Thứ Tư, 15 tháng 8, 2012

Cuộc đời nữ tướng Bùi Thị Xuân: Anh hùng và bi thảm


Vợ chồng Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân là 2 trong số 18 người được coi là 18 viên đá tảng gây dựng nên triều đại Tây Sơn (sử gọi là Tây Sơn thập bát cơ thạch).

Chồng anh hùng, vợ cũng anh hùng

Nữ tướng Bùi Thị Xuân quê ở thôn Xuân Hoà, tổng Phú Phong, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn (nay là thôn Phú Xuân, xã Bình Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Theo một số tài liệu thì bà sinh vào năm 1758. Bà là con gái ông Bùi Đắc Chí và là cháu gọi Thái sư Bùi Đắc Tuyên bằng chú.

Thuở bé Bùi Thị Xuân ham mê võ nghệ, thích tập côn quyền đao kiếm. Đa phần là tự học ở nhà. Do thông minh, sáng dạ và đặc biệt là tố chất nhanh nhẹn, khoẻ mạnh, Bùi Thị Xuân tập võ rất nhanh. Vì vậy mà ở địa phương có truyền thuyết về một bà cụ già, không con cháu, đêm đêm bí mật dạy võ cho Bùi Thị Xuân. Cũng có thuyết nói rằng, bà học võ với võ sư Ngô Mãnh cùng với Ngô Văn Sở. Năm 15 tuổi, bà đã nổi tiếng gần xa về vẻ đẹp thanh tú và võ nghệ cao cường. Đó cũng là thời kỳ anh em Tây Sơn thu dùng hào kiệt, chuẩn bị nổi dậy.

Bùi Thị Xuân là vợ của danh tướng Trần Quang Diệu. Trường hợp gặp gỡ của hai ông bà cũng rất đặc biệt. Một hôm Bùi Thị Xuân vào rừng săn bắn thì gặp một tráng sĩ đang đánh nhau với hổ. Tráng sĩ tay không quần nhau với hổ dữ suốt cả buổi sáng, lúc này đã đuối sức. Nếu bà không ứng cứu kịp thời thì người ấy có thể nguy đến tính mạng. Bà vội vàng rút kiếm xông đến đánh nhau với hổ dữ. Bằng một đường kiếm vút nhanh như tia sáng, hổ dữ bị một nhát xả vai, vội bỏ chạy vào rừng sâu. Tráng sĩ được cứu đó là Trần Quang Diệu.

Số là hôm ấy Trần Quang Diệu đang trên đường tìm đến Kiên Mỹ ra mắt anh em Tây Sơn, không may giữa đường gặp hổ. Bùi Thị Xuân cũng đang định tìm đến gia nhập nghĩa quân Tây Sơn. Chí lớn gặp nhau, hai ông bà cùng nhau đến ra mắt Tây Sơn Vương Nguyễn Nhạc. Ở đây, Nguyễn Nhạc đã tác thành cho hai người thành vợ thành chồng. Và cả hai đã trở thành những trụ cột của Tây Sơn. Nếu bà là người đứng đầu "Ngũ phụng thư" (năm con chim phượng hoàng, chỉ 5 vị anh thư) thì ông là một trong "Thất hổ tướng" (bảy viên hổ tướng) của nhà Tây Sơn. Hai ông bà là 2 trong số 18 người được coi là 18 viên đá tảng gây dựng nên triều đại Tây Sơn (sử gọi là Tây Sơn thập bát cơ thạch).
Đền thờ nữ tướng Bùi Thị Xuân.
Đền thờ nữ tướng Bùi Thị Xuân.
Vị nữ tướng hiếm hoi trong lịch sử Việt Nam

Ở trong bộ chỉ huy nghĩa quân, vì là nữ nên Bùi Thị Xuân được giao nhiệm vụ chỉ huy nữ binh ở nhà bảo vệ Hoàng thành. Vì bà có tài thuần dưỡng và huấn luyện voi chiến nên được giao chỉ huy đội tượng binh. Theo một số tài liệu thì dưới quyền bà có 5.000 nữ binh và 200 thớt voi, nhiệm vụ chính là bảo vệ Hoàng thành.

Bà chỉ tham gia một số trận đánh như trận Rạch Gầm - Xoài Mút dưới quyền chỉ huy của chủ tướng Nguyễn Huệ vào đầu năm 1785, hay trận đánh sang Vạn Tượng vào năm 1791, dưới quyền chỉ huy của tướng Trần Quang Diệu, chồng bà. Còn nhiệm vụ chính của Bùi Thị Xuân là chỉ huy bảo vệ Hoàng thành, bảo vệ sự yên bình của Kinh đô, để cho các tướng sĩ yên lòng ra trận. Bà được Hoàng đế Quang Trung phong là Đô đốc, vị nữ Đô đốc duy nhất dưới triều đại Tây Sơn, vị nữ tướng hiếm hoi trong lịch sử Việt Nam.

Tháng 5 Tân Dậu (1801) trong lúc đại bộ phận tinh binh tướng giỏi của Tây Sơn đang tập trung vây hãm, hòng chiếm lại Quy Nhơn (nay là Bình Định) thì Nguyễn vương Phúc Ánh bất ngờ đánh vào Phú Xuân. Lúc này lực lượng bảo vệ Kinh đô còn lại rất mỏng, nên quân Tây Sơn nhanh chóng bị thất bại. Phú Xuân lọt vào tay nhà Nguyễn. Bùi Thị Xuân bảo vệ vua Cảnh Thịnh và toàn bộ Hoàng gia rút ra Bắc thành. Mất Phú Xuân, cục diện chiến tranh Tây Sơn - Nguyễn Ánh thay đổi hoàn toàn. Từ đây Tây Sơn bị chia cắt làm hai, không thể ứng cứu cho nhau. 

Sự trả thù thảm khốc


 - Trần Quang Diệu - Bùi Thị Xuân là những anh hùng đã dựng lên triều đại Tây Sơn và chính họ cũng là những người chứng kiến những giờ phút cuối cùng hết sức bi thảm của triều đại đó. Cuộc đời của hai ông bà là tượng trưng cho triều đại Tây Sơn oai hùng và bi thương, một triều đại để lại trong lòng chúng ta thật nhiều cảm xúc. 

Tượng Đô đốc Bùi Thị Xuân trong điện thờ Tây Sơn tam kiệt (Bảo tàng Quang Trung, tỉnh Bình Định).
Tượng Đô đốc Bùi Thị Xuân trong điện thờ Tây Sơn tam kiệt (Bảo tàng Quang Trung, tỉnh Bình Định).
Toàn bộ quân đội của Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng, sau khi chiếm lại được Quy Nhơn, đã bị cô lập hoàn toàn. Không còn cách nào khác, hai ông phải bỏ thành Quy Nhơn, theo đường thượng đạo bí mật rút ra Bắc. Nhưng trên đường ra Bắc, phần thì bị lam sơn chướng khí, phần vì thiếu ăn bệnh tật, quân lính lớp thì bỏ trốn, lớp bị chết dọc đường, khi đi gồm 3.000 quân và 80 thớt voi, khi đến Nghệ An chỉ còn lại mấy chục người! Bản thân Trần Quang Diệu cũng bị phù thũng nặng nề, không thể chiến đấu được. Đến Thanh Chương (Nghệ An) Trần Quang Diệu và mấy người tuỳ tùng đều bị bắt sống. Bùi Thị Xuân đem quân đến cứu chồng cũng bị bắt nốt.

Tháng 11 Nhâm Tuất (1802), sau khi thống nhất đất nước, Gia Long tổ chức lễ Hiến phù (Lễ dâng tù ở Thái Miếu), thực chất là trả thù những người theo Tây Sơn. Cuộc trả thù rất tàn khốc, có một không hai trong lịch sử.

Đại Nam thực lục chính biên ghi lại: "Sai Nguyễn Văn Khiêm là Đô thống chế dinh túc trực và Nguyễn Đăng Hựu làm Tham tri Hình bộ áp dẫn Nguyễn Quang Toản và em là Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn ra ngoài cửa thành, xử án lăng trì cho năm voi xé xác (dùng 5 con voi chia buộc vào đầu và hai tay hai chân rồi cho voi xé, đó là một thứ cực hình), đem hài cốt Nguyễn Văn Huệ và Nguyễn Văn Nhạc giã nát rồi vất đi, còn xương đầu lâu Nhạc, Huệ, Toản và mộc chủ của vợ chồng Huệ thì đều giam ở nhà Đồ ngoại (năm Minh Mạng thứ 2 đổi giam vào ngục thất cấm cố mãi mãi). Còn đồ đảng là bọn Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng đều xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người biết" (Sđd, Đệ nhất kỷ, q.19) .

Về cái chết của Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân sử sách ghi không thống nhất. Chính sử của nhà Nguyễn chỉ ghi vắn tắt là "xử trị hết phép" chứ không cho biết "hết phép" là như thế nào. Có tài liệu ghi rằng, Trần Quang Diệu bị lột da còn Bùi Thị Xuân bị quấn vải tẩm dầu rồi thiêu sống. Có lẽ tài liệu của giáo sĩ Bissachère là đáng tin cậy hơn cả vì ông là người có mặt tại Phú Xuân trong thời gian diễn ra lễ Hiến phù tháng 11/1802.
Đền thờ nữ tướng Bùi Thị Xuân.
Đền thờ nữ tướng Bùi Thị Xuân ở Bình Định.
Ông viết: "Còn về quan Thiếu phó (Trần Quang Diệu) là kẻ được người trong gia đìmh cùng tất cả những kẻ quen thuộc yêu kính, quan đã làm một việc hiếu trong ngày quan bị xử hay là ngày trước đó. Quan đã tâu được thấu đến vua rằng, mẹ quan già đã 80 tuổi, không thể nào làm hại cho xã tắc được nữa, nên xin vua tha chết cho bà, vì bà mang tội cũng là tại quan. Quan được như ý. Phần quan chỉ bị chém thôi".

"Quan có một cô gái 15 tuổi, đầy đủ các vẻ đẹp của một thiếu nữ. Khi cô thấy một con voi tiến về phía cô để rồi tung cô lên trời, cô thét lên một tiếng não ruột. Cô kêu mẹ: "Mẹ ơi, cứu con với". Mẹ cô, là vị nữ tướng, trả lời rằng: "Con đòi mẹ cứu làm sao, vì mẹ cũng không cứu được chính mình mẹ và con nên chết đi với cha mẹ còn hơn là sống với bọn người kia...". Nhiều người muốn cứu cô và họ quay mặt đi chỗ khác, khi voi, bị đánh đập, đã tung cô lên trời hai lần, rồi lấy ngà đỡ cô.

"Đến lượt bà Thiếu phó (Bùi Thị Xuân), bà hiên ngang tiến đến trước mặt voi để khiêu khích nó. Khi bà đến gần, người ta bảo bà quỳ xuống cho voi dễ cuốn, nhưng bà không nghe, cứ đi thẳng đến voi. Người ta còn kể rằng, mặc dầu voi đã bị kích thích nhiều, cũng còn phải giục ép lắm nó mới tung bà lên, dường như nó còn nhận được bà là người chủ cũ của nó..." (trích dẫn lại theo Nguyễn Huệ -Phú Xuân, Nxb Thuận Hoá 1986 tr.120, 121).

Như vậy là cả gia đình bà Bùi Thị Xuân đều phải chịu cực hình. Bùi Thị Xuân năm đó mới 45 tuổi, còn con gái bà, tên là Trần Thị Cúc (tức Bích Xuân), năm đó mới 15 tuổi.

Phan Duy Kha

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét