Các đời chúa Nguyễn khởi đầu từ khi Nguyễn Hoàng đến trấn thủ vùng Thuận Hóa, Quảng Nam. Phần lãnh địa của chúa Nguyễn khi đó chỉ kéo dài đến Quảng Nam. Thế nhưng các đời chúa Nguyễn thông qua khai khẩn đất đai tiến về phía Nam, đã khiến lãnh thổ Đại Việt dần dần mở rộng.
Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lập ra nhà Mạc, một số trung thần với nhà Lê chạy sang nước láng giềng lánh nạn, chờ cơ hội trở về khôi phục nhà Lê, trong số đó có Hữu Vệ Điện Tiền Tướng quân An Thanh Hầu Nguyễn Kim.
Nguyễn Kim chạy sang Ai Lao (ngày nay thuộc Lào, giáp với các tỉnh miền Trung của Việt Nam) được vua Xạ Đẩu giúp đỡ, cho mượn đất Sầm Châu để dựng bản doanh, chiêu mộ quân sỹ. Nguyễn Kim tìm con cháu nhà Lê, cuối cùng tìm được Hoàng thất Lê Duy Ninh, tôn lên làm vua, hiệu là Lê Trang Tông.
“Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”
Sau khi đánh dẹp nhà Mạc về phương Bắc, vua Lê Trang Tông lên ngôi, phong cho Nguyễn Kim là Thái Sư, nắm hết quyền lực. Dưới trướng của Nguyễn Kim có viên tướng là Trịnh Kiểm lập được nhiều công lao, vì thế Nguyễn Kim quyết định gả con gái của mình cho Trịnh Kiểm.
Năm 1545 Nguyễn Kim bị Quan Tổng Trấn nhà Mạc là Dương Chấp Nhất trá hàng rồi đầu độc giết chết. Lúc này mọi quyền lực nhà Lê đều lọt vào tay Trịnh Kiểm.
Tuy nhiên các tướng nhà Lê cho rằng người nắm quyền bính phải là con trưởng của Nguyễn Kim là Nguyễn Uông, vì thế việc Trịnh Quyền nắm quyền bính được xem chỉ là tạm thời, rồi sẽ phải trao quyền lại cho Nguyễn Uông.
Nguyễn Uông trở thành cái gai trong mắt Trịnh Kiểm, và đột nhiên một hôm bị chết không rõ nguyên nhân. Em của Nguyễn Uông là Nguyễn Hoàng (tức con thứ của Nguyễn Kim) linh cảm đây là âm mưu diệt cỏ tận gốc của Trịnh Kiểm, người tiếp theo chắc chắn là mình, nên nội vã đến tìm gặp cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm xin chỉ dạy.
Trạng Trình đáp rằng “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, nghĩa là “Hoành sơn một dãy, dung thân ngàn đời”.
Dãy Hoành Sơn thuộc địa phận Thuận Hóa, nên Nguyễn Hoàng liền nhờ chị ruột là Ngọc Bảo (tức vợ Trịnh Kiểm) xin anh rể cho mình được trấn thủ ở Thuận Hóa. Trịnh Kiểm cho rằng Thuận Hóa xa xôi, đất đai cằn cỗi, để Nguyễn Hoàng đi sẽ yên tâm hơn không có ai tranh giành với mình nên đồng ý cho Nguyễn Hoàng đi trấn thủ luôn cả vùng đất cực Nam bấy giờ là Thuận Hóa và Quảng Nam, lệ mỗi năm phải nộp thuế là 400 cân bạc, 500 tấm lụa.
Tháng 10/1558, Nguyễn Hoàng cùng gia quyến và các binh tướng thân tín đi về phương Nam, dừng chân ở cửa Việt Yên (nay là Cửa Việt). Nguyễn Hoàng cho quân đóng trại ở gò Phù Sa, xã Ái Tử, huyện Đăng Xương (nay thuộc huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị).
Nơi đây chưa được khai phá nên rất hoang sơ nghèo nàn, là nơi tụ tập của giặc cỏ và cướp biển. Đóng quân ở đây Nguyễn Hoàng cùng binh sỹ phải đối mặt với cướp cũng như lực lượng quân Chiêm Thành, Chân Lạp thường xuyên đánh phá.
Tuy nhiên điều thuận lợi là các quan địa phương đều chào đón Nguyễn Hoàng. Tổng trấn Thuận Hóa là Tống Phướng Trị vái chào Nguyễn Hoàng đồng thời dâng lên bản đồ và sổ sách trong xứ. Người dân nơi đây cũng vui mừng chào đón một vị quan lớn từ kinh thành đến. Nguyễn Hoàng được tôn là chúa Nguyễn.
Đánh bại quân Chiêm Thành, khai khẩn về phía Nam
Nguyễn Hoàng đưa ra các chính sách khai khẩn, cho người nào khai khẩn được bao nhiêu thì được sở hữu đất ấy, nhờ thế mà đất đai cứ dần dần được mở rộng. Công cuộc khai khẩn của Nguyễn Hoàng thành công nhờ sự giúp đỡ của nhiều người dưới trướng, đặc biệt là thái phó Nguyễn Ư Dĩ.
Năm 1578, Chiêm Thành đưa quân đến tiến đánh, Lương Văn Chánh vâng lệnh chúa Nguyễn cầm quân đánh chặn. Sau khi đánh bại quân Chiêm, Lương Chánh Văn đưa quân tiến vào Hoa Anh đánh thành An Nghiệp, đây là một trong những kinh thành đồ sộ và kiên cố nhất trong lịch sử Chăm Pa. Dù thế quân chúa Nguyễn vẫn hạ được thành, đẩy quân Chăm Pa về phía Nam.
Năm 1597, Nguyễn Hoàng cùng 4.000 lưu dân khai khẩn vùng đất mới lấy được từ đèo Cù Mông (bắc Phú Yên) đến đèo Cả (bắc Khánh Hòa), nhờ đó mà hình thành nên những ngôi làng đầu tiên ở sông Đà Diễn, sông Cái.
Năm 1611, quân Chiêm Thành lại quấy rối vùng biên giới Hoa Anh, chúa Nguyễn cử Văn Phong đánh bại quân Chiêm đồng thời đuổi quân Chiêm Thành về phía Nam đèo Cả, chiếm được vùng đất Hoa Anh, đồng thời đổi tên Hoa Anh thành phủ Phú Yên gồm hai huyện Tuy Hòa và Đồng Xuân.
Chúa Nguyễn cũng cử hai tướng Vũ Thì An và Vũ Thì Trung chiếm hữu Bãi Cát Vàng trên biển Đông (tên gọi của quần đảo Hoàng Sa).
Năm 1613 chúa Nguyễn Hoàng bệnh nặng, biết mình sắp mất liền cho gọi Thụy quận công Nguyễn Phúc Nguyên từ Quảng Nam về để kế vị và căn dặn:
“Nếu Bắc tiến được thì tốt nhất, bằng không giữ vững đất Thuận Quảng và mở mang bờ cõi về phía Nam.
Đất Thuận Quảng này phía Bắc có núi Hoành Sơn, sông Linh Giang, phía Nam có núi Hải Vân và Bi Sơn, thật là đất của người anh hùng dụng võ. Vậy con phải biết thương yêu dân, luyện tập binh sĩ để xây dựng cơ nghiệp muôn đời.”
Ông cũng dặn dò các cận thần rằng: “Ta với các ông cùng nhau cam khổ đã lâu, muốn dựng lên nghiệp lớn. Nay ta để gánh nặng lại cho con ta, các ông nên cùng lòng giúp đỡ, cho thành công nghiệp”.
Chúa Nguyễn Hoàng mất, thọ 89 tuổi, ông để lại một vùng đất cho con cháu từ đèo Ngang tới núi Đá Bia (Thạch Bi Sơn), gần đèo Cả, phía nam Phú Yên.
Ban đầu lãnh thổ của Chúa Nguyễn chỉ đến vùng Quảng Nam, trong đó Thuận Hóa và Quảng Nam chưa được khai khẩn. Thế nhưng chúa Nguyễn Hoàng khi đến nơi đây không chỉ giúp khai khẩn hai vùng này, mà lãnh thổ được mở thêm vùng Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên. Tiền đề để sau này lãnh thổ được tiếp tục mở rộng về phương nam.
Cuộc di dân lịch sử
Sau khi chúa Nguyễn Hoàng mất, con trai thứ 6 là Nguyễn Phúc Nguyên lên thay và làm nên một cuộc di dân về phương Nam vô cùng ngoạn mục.
Tương truyền lúc mang thai, mẹ chúa Nguyễn Phúc Nguyên là phu nhân Nguyễn Thị nằm mơ thấy có vị Thần đưa cho một tờ giấy trên có đề chữ “Phúc”.
Khi tỉnh dậy, bà kể lại cho mọi người giấc mơ của mình. Mọi người chúc mừng bà và đề nghị đặt tên đứa bé là Phúc. Nhưng bà nói rằng nếu đặt tên là Phúc thì chỉ mình đứa bé hưởng, nên bà muốn lấy chữ “Phúc” làm tên lót, ẩn chứa mong muốn rằng đứa bé sau này sẽ tạo phúc cho muôn dân.
Năm 1613, Nguyễn Phúc Nguyên chính thức lên kế vị. Ông ban hành rất nhiều chính sách về dân sự nhằm xây dựng chính quyền Đàng Trong hùng mạnh, cũng như ổn định cuộc sống dân chúng. Người dân tin yêu gọi ông là Sãi Vương, chúa Sãi, chúa Bụt hay Phật chúa.
Sách “Đại Nam thực lục” ghi chép lại rằng:
Nguyễn Phúc Nguyên cho sửa thành lũy, đặt quan ải, vỗ về quân dân, trong ngoài đâu cũng vui phục, bấy giờ người ta gọi là Chúa Phật. Từ đấy mới xưng quốc tính là họ Nguyễn Phước hay Nguyễn Phúc.
Hội An trở thành cảng tiêu biểu ở châu Á, nổi tiếng trên thế giới
Chúa Nguyễn cho mở hải cảng ở Quảng Nam để thông thương với nước ngoài, trong đó cảng Hội An là lớn nhất, đồng thời viết thư mời các thương nhân nước ngoài đến buôn bán. Rất nhiều thương gia Nhật Bản và phương Tây đã đến giao thương, biến Hội An thành đô thị, hải cảng quốc tế tiêu biểu ở châu Á.
Thời gian này Hội An là đô thị rất trù phú, được nhiều nơi trên thế giới biết đến, có rất nhiều khu phố dành cho thương gia nước ngoài.
Một người Ý là Christoforo Borri cư trú ở Hội An vào năm 1618 đã mô tả về Hội An như sau:
“Hải cảng đẹp nhất, nơi tất cả người ngoại quốc đều tới và cũng là nơi có hội chợ danh tiếng chính là hải cảng thuộc tỉnh Quảng Nam”.
“Người Hoa và Nhật Bản là những thương nhân chủ yếu của chợ phiên, năm nào cũng mở và kéo dài trong bốn tháng. Người Nhật thường đem lại 4, 5 vạn nén bạc, người Trung Hoa thì đi một thứ thuyền buồm đem lại nhiều tơ lụa tốt và sản vật đặc biệt của họ”.
“Do chợ này mà Quốc vương thu được số tiền thuế lớn, toàn quốc nhờ vậy cũng được nhiều lợi ích”.
Quan hệ chúa Trịnh – chúa Nguyễn
Năm 1620 chúa Trịnh vô cớ gây chiến nên chúa Nguyễn quyết định hoàn toàn đoạn tuyệt với việc nộp cống thuế cho Đàng Ngoài.
Năm 1623, Trịnh Tùng chết, các con tranh ngôi Chúa mà làm loạn Bắc Hà. Nhiều người hiến kế cho chúa Nguyễn nhân cơ hội này tiến đánh chúa Trịnh, với lý do 3 năm trước chúa Trịnh vô cớ đưa quân tiến đánh vào Đàng Trong. Thế nhưng chúa Nguyễn Phúc Nguyên nói rằng: “Ta muốn nhân cơ hội này nổi nghĩa binh để phò vua Lê, nhưng đánh lúc người có tang là bất nhân, thừa lúc người lâm nguy là bất vũ. Huống chi ta với Trịnh có nghĩa thông gia”.
Hào kiệt khắp nước nghe được câu này của ông liền đi theo rất đông, trong đó nổi tiếng có Đào Duy Từ, Nguyễn Cư Trinh, giúp Đàng Trong ngày càng hùng mạnh, cư dân đi xuống phía Nam đến tận vùng Nam Bộ.
Tháng 3/1627, chúa Trịnh Tráng thống lãnh 20 vạn đại quân theo 2 đường thủy bộ tiến đánh Đàng Trong của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, hội quân ở cửa biển Nhật Lệ. Chúa Sãi cử các tướng Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Phúc Vệ và Nguyễn Phúc Trung đón đánh.
Quân chúa Trịnh lợi dụng ưu thế về số lượng tấn công, nhưng không sao chọc thủng được phòng tuyến quân chúa Nguyễn. Nhờ mở cửa giao thương với phương Tây mà quân chúa Nguyễn có được đại bác của Bồ Đào Nha uy lực rất mạnh, đạn bắn rất ổn định, hầu như không bị tắc, tốc độ bắn nhanh hơn, khoảng cách bắn cũng xa hơn so với đại bác cũ, khiến 20 vạn đại quân Trịnh Tráng không thể làm gì được.
Được Đào Duy Từ hiến kế, năm 1630 chúa Nguyễn Phúc Nguyên trả lại sắc lệnh cho chúa Trịnh Tráng đánh dấu mốc chuyển từ chính quyền địa phương thành chính quyền độc lập.
Tự trang bị đại bác cùng quân đội hiện đại
Nhận thấy uy lực của đại bác Bồ Đào Nha, và nhằm xây dựng quân đội hùng mạnh, chúa Nguyễn đã mời cha con người Bồ Đào Nha Jean De La Croix từ Hội An ra Huế giúp mở xưởng đúc vũ khí đạn dược. Năm 1631, chúa Nguyễn mở cơ sở đúc súng đại bác cùng trường bắn.
Chúa Nguyễn Phúc Nguyên cũng xây dựng quân đội Hoàng Sa nhằm bảo vệ lãnh thổ trên biển cùng quần đảo Hoàng Sa. GS.TS Nguyễn Quang Ngọc (Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển) trong tham luận tại Hội thảo về Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn năm 2008 đã phát biểu rằng: “Chúa Nguyễn Phúc Nguyên chính là người đã sáng tạo ra một hình thức khai chiếm, xác lập và thực thi chủ quyền trên các vùng quần đảo giữa Biển Đông hết sức độc đáo là đội Hoàng Sa”.
Cuộc di dân lịch sử của người Việt
Do phải đối phó với sức mạnh từ Xiêm La (Thái Lan ngày nay), Quốc Vương Cao Miên muốn đặt quan hệ thông gia với chúa Nguyễn, từ đó công nữ Ngọc Vạn đã trở thành Hoàng hậu của vua Chey Chettha II. Chúa Nguyễn gửi quân cùng vũ khí sang giúp Cao Miên đẩy lui các cuộc xâm lược của Xiêm La. Quân chúa Nguyễn dùng đại pháo do người Bồ Đào Nha giúp đúc được khiến quân Xiêm La kinh hoàng phải rút lui.
Chúa Nguyễn cũng đã thương lượng với vua Chey Chettha II và được nhượng lại 1 dinh điền ở Mô Xoài (gần Bà Rịa ngày nay), đồng thời chúa Nguyễn được phép lập hai thương điểm là Prei Nokor (thuộc khu Chợ Lớn, Sài Gòn sau này) và Kas Krobey (khu vực Bến Nghé, Sài Gòn sau này) để thu thuế.
Đồng thời người Việt ở Đàng Trong được phép đến sinh sống ở vùng Thủy Chân Lạp (tức Đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam và miền Nam Campuchia ngày nay). Chúa Nguyễn cũng cho quân đến đóng ở vùng Prei Nokor (tức Sài Gòn, Biên Hòa, Bà Rịa) của Chân Lạp nhằm bảo vệ người Việt làm ăn buôn bán sinh sống, đồng thời giúp Cao Miên khi có biến.
Nhờ đó chỉ trong một thời gian ngắn người Việt xuất hiện rất đông ở Cao Miên, khu vực ngày này là Đồng bằng sông Cửu Long, Sài Gòn, Biên Hòa, Bà Rịa. Miền Nam Campuchia cũng rất đông người Việt sinh sống. Đây là tiền đề quan trọng cho việc mở rộng lãnh thổ về sau này.
Nguyễn Cư Trinh, người phò tá cho chúa Nguyễn Phúc Nguyên đưa người Việt vào Nam Bộ đã có lời tổng kết rằng:
“Đời trước lập Gia Định, tất trước mở xứ Mỗi Xoài, rồi mở xứ Đồng Nai, để cho quân dân hoàn tụ, rồi mới mở xứ Sài Gòn, thế là lấy ít đánh nhiều, lấn dần như tằm ăn.” (trích Phủ Biên tạp lục của Lê Qúy Đôn).
Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên qua đời vào ngày 19/11/1635, hưởng thọ 73 tuổi. Lăng mộ táng tại Sơn Phận, huyện Quảng Điền; sau cải táng về vùng núi Hải Cát, Hương Trà, Thừa Thiên. Tên lăng là Trường Diễn.
Chúa Nguyễn Phúc Nguyên không chỉ hoàn thành tâm nguyện của cha mở rộng cương vực lãnh thổ về phía Nam, mà còn phát triển kinh tế, mở cảng giao thương với thế giới. Cảng Hội An được xem là lớn và tiêu biểu nhất châu Á lúc bấy giờ, nổi tiếng trên thế giới. Quân đội của chúa Nguyễn cũng được xây dựng hùng mạnh với vũ khí hiện đại, không chỉ đánh bại đội quân chúa Trịnh, mà còn giúp Cao Miên đánh bại Xiêm La.
Quân đội cũng theo chân người Việt di cư xuống tận vùng Nam Bộ nhằm bảo vệ cư dân sinh sống, giúp cuộc di dân lịch sử của người Việt xuống phương Nam thành công tốt đẹp.
Lãnh thổ đến Gia Định
Năm 1635, chúa Nguyễn Phúc Nguyên qua đời, con thứ là Nguyễn Phúc Lan lên thay, hiệu là Thượng Vương nên còn được gọi là Chúa Thượng. Chúa Nguyễn Phúc Lan không có đóng góp gì cho việc mở mang bờ cõi lãnh thổ như các đời Chúa trước đó. Năm 1648 chúa Nguyễn Phúc Lan mất, con thứ là Nguyễn Phúc Tần lên thay, thường được gọi là Chúa Hiền. Chúa Hiền đã có công trong việc mở rộng lãnh thổ Đại Việt hơn nữa.
Đánh bại và xâm chiếm Chiêm Thành, mở rộng lãnh thổ đến tỉnh Khánh Hòa
Năm 1653, Chiêm Thành cho quân tấn công quấy nhiễu Đại Việt ở Phú Yên. Chúa Hiền sai Hùng Lộc đưa quân đến Phú Yên đánh bại quân Chiêm Thành, đồng thời vượt đèo Hổ Dương (núi Thạch Bi) đuổi theo quân Chiêm đến tận kinh thành nước Chiêm. Vua Chiêm là Po Nraup chạy trốn khỏi kinh thành rồi sai con là Xác Bà Ân dâng thư xin hàng.
Chúa Hiền đồng ý cho hàng, lấy sông Phan Rang làm biên giới, sáp nhập hai Phủ Thái Khang và Diên Ninh (thuộc tỉnh Khánh Hòa ngày nay), mở rộng thêm biên giới lãnh thổ.
Sáp nhập Đồng Nai và Gia Định vào lãnh thổ
Thời kỳ này, tình hình Cao Miên rất rối ren. Trong hoàng tộc anh em chú bác đánh lẫn nhau nhằm tranh giành ngôi Vua.
Hai con của vị vua đã quá cố là Ang Sur và Ang Tan dấy binh chống lại vua Ramathipadi I (Nặc Ông Chân) nhưng thất bại. Vậy nên hai người này tìm đến thái hậu Ngọc Vạn (tức con gái chúa Nguyễn Phúc Nguyên), được Thái hậu hứa sẽ giúp đỡ cầu cứu chúa Nguyễn Phúc Tần.
Chúa Nguyễn liền cho tướng Nguyễn Phúc Yến đưa quân đến Mỗi Xuy (nay thuộc huyện Phúc An, tỉnh Bà rịa Vũng tàu). Quân Chúa Nguyễn tiến được vào thành, bắt vua Ramathipadi I.
Nhờ sự can thiệp của chúa Nguyễn mà Ang Sur được làm Quốc vương, xưng là Barom Reachea V, đóng tại Long Úc (Oudong); còn Ang Nan (Nặc Nộn) làm Phó vương đóng tại thành Sài Gòn ngày nay.
Hai Vương của Cao Miên thần phục Chúa Nguyễn, đồng ý cống nạp theo định kỳ và hoàn toàn phụ thuộc vào Chúa Nguyễn. Thời kỳ này cũng chứng kiến việc cư dân Việt đến Cao Miên sinh sống rất đông, kiểm soát rất nhiều vùng đất.
Lúc này tại Trung Hoa, nhà Thanh lật đổ nhà Minh lập ra triều đại mới. Năm 1679, một số quan tướng nhà Minh không theo nhà Thanh đem 3.000 người đi trên 50 thuyền đến Đàng Trong, dâng sớ xin được làm dân xứ Việt.
Chúa Hiền thấy họ cùng quẫn mà đến, lại tỏ lòng trung thực mong được an cư lạc nghiệp. Ông nhận thấy nhiều vùng đất của Cao Miên ở phía Nam màu mỡ nhưng chưa được khai phá nên giao cho họ khai hoang đất đai để ở, phong cho họ quan tước rồi cho đến vùng Gia Định, Nông Nại (Đồng Nai ngày nay), trấn Định Tường (thuộc Mỹ Tho), Bàn Lân, Lộc Đã (tức Biên Hòa, Đồng Nai ngày nay). Tại những vùng này họ mở mang đất đai, lập phố chợ, giao thông buôn bán. Dần dần các tàu thuyền người Hoa, người phương Tây, Indonesia đến đây buôn bán ngày càng tấp nập.
Với việc sáp nhập thêm Khánh Hòa, Đồng Nai, Gia Định, lãnh thổ Đại Việt năm 1679 thay đổi như sau:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét