào quân ở thành Đông Quan sang tiếp ứng chăng? Hay là ở quân Vân-nam sang tiếp ứng chăng? Thì, từ Đông Quan đến đây chỉ có một ngày đường, không phải hẹn còn có thể tự đến cứu được, há lại nỡ lòng nào dửng dưng ngồi nhìn không đau lòng hộ ư? Thế thì các ông trông mong về quân thành Đông Quan đã tuyệt vọng rồi.
Còn như Kiềm quốc công ở Vân Nam trước đây cùng với các ông cũng vâng mệnh trên họp quân ở đấy. Nhưng Kiềm đại nhân tuổi cao đức cả, đã sớm biết lẽ phải, thấy việc làm rõ. vừa mới đến bờ cõi, lập tức sai người dò thăm hư thực, nghe tin trước đây thành trì các xứ Tam Giang đều đã hòa giải, bèn lui quân về Lâm An, làm bản tâu về triều. Tôi lại đem những quân nhân của các ông mà tôi đã bắt được đưa đến chỗ Kiềm đại nhân, nói rõ duyên do, bọn An viễn hầu, Bảo định bá, Lý thượng thư bị chét. Kiềm quốc đại nhân đã lui quân về Vân Nam rồi. Thế là bọn các ông trông mong về đạo quân ở Vân Nam lại tuyệt vọng nốt.
Hai mặt trông mong ấy đều đã tuyệt vọng, mà quân nhân mỗi ngày một bị chết, lương thực lại hết thì các ông còn đợi gì mà dùng dằng ở lại không đi chứ? Sao mà xét việc câu nệ, mưu việc không sớm thế? Than ôi, chén nước đã đổ khó mà vét lại được nữa, việc trước đã qua rồi, bỏ việc ngày nay không mưu tính đến, hối sao cho kịp. Thư nói chẳng hết lời.” (trích Quân Trung Từ Mệnh Tập)
Với bức tối hậu thư này, Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã mong rằng 7 vạn viện binh còn lại dưới sự chỉ huy của Thôi Tụ, Hoàng Phúc sẽ tự rút lui như quân Mộc Thạnh, rồi quân ta sẽ thuận thế đánh một trận “dằn mặt” như ở mặt trận tây bắc. Được như thế, thắng lợi sẽ dễ dàng hơn, trọn vẹn hơn mà sự đổ máu cũng ít hơn. Thế nhưng bọn Thôi Tụ không trúng kế, vẫn tổ chức tử thủ ở cánh đồng Xương Giang.
Bất đắc dĩ, Bình Định vương Lê Lợi phải quyết định mở cuộc quyết chiến tiêu diệt viện binh còn lại của quân Minh. Ngài sai các quân hội nhau bao vây quân Minh ở Xương Giang, đều thêm quân Thiết đột và voi chiến dưới sự thống lĩnh của các tướng Lê Khôi, Phạm Vấn, Nguyễn Xí, Lê Hối … lên tiếp ứng cho các quân.
Ngày 3.11.1427, nhân một đêm mưa gió, quân Lam Sơn mở cuộc tổng tấn công tại Xương Giang. Từ bốn phương tám hướng, quân ta bắn pháo vào khối quân Minh, rồi trùng điệp người ngựa, voi chiến đánh dồn lại. Các danh tướng như Trần Nguyên Hãn, Lê Sát, Lê Khôi, Nguyễn Xí, Phạm Vấn, Lê Hối, Đinh Liệt, Lưu Nhân Chú, Nguyễn Đình Lý, Lê Văn An … đều tham chiến, thi nhau giết địch. Quân Minh dù vẫn còn hàng vạn, nhưng vũ khí đạn dược mất gần hết, lương thực không có, thế quân mệt mỏi cùng cực nên chẳng mấy chốc đã vỡ trận. Tai hại hơn cho giặc, lần này chúng đã không còn đường đào thoát nữa. Khắp nơi quân dân người Việt chia nhau chặn hết cả ngã đường thủy bộ, núi non, rừng rậm.
Gần 5 vạn quân Minh bỏ mạng trong trận quyết chiến, số còn lại hơn 2 vạn quân, 300 tướng cũng bị bắt sống hết cả. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép thêm: “Còn những kẻ chạy trốn thì trong khoảng không đến 5 ngày đều bị bọn chăn trâu kiếm củi bắt gấn hết, không sót tên nào.”Theo sử nước Minh, toàn bộ đạo viện binh của Liễu Thăng đều bị diệt và bị bắt, chỉ có duy nhất một viên chủ sự tên Phan Hậu là chạy thoát được về nước. Số chiến lợi phẩm khổng lồ thu được từ đạo quân Minh được sách Lam Sơn Thực Lục miêu tả lại: “Giáo mác, lừa ngựa, vàng bạc, lụa là, gấm, đoạn, từng hòm, từng đống, chứa chất như núi, không thể kể xiết!”
Chiến thắng Xương Giang khép lại chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang thành công tốt đẹp. Kể từ lúc Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đại phá quân Nguyên ở trận Bạch Đằng năm 1288, chưa từng có lần nào người nước ta được đắc thắng như thế đối với phương bắc. Không chỉ là một trận chiến định giang sơn, mà âm vang để lại của chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang còn vọng mãi đến ngày nay Hậu thế luôn nhắc đến chiến dịch này như một trong những chiến công hiển hách nhất trong suốt cả hàng năm năm lịch sử dựng nước và giữ nước.

Đem tù binh tới chân thành, tướng Minh khiếp vía cầu hòa

Ảnh minh họa hội thề Đông Quan
   Với việc giành được thắng lợi giòn giã trong chiến dịch diệt viện, đánh tan tác 15 vạn viện binh hùng mạnh từ nước Minh sang thì nghĩa quân Lam Sơn hầu như đã nắm chắc phần thắng trong tay.
 Sau trận Xương Giang, Bình Định vương Lê Lợi sai người giải bọn Thôi Tụ, Hoàng Phúc cùng cờ trống, ấn tín, chiến cụ, sổ quân… đến trước thành Đông Quan cho bọn quân tướng Minh trong thành chứng kiến. Trông thấy đồng đội bị bắt và những bằng chứng về sự thất bại thảm hại của hai đạo viện binh, Vương Thông và quân tướng dưới quyền rất sửng sốt và sợ hãi. Sau đó quân ta lại đem tù binh và vật chứng đi dụ các thành khác, khắp nơi quân Minh sợ tái mặt. Niềm hy vọng cuối cùng cho các đội quân Minh bị bao vây trong các thành trì đã sụp đổ.
Thế nhưng bọn giặc đã trót gây thù oán nhiều, nên vẫn chần chừ không dám xếp giáp quy hàng. Quân tướng nước Minh vẫn sợ rằng một khi quân Lam Sơn được đắc thắng sẽ giết chết chúng để trả thù. Một khi buông hạ khí giới, mở cửa thành trì, quân Minh sẽ không còn tự quyết được số phận của mình mà hoàn toàn lệ thuộc vào lòng nhân từ của quân ta. Chính vì ý nghĩ đó, Vương Thông và thuộc hạ thà liều chết cố thủ, mong một trận liều chết với quân dân ta chứ không chịu đầu hàng.
Về phía nghĩa quân Lam Sơn, rất nhiều tướng sĩ cũng không muốn cho quân Minh đầu hàng. Hầu hết đều căm giận quân giặc tàn ngược, chỉ mong đánh một trận sống mái, một phen giết quân Minh để rửa hận.Thế nhưng Bình Định vương Lê Lợi vẫn mong mở một lối thoát cho quân Minh để khôi phục lại bang giao, và giúp quân ta đỡ tốn máu xương mà vẫn giành được độc lập cho đất nước. Đại tướng Nguyễn Lôi được lệnh dẫn phái đoàn đến các thành Tây Đô, Cổ Lộng dụ hàng. Hai thành này trước đây nghe theo lời bọn ngụy quan nên ngoan cố tử thủ, dù Nguyễn Trãi đã viết rất nhiều thư vẫn không chiêu dụ được. Nhưng nay trước sự bại vong đã rành rành trước mắt, bọn tướng Minh đành phải xếp giáp quy hàng, trông mong vào sự nhân từ của nghĩa quân Lam Sơn.
Riêng ở thành Đông Quan,vì thấy bọn giặc vẫn ngoan cố, Bình Định vương hạ lệnh cho các quân phòng bị càng nghiêm ngặt. Bọn quân Minh ra thành hái củi, chăn ngựa cũng đều bị quân ta bắt hết. Quân Lam Sơn dựng lên thêm những chiến lũy đối diện tường thành, từ đó quan sát và đặt súng đạn, cung tên bắn vào giặc. Các chiến xa, chiến cụ dùng cho việc công thành cũng được chuẩn bị kỹ lưỡng, đề phòng trường hợp bất đắc dĩ phải công phá thành Đông Quan.
Ngày càng bị đẩy vào thế khốn đốn, Vương Thông sai người đem thư xin hòa.Lê Lợi chấp nhận cùng quân Minh hòa nghị. Thế nhưng, Vương Thông vẫn chưa thực lòng hòa hiếu, mà muốn lấy việc xin hòa làm quân Lam Sơn trễ nải phòng bị.
Một ngày tháng 11/1427, Vương Thông thình lình đem hết quân trong thành đánh ra từ cửa nam, muốn đem hết sức bình sinh mà đánh một trận liều chết với quân ta. Thế nhưng mưu kế của Vương Thông đã bị quân ta lường trước được. Khi mấy vạn quân Minh trong thành đánh ra, quân Lam Sơn án ngữ phía cửa nam Đông Quan vờ thua chạy, giặc tiến ra xa một chút thì gặp quân mai phục đổ ra đánh khép lại. Quân Minh thất thế, tiến thoái lưỡng nan. Vương Thông biết không thể tiến lên được nữa, đành phải lệnh cho quân chạy ngược vào thành. Quân Lam Sơn khép vòng vây chặn ngang đường quân Minh chạy vào, vây lấy người ngựa của Vương Thông, quyết bắt sống tướng giặc. Vương Thông đánh nhau với quân ta bị ngã ngựa, suýt bị bắt sống nhưng may sao được bộ hạ cứu thoát, chạy được vào thành. Tổn thất của quân Minh càng thêm nặng nề.
Quân Lam Sơn truy kích quân Minh đến sát cửa nam thành Đông Quan, rồi đắp một chiến lũy chặn ngang lối ra vào của giặc. Bình Định vương Lê Lợi đốc suất quân sĩ đắp lũy dài từ Yên Hoa (Yên Phụ, Tây Hồ, Hà Nội ngày nay) đến tận cửa bắc thành Đông Quan, chỉ trong một đêm là xong. Quân Minh bị bức đến nỗi không còn lối ra vào thành.
Trước đó, Nguyễn Trãi đã mấy lần thư từ qua lại với bọn Vương Thông, khi thì nhân danh Trần Cảo, khi thì nhân danh Lê Lợi phân tích lẽ thiệt hơn, lấy điều tín nghĩa ra mà thuyết phục Vương Thông đầu hàng. Nhưng sự kiên nhẫn của các lãnh tụ quân Lam Sơn chỉ có giới hạn. Cơ hội cho Vương Thông đầu hàng không còn nhiều.
Cuối cùng, Vương Thông cũng phải chịu khuất phục vì đã bị dồn vào đường cùng. Hắn cho tập họp quân tướng lại, nói rằng : “Thành không thể giữ được, mà đánh không thể thắng, không gì bằng toàn quân trở về Bắc” (theo Việt Sử Tiêu Án). Bàn luận xong, quân Minh lại cho người đem thư sang ta xin hòa một lần nữa.
Bấy giờ nơi màn trướng quân Lam Sơn, khi thư của Vương Thông đến thì các tướng đều nhao nhao mắng bọn giặc Minh trí trá, khuyên Bình Định vương Lê Lợi nên dùng binh mà giết sạch bọn chúng đi. Duy chỉ có Hành khiển Nguyễn Trãi ngày ngày cùng Lê Lợi bàn định cơ mưu, được xem những thư từ bắt được của giặc, nắm rõ nhất về thực lực và toan tính của bọn Vương Thông nên vẫn chủ trương hòa nghị. Nguyễn Trãi cho mọi người xem bức thư của Vương Thông gởi về Minh triều bị quân ta bắt được: "Chớ vì một góc đất đai nhỏ nhoi mà bao phen làm nhọc quân đi muôn dặm. Giả sử dùng tới số quân như lần đánh ban đầu, có được sáu, bảy, tám viên đại tướng như bọn Trương Phụ thì mới có thể đánh được. Nhưng dẫu có đánh được cũng không thể nào giữ được" (theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
Bình Định vương Lê Lợi sau khi nghe các tướng lĩnh tranh luận một lượt rồi, ngài mới bàn rằng: "Việc dụng binh, lấy sự toàn quân [tức bảo toàn lực lượng] là hơn cả. Nay hãy để cho lũ Vương Thông về nói với vua nhà Minh, trả lại đất nước ta, không còn xâm lấn, thì ta còn cần gì hơn nữa, hà tất phải giết hết, để kết mối thù với nước lớn". (theo Đại Việt Thông Sử)
Các tướng nghe theo. Việc hòa nghị sau đó được tiến hành. Vương Thông sai Sơn Thọ, Mã Kỳ tới dinh Bồ Đề làm con tin. Đổi lại, Lê Lợi cũng cho thế tử Lê Tư Tề, đại tư mã Lưu Nhân Chú vào thành Đông Quan làm con tin. Hai bên định ngày lập đàn thề, bàn việc rút quân.
Ngày 10.12.1427, hai phái đoàn cùng đến hội thề ở ngoài cửa nam thành Đông Quan. Phái đoàn quân Lam Sơn do Bình Định vương Lê Lợi đứng đầu, cùng với bọn Vương Thông cam kết sẽ thực hiện những bước hoàn thành việc kết thúc chiến tranh. Văn thề có đoạn chủ yếu như sau:
“Chúng tôi cùng nhau phát tự lòng thành, ước hẹn thề thốt với nhau:
Từ sau khi lập lời thế này, quan tổng binh Thành sơn hầu là Vương Thông quả tự lòng thành, đúng theo lời bàn, đem quân về nước, không thể kéo dài năm tháng, để đợi viện binh đến nơi. Lại phải theo đúng sự lí trong bản tâu, đúng lời bán trước mà làm.
Bọn Lê Lợi chúng tôi nếu còn chứa giữ lòng làm hại, tự làm việc lừa dối, không dẹp xa ngay quân lính ngựa voi, việc làm không đúng lời nói ngầm sai… Các việc nói trên tuy là không tự mình làm lấy, lại chuyển sang người khác có xâm phạm đến một chút nào tức thì Trời, Đất, thần minh, núi cao sông lớn, cho đến thần kỳ các xứ, tôi cùng con cháu thân của tôi, và người cả một nước tôi, giết chết hết cả, không để sót lại mống nào.
Về phía bọn quan tổng binh Thành sơn hầu là Vương Thông, nếu không có lòng thực, lại tự trái lời thề (đối với việc) người phục dịch và các thuyền đã định rồi, cầu đập đường sá đã sửa rồi, mà không làm theo lời bàn, lập tức đem quân về nước, còn kéo dài năm tháng để đợi viện binh, cùng là ngày về đến triều đình lại không theo sự lí trong bản tâu, không sợ thần linh núi sông ở nước An Nam lại bàn khác đi, hoặc cho quan quân đi qua đâu cướp bóc nhân dân, thì Trời, Đất cùng là Danh sơn, Đại Xuyên và thần kỳ các xứ tất đem bọn quan tổng binh Thành sơn hầu là Vương Thông, tự bản thân cho đến cả nhà, thân thích, làm cho chết hết, và cả đến quan quân cũng không một người nào về được đến nhà.
Nếu mà cả hai bên đều do lòng thành cả thì Trời Đất thần minh đều phù hộ cho đến bản thân mình mạnh khỏe, trong nhà mình vinh thịnh, cùng hưởng lộc vị, đều được bình yên.
Trời, Đất thần kì cùng soi xét cho!” (theo Quân Trung Từ Mệnh Tập)
Những lời trong văn thề cũng là tóm tắt lại những thỏa thuận giữa nghĩa quân Lam Sơn và quân Minh. Theo đó, Hai bên cũng tiến hành trao đổi tù binh và con tin. Tướng Đỗ Bí cùng các quân tướng Lam Sơn bị bắt trước đó được trở về. Thượng thư nước Minh là Hoàng Phúc cùng hàng vạn tù binh trong trận Xương Giang cũng được Lê Lợi cho phóng thích. Riêng tướng Thôi Tụ bị bắt trong trận Xương Giang vì không chịu khuất phục nên đã bị quân Lam Sơn giết chết.
Quân ta chẳng những tha chết cho quân binh, thường dân người Minh về nước mà còn cho sửa sang cầu cống, đường sá, cấp thuyền bè, lương ăn cho chúng được đi lại dễ dàng. Vòng vây các thành Tây Đô, Cổ Lộng, Chí Linh được nới ra, cho quân Minh được tập kết lại ở Đông Quan rồi rút về nước một lượt. Khi quân Minh đã xuất hành, có nhiều quân dân lại khuyên Lê Lợi thừa cơ giết hết bọn chúng đi để báo thù, rửa mối hận mất nước và an ủi những linh hồn đã chết oan khuất bởi sự tàn bạo của giặc. Lê Lợi đáp lại rằng:
“Một lòng báo oán là thường tình của con người ta. Nhưng không thích giết người là bản tâm của bậc nhân giả. Vả chăng người ta đã ra hàng mà ta lại giết đi thì không còn gì không lành hơn nữa! Dữ kỳ hả cái giận trong một sớm, mà chịu mang tiếng giết kẻ đầu hàng với muôn đời, thì sao bằng để sống hàng ức, vạn mạng người, mà dứt mối chiến tranh về sau trong hai nước? Sử xanh chép lại, nghìn thuở còn thơm! Như thế lại không tốt đẹp hay sao ?” (theo Lam Sơn Thực Lục)
Đúng phương châm “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo” (trích Bình Ngô Đại Cáo ), tổng cộng cả quân mới, quân cũ và thường dân người Minh hết thảy chừng 30 vạn người đã được Bình Định vương Lê Lợi tha chết cho về nước. Cảm kích tầm lòng nhân từ, khoan dung của Lê Lợi, bọn quân Minh trước khi đi còn kéo nhau đến trước dinh Bồ Đề mà lạy tạ.
Cuộc chiến đánh đuổi quân Minh của nghĩa quân Lam Sơn về căn bản đã kết thúc tốt đẹp với việc quân Minh rút về nước. Tuy nhiên, đây chỉ là thỏa thuận của bọn Vương Thông với nghĩa quân Lam Sơn tại nơi thực địa. Để có được nền hòa bình lâu dài với nước Minh, ngăn chặn một làn sóng xâm lược mới, Lê Lợi cùng các chiến hữu của mình vẫn còn nhiều việc phải làm.

Đồng thời với việc nghị hòa với Vương Thông, Nguyễn Trãi vâng lệnh của Lê Lợi bắt tay vào việc hòa giải với vua Minh ở tại triều đình Bắc Kinh.

Lê Lợi mở lối cho vua Minh cơ hội: Hòa bình trong danh dự

   Ý thức được điều đó, ngay lúc chiến sự vẫn chưa kết thúc thì Bình Định vương Lê Lợi đã giao cho Hành khiển Nguyễn Trãi trọng trách ngoại giao với Minh triều. Bình Định vương Lê Lợi dù đánh thắng giặc nhiều trận nhưng vẫn tìm cách giảng hòa với Vương Thông, thả nhiều quân dân người Minh về nước. Việc giảng hòa với tướng giặc là một bước trong tiến trình tìm kiếm hòa bình.
Hội thề Đông Quan là một sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu chiến thắng vĩ đại của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trong công cuộc đánh đuổi quân Minh xâm lược khỏi bờ cõi. Nước Đại Việt trên thực tế đã được khôi phục đầy đủ nền độc lập sau khi Vương Thông dẫn đám bại binh về nước. Tình cảnh của quân Minh được miêu tả trong Bình Ngô Đại Cáo càng làm nổi bật lên tính nhân nghĩa của Lê Lợi và quân tướng Lam Sơn:
“Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức”

Công cuộc đánh đuổi quân Minh, giành lại độc lập cho dân tộc Việt đã thành công. Thế nhưng phong trào Lam Sơn vẫn chưa hoàn thành đầy đủ sứ mạng của mình. Nước Minh thời kỳ này vẫn đang trong giai đoạn sung sức nhất, vẫn có thể mở thêm những cuộc xâm lược mới để báo thù. Muốn có được một nền hòa bình lâu dài để chuyên tâm xây dựng lại đất nước, phía ta không còn cách nào tốt hơn là nối lại bang giao với nước Minh, tránh khỏi sự thù địch lâu dài với một đế chế hùng mạnh và đông dân, lãnh thổ rộng lớn hơn nước ta gấp mấy chục lần.
Ý thức được điều đó, ngay lúc chiến sự vẫn chưa kết thúc thì Bình Định vương Lê Lợi đã giao cho Hành khiển Nguyễn Trãi trọng trách ngoại giao với Minh triều. Bình Định vương Lê Lợi dù đánh thắng giặc nhiều trận nhưng vẫn tìm cách giảng hòa với Vương Thông, thả nhiều quân dân người Minh về nước. Việc giảng hòa với tướng giặc là một bước trong tiến trình tìm kiếm hòa bình.
Đồng thời với việc hòa nghị với bọn Vương Thông, Nguyễn Trãi đã theo lệnh Lê Lợi, lấy danh nghĩa của Trần Cảo soạn biểu gởi sang vua Minh theo cả hai ngả đường Vân Nam và Quảng Tây. Mộc Thạnh ở Vân Nam nhận được biểu, tức tốc cho người chạy trạm chuyển lên cho vua Minh Tuyên Tông. Biểu viết như sau:
“Thái tổ Cao hoàng đế [ tức Chu Nguyên Chương ] khi mới lên ngôi, tổ tiên của thần là Nhật Khuê [chỉ vua Trần Nghệ Tông] trước tiên dâng lễ triều cống, được ơn đặc biệt khen thưởng và ban cho tước vương. Từ đó, đời đời giữ gìn bờ cõi, không hề thiếu sót lễ nghi triều cống. Mới đây, nhân họ Hồ soán nghịch, Thái tông Văn hoàng đế [chỉ vua Chu Đệ nước Minh] dấy quân hỏi tội. Sau khi dẹp yên, nhà vua hạ chiếu tìm kiếm con cháu họ Trần để cho giữ việc thờ cúng. Bấy giờ tổng binh quan Trương Phụ chưa kịp tìm kiếm rộng khắp, đã vội xin đặt nước tôi làm quận huyện.
Thần, trước đây, vì nước rối loạn, phải chạy trốn sang Lão Qua, chỉ muốn cho chút hơi tàn được tạm kéo dài ra thôi. Dè đâu người nước quen thói tục man di, xa nghĩ đến ơn trạch của tổ tiên nhà thần, ép thần phải về nước. Bất đắc dĩ thần phải gượng theo. Dẫu rằng việc làm hấp tấp này là do người nước ép buộc, nhưng cũng là cái tội bởi thần không biết đắn đo suy lường.
Vừa đây, đã đến cửa quân tạ tội, nhưng không được đâu để ý lắng nghe. Người nước bấy giờ sợ bị giết chết, mới phải đem nhau đi giữ những nơi quan ải để làm cái chước tự vệ lấy mình; nào ngờ quan quân từ xa đến, thấy voi, hoảng sợ, tự cùng nhau lánh chạy, tan vỡ. Việc đã đến thế, tuy là do sự bất đắc dĩ của người nước, mà cũng là tội lỗi của thần. Nhưng, số quan quân và ngựa bị bắt đều đã thu lượm nuôi dưỡng, không dám tơ hào xâm phạm.
Nép mong hoàng thượng dựa theo lời chiếu của Thái Tông Văn hoàng đế cho tìm kiếm con cháu họ Trần, nghĩ đến lòng thành thực của ông cha nhà thần đã dâng lễ triều cống trước tiên, tha cho thần cái tội to như đống gò, miễn cho thần khỏi bị giết chết bằng rìu búa, khiến thần được nối dõi ở cõi Nam, triều cống cửa trời.
Ngoài sự riêng sai bồi thần thân tín đem dâng tạ biểu và đưa đến kinh đô nộp trả ấn tín và người ngựa, nay xin đem danh sách và số mục kính cẩn tâu lên để nhà vua soi xét” (theo Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục)
Bài biểu này cho thấy rằng dù chiến thắng lừng lẫy trong cuộc chiến, nước Đại Việt trong thời kỳ trung đại vẫn chưa bao giờ có được vị thế ngang hàng về mặt ngoại giao đối với các triều đại phương bắc, mà phải chấp nhận một mối quan hệ giữa nước nhỏ và nước lớn đặc trưng của thời kỳ này. Đi cùng với biểu cầu phong là các đồ cống phẩm, tượng người vàng, bạc cho đến ấn tín, hổ phù đã bắt được của tướng giặc và các tù binh đã bắt được trong cuộc chiến.
Về phía vua Minh, mặc dù thừa biết rằng những lời lẽ trong tờ biểu là không thật lòng, nhưng lại xét rằng một là quân tướng Lam Sơn đã biết giữ thể diện cho Minh triều, hai là nước Minh vừa chịu hao binh tổn tướng khá nhiều, nên vẫn phải xem xét kỹ lưỡng.
Lúc bấy giờ tại triều đình nước Minh lại diễn ra cuộc tranh cãi nảy lửa giữa hai phe chủ chiến và chủ hòa. Trương Phụ là người tiêu biểu cho phe chủ chiến.Viên tướng này trước sau nhất quán theo đuổi chính sách thẳng tay đàn áp, đuổi cùng giết tận những quân dân Việt dám chống lại ách đô hộ nước Minh. Trương Phụ đã tâu với vua Minh rằng: “Quân sĩ khó nhọc đến vài năm mới lấy được đất ấy, sao lại nghe lời xin xảo quyệt của Lê Lợi, xin cứ cho quân đi đánh”
Bọn đình thần nước Minh là Kiển Nghĩa, Hà Nguyên Cát cũng theo đó nói: “Không có danh nghĩa gì mà bỏ đất, chỉ để thiên hạ thấy sự suy yếu của mình”
Chỉ có Dương Sĩ Kỳ là danh sĩ nổi tiếng nước Minh thời bấy giờ bàn rằng: “Từ năm Vĩnh Lạc đến nay, quân mỏi mệt, dân cùng khốn, không gì bằng theo y lời xin của địch, có thể chuyện họa ra phúc được, vả lại vua Thành Tổ sơ tâm là lập con cháu họ Trần, đó là việc thịnh đức, sao lại bảo là vô danh? Đời Hán bỏ Châu Nhai, tiền sử cho là vinh, sao lại bảo là thị nhược ?”(theo Việt Sử Tiêu Án)
Lúc mà đình thần nước Minh thảo luận việc đánh hay hòa thì tin tức Liễu Thăng, Mộc Thạnh bại trận vẫn chưa về tới. Vua Minh Tuyên Tông vốn đã muốn hòa, nhưng vẫn trông đợi vào thắng lợi của quân tiếp viện. Có thể thấy rằng dù trong trường hợp nào, quân dân ta vẫn phải giành được thắng lợi trên thực địa trước khi nói đến chuyện ngoại giao với kẻ xâm lược. Đến khi tin Liễu Thăng bại trận, vong mạng về đến Yên Kinh (Bắc Kinh, Trung Quốc) ngay sau biểu cầu phong đến, thì vua tôi nước Minh mới phải chấp nhận rằng họ đã thua trong cuộc chiến này. Dù rằng tiềm lực của nước Minh vẫn còn nhiều, nhưng một khi thế quân Lam Sơn đã lên cao thì thiên binh vạn mã của nước Minh tiến sang cũng chỉ gây lầm than cho muôn dân, chứ hy vọng chiến thắng cho quân Minh vẫn là rất nhỏ. Vua Minh bèn theo đó sai người đem chiếu thư sang phong cho Trần Cảo làm “An Nam Quốc Vương”, chính thức khôi phục lại chủ quyền của  người Việt. Vua Minh yêu cầu việc triều cống của nước ta phải theo lệ thời vua Chu Nguyên Chương, nhưng kèm theo việc cống người vàng, lấy cớ là “đền mạng’ cho Liễu Thăng (!?)
Việc ngoại giao đã xong cũng là lúc vấn đề nội bộ cần giải quyết. Từ lúc nghĩa quân Lam Sơn phất cờ đánh đuổi quân Minh cho đến lúc thiên hạ đại định thì Bình Định vương Lê Lợi là người chỉ huy tối cao. Nhưng trên danh nghĩa, Trần Cảo vẫn là vua để tiện việc bang giao với phương bắc. Khi mọi sự đã yên ổn, quần thần đều không phục Trần Cảo, lòng chỉ hướng về Lê Lợi. Cảo lấy làm sợ nên bỏ trốn. Lê Lợi cho người đuổi bắt, rồi giết đi.
Sau đó, ngày 29.4.1428, Lê Lợi theo sự suy tôn của các quan văn võ, chính thức lên ngồi Hoàng đế, đặt niên hiệu là Thuận Thiên, kiến lập triều Lê, sử gọi là nhà Hậu Lê. Tên nước Đại Việt chính thức được khôi phục, thành Đông Quan được khôi phục lại tên cũ là thành Đông Đô, được chọn làm kinh đô nước Đại Việt mới. Lê Lợi, tức vua Lê Thái Tổ trong sách sử cho ban hành Bình Ngô Đại Cáo do Nguyễn Trãi thay mặt ngài soạn thảo để bố cáo cho muôn dân sứ mạng đánh đuổi giặc đã hoàn thành, đất nước đã được tái sinh. Từ đây, một nền thái bình thịnh trị được mở ra.
Quốc Huy

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét