Chủ Nhật, 5 tháng 5, 2019

Các đời chúa Nguyễn mở rộng lãnh thổ

Các đời chúa Nguyễn khởi đầu từ khi Nguyễn Hoàng đến trấn thủ vùng Thuận Hóa, Quảng Nam. Phần lãnh địa của chúa Nguyễn khi đó chỉ kéo dài đến Quảng Nam. Thế nhưng các đời chúa Nguyễn thông qua khai khẩn đất đai tiến về phía Nam, đã khiến lãnh thổ Đại Việt dần dần mở rộng.


Tượng chúa Nguyễn Hoàng.
Tượng chúa Nguyễn Hoàng. (Ảnh từ lichsunuocvietnam.com)

Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lập ra nhà Mạc, một số trung thần với nhà Lê chạy sang nước láng giềng lánh nạn, chờ cơ hội trở về khôi phục nhà Lê, trong số đó có Hữu Vệ Điện Tiền Tướng quân An Thanh Hầu Nguyễn Kim.
Nguyễn Kim chạy sang Ai Lao (ngày nay thuộc Lào, giáp với các tỉnh miền Trung của Việt Nam) được vua Xạ Đẩu giúp đỡ, cho mượn đất Sầm Châu để dựng bản doanh, chiêu mộ quân sỹ. Nguyễn Kim tìm con cháu nhà Lê, cuối cùng tìm được Hoàng thất Lê Duy Ninh, tôn lên làm vua, hiệu là Lê Trang Tông.

“Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”

Sau khi đánh dẹp nhà Mạc về phương Bắc, vua Lê Trang Tông lên ngôi, phong cho Nguyễn Kim là Thái Sư, nắm hết quyền lực. Dưới trướng của Nguyễn Kim có viên tướng là Trịnh Kiểm lập được nhiều công lao, vì thế Nguyễn Kim quyết định gả con gái của mình cho Trịnh Kiểm.
Năm 1545 Nguyễn Kim bị Quan Tổng Trấn nhà Mạc là Dương Chấp Nhất trá hàng rồi đầu độc giết chết. Lúc này mọi quyền lực nhà Lê đều lọt vào tay Trịnh Kiểm.
Tuy nhiên các tướng nhà Lê cho rằng người nắm quyền bính phải là con trưởng của Nguyễn Kim là Nguyễn Uông, vì thế việc Trịnh Quyền nắm quyền bính được xem chỉ là tạm thời, rồi sẽ phải trao quyền lại cho Nguyễn Uông.
Nguyễn Uông trở thành cái gai trong mắt Trịnh Kiểm, và đột nhiên một hôm bị chết không rõ nguyên nhân. Em của Nguyễn Uông là Nguyễn Hoàng (tức con thứ của Nguyễn Kim) linh cảm đây là âm mưu diệt cỏ tận gốc của Trịnh Kiểm, người tiếp theo chắc chắn là mình, nên nội vã đến tìm gặp cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm xin chỉ dạy.
Trạng Trình đáp rằng “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, nghĩa là “Hoành sơn một dãy, dung thân ngàn đời”.
Dãy Hoành Sơn thuộc địa phận Thuận Hóa, nên Nguyễn Hoàng liền nhờ chị ruột là Ngọc Bảo (tức vợ Trịnh Kiểm) xin anh rể cho mình được trấn thủ ở Thuận Hóa. Trịnh Kiểm cho rằng Thuận Hóa xa xôi, đất đai cằn cỗi, để Nguyễn Hoàng đi sẽ yên tâm hơn không có ai tranh giành với mình nên đồng ý cho Nguyễn Hoàng đi trấn thủ luôn cả vùng đất cực Nam bấy giờ là Thuận Hóa và Quảng Nam, lệ mỗi năm phải nộp thuế là 400 cân bạc, 500 tấm lụa.
Tháng 10/1558, Nguyễn Hoàng cùng gia quyến và các binh tướng thân tín đi về phương Nam, dừng chân ở cửa Việt Yên (nay là Cửa Việt). Nguyễn Hoàng cho quân đóng trại ở gò Phù Sa, xã Ái Tử, huyện Đăng Xương (nay thuộc huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị).


lãnh thổ Việt Nam
Lãnh thổ Đại Việt khi Nguyễn Hoàng vừa đến trấn thủ Thuận Hóa, lãnh thổ chỉ đến Quảng Nam. (Ảnh từ lichsunuocvietnam.com)

Nơi đây chưa được khai phá nên rất hoang sơ nghèo nàn, là nơi tụ tập của giặc cỏ và cướp biển. Đóng quân ở đây Nguyễn Hoàng cùng binh sỹ phải đối mặt với cướp cũng như lực lượng quân Chiêm Thành, Chân Lạp thường xuyên đánh phá.
Tuy nhiên điều thuận lợi là các quan địa phương đều chào đón Nguyễn Hoàng. Tổng trấn Thuận Hóa là Tống Phướng Trị vái chào Nguyễn Hoàng đồng thời dâng lên bản đồ và sổ sách trong xứ. Người dân nơi đây cũng vui mừng chào đón một vị quan lớn từ kinh thành đến. Nguyễn Hoàng được tôn là chúa Nguyễn.

Đánh bại quân Chiêm Thành, khai khẩn về phía Nam

Nguyễn Hoàng đưa ra các chính sách khai khẩn, cho người nào khai khẩn được bao nhiêu thì được sở hữu đất ấy, nhờ thế mà đất đai cứ dần dần được mở rộng. Công cuộc khai khẩn của Nguyễn Hoàng thành công nhờ sự giúp đỡ của nhiều người dưới trướng, đặc biệt là thái phó Nguyễn Ư Dĩ.
Năm 1578, Chiêm Thành đưa quân đến tiến đánh, Lương Văn Chánh vâng lệnh chúa Nguyễn cầm quân đánh chặn. Sau khi đánh bại quân Chiêm, Lương Chánh Văn đưa quân tiến vào Hoa Anh đánh thành An Nghiệp, đây là một trong những kinh thành đồ sộ và kiên cố nhất trong lịch sử Chăm Pa. Dù thế quân chúa Nguyễn vẫn hạ được thành, đẩy quân Chăm Pa về phía Nam.
Năm 1597, Nguyễn Hoàng cùng 4.000 lưu dân khai khẩn vùng đất mới lấy được từ đèo Cù Mông (bắc Phú Yên) đến đèo Cả (bắc Khánh Hòa), nhờ đó mà hình thành nên những ngôi làng đầu tiên ở sông Đà Diễn, sông Cái.
Năm 1611, quân Chiêm Thành lại quấy rối vùng biên giới Hoa Anh, chúa Nguyễn cử Văn Phong đánh bại quân Chiêm đồng thời đuổi quân Chiêm Thành về phía Nam đèo Cả, chiếm được vùng đất Hoa Anh, đồng thời đổi tên Hoa Anh thành phủ Phú Yên gồm hai huyện Tuy Hòa và Đồng Xuân.
Chúa Nguyễn cũng cử hai tướng Vũ Thì An và Vũ Thì Trung chiếm hữu Bãi Cát Vàng trên biển Đông (tên gọi của quần đảo Hoàng Sa).


Lãnh thổ Việt Nam
Khu lăng mộ chúa Nguyễn Hoàng ở xã Hương Thọ, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. (Ảnh từ baovanhoa.vn)

Năm 1613 chúa Nguyễn Hoàng bệnh nặng, biết mình sắp mất liền cho gọi Thụy quận công Nguyễn Phúc Nguyên từ Quảng Nam về để kế vị và căn dặn:
Nếu Bắc tiến được thì tốt nhất, bằng không giữ vững đất Thuận Quảng và mở mang bờ cõi về phía Nam.
Đất Thuận Quảng này phía Bắc có núi Hoành Sơn, sông Linh Giang, phía Nam có núi Hải Vân và Bi Sơn, thật là đất của người anh hùng dụng võ. Vậy con phải biết thương yêu dân, luyện tập binh sĩ để xây dựng cơ nghiệp muôn đời.”
Ông cũng dặn dò các cận thần rằng: “Ta với các ông cùng nhau cam khổ đã lâu, muốn dựng lên nghiệp lớn. Nay ta để gánh nặng lại cho con ta, các ông nên cùng lòng giúp đỡ, cho thành công nghiệp”.
Chúa Nguyễn Hoàng mất, thọ 89 tuổi, ông để lại một vùng đất cho con cháu từ đèo Ngang tới núi Đá Bia (Thạch Bi Sơn), gần đèo Cả, phía nam Phú Yên.


lãnh thổ Việt Nam
Khi chúa Nguyễn Hoàng mất, lãnh thổ Đại Việt kéo dài thêm đến cực nam Phú Yên. (Ảnh từ lichsunuocvietnam.com)

Ban đầu lãnh thổ của Chúa Nguyễn chỉ đến vùng Quảng Nam, trong đó Thuận Hóa và Quảng Nam chưa được khai khẩn. Thế nhưng chúa Nguyễn Hoàng khi đến nơi đây không chỉ giúp khai khẩn hai vùng này, mà lãnh thổ được mở thêm vùng Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên. Tiền đề để sau này lãnh thổ được tiếp tục mở rộng về phương nam.
Sau khi chúa Nguyễn Hoàng mất, con trai thứ 6 là Nguyễn Phúc Nguyên lên thay và làm nên một cuộc di dân về phương Nam vô cùng ngoạn mục.
Tương truyền lúc mang thai, mẹ chúa Nguyễn Phúc Nguyên là phu nhân Nguyễn Thị nằm mơ thấy có vị Thần đưa cho một tờ giấy trên có đề chữ “Phúc”.
Khi tỉnh dậy, bà kể lại cho mọi người giấc mơ của mình. Mọi người chúc mừng bà và đề nghị đặt tên đứa bé là Phúc. Nhưng bà nói rằng nếu đặt tên là Phúc thì chỉ mình đứa bé hưởng, nên bà muốn lấy chữ “Phúc” làm tên lót, ẩn chứa mong muốn rằng đứa bé sau này sẽ tạo phúc cho muôn dân.


Năm 1611 đất họ Nguyễn đã trải dài đến vùng cực nam Phú Yên (ảnh qua lichsunuocvietnam.com)

Năm 1613, Nguyễn Phúc Nguyên chính thức lên kế vị. Ông ban hành rất nhiều chính sách về dân sự nhằm xây dựng chính quyền Đàng Trong hùng mạnh, cũng như ổn định cuộc sống dân chúng. Người dân tin yêu gọi ông là Sãi Vương, chúa Sãi, chúa Bụt hay Phật chúa.
Sách “Đại Nam thực lục” ghi chép lại rằng:
Nguyễn Phúc Nguyên cho sửa thành lũy, đặt quan ải, vỗ về quân dân, trong ngoài đâu cũng vui phục, bấy giờ người ta gọi là Chúa Phật. Từ đấy mới xưng quốc tính là họ Nguyễn Phước hay Nguyễn Phúc.

Hội An trở thành cảng tiêu biểu ở châu Á, nổi tiếng trên thế giới

Chúa Nguyễn cho mở hải cảng ở Quảng Nam để thông thương với nước ngoài, trong đó cảng Hội An là lớn nhất, đồng thời viết thư mời các thương nhân nước ngoài đến buôn bán. Rất nhiều thương gia Nhật Bản và phương Tây đã đến giao thương, biến Hội An thành đô thị, hải cảng quốc tế tiêu biểu ở châu Á.
Thời gian này Hội An là đô thị rất trù phú, được nhiều nơi trên thế giới biết đến, có rất nhiều khu phố dành cho thương gia nước ngoài.


Theo các tài liệu lịch sử, số lượng thuyền vào thương cảng đông đến nỗi buồm của chúng được ví “như rừng tên xúm xít” (trích trong Hải ngoại ký sự của Thích Đại Sán), còn hàng hóa thì “không thứ gì không có” và số lượng thì “cả trăm chiếc tàu to chở cùng một lúc cũng không hết được” (trích từ Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn).

Một người Ý là Christoforo Borri cư trú ở Hội An vào năm 1618 đã mô tả về Hội An như sau:
Hải cảng đẹp nhất, nơi tất cả người ngoại quốc đều tới và cũng là nơi có hội chợ danh tiếng chính là hải cảng thuộc tỉnh Quảng Nam”.
“Người Hoa và Nhật Bản là những thương nhân chủ yếu của chợ phiên, năm nào cũng mở và kéo dài trong bốn tháng. Người Nhật thường đem lại 4, 5 vạn nén bạc, người Trung Hoa thì đi một thứ thuyền buồm đem lại nhiều tơ lụa tốt và sản vật đặc biệt của họ”.
“Do chợ này mà Quốc vương thu được số tiền thuế lớn, toàn quốc nhờ vậy cũng được nhiều lợi ích”.


Hội An trong bức họa Giao Chỉ quốc mậu dịch độ hải đồ. (Ảnh từ wikipedia.org)

Quan hệ chúa Trịnh – chúa Nguyễn

Năm 1620 chúa Trịnh vô cớ gây chiến nên chúa Nguyễn quyết định hoàn toàn đoạn tuyệt với việc nộp cống thuế cho Đàng Ngoài.
Năm 1623, Trịnh Tùng chết, các con tranh ngôi Chúa mà làm loạn Bắc Hà. Nhiều người hiến kế cho chúa Nguyễn nhân cơ hội này tiến đánh chúa Trịnh, với lý do 3 năm trước chúa Trịnh vô cớ đưa quân tiến đánh vào Đàng Trong. Thế nhưng chúa Nguyễn Phúc Nguyên nói rằng: “Ta muốn nhân cơ hội này nổi nghĩa binh để phò vua Lê, nhưng đánh lúc người có tang là bất nhân, thừa lúc người lâm nguy là bất vũ. Huống chi ta với Trịnh có nghĩa thông gia”.
Hào kiệt khắp nước nghe được câu này của ông liền đi theo rất đông, trong đó nổi tiếng có Đào Duy Từ, Nguyễn Cư Trinh, giúp Đàng Trong ngày càng hùng mạnh, cư dân đi xuống phía Nam đến tận vùng Nam Bộ.
Tháng 3/1627, chúa Trịnh Tráng thống lãnh 20 vạn đại quân theo 2 đường thủy bộ tiến đánh Đàng Trong của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, hội quân ở cửa biển Nhật Lệ. Chúa Sãi cử các tướng Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Phúc Vệ và Nguyễn Phúc Trung đón đánh.
Quân chúa Trịnh lợi dụng ưu thế về số lượng tấn công, nhưng không sao chọc thủng được phòng tuyến quân chúa Nguyễn. Nhờ mở cửa giao thương với phương Tây mà quân chúa Nguyễn có được đại bác của Bồ Đào Nha uy lực rất mạnh, đạn bắn rất ổn định, hầu như không bị tắc, tốc độ bắn nhanh hơn, khoảng cách bắn cũng xa hơn so với đại bác cũ, khiến 20 vạn đại quân Trịnh Tráng không thể làm gì được.
Được Đào Duy Từ hiến kế, năm 1630 chúa Nguyễn Phúc Nguyên trả lại sắc lệnh cho chúa Trịnh Tráng đánh dấu mốc chuyển từ chính quyền địa phương thành chính quyền độc lập.

Tự trang bị đại bác cùng quân đội hiện đại

Nhận thấy uy lực của đại bác Bồ Đào Nha, và nhằm xây dựng quân đội hùng mạnh, chúa Nguyễn đã mời cha con người Bồ Đào Nha Jean De La Croix từ Hội An ra Huế giúp mở xưởng đúc vũ khí đạn dược. Năm 1631, chúa Nguyễn mở cơ sở đúc súng đại bác cùng trường bắn.
Chúa Nguyễn Phúc Nguyên cũng xây dựng quân đội Hoàng Sa nhằm bảo vệ lãnh thổ trên biển cùng quần đảo Hoàng Sa. GS.TS Nguyễn Quang Ngọc (Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển) trong tham luận tại Hội thảo về Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn năm 2008 đã phát biểu rằng: “Chúa Nguyễn Phúc Nguyên chính là người đã sáng tạo ra một hình thức khai chiếm, xác lập và thực thi chủ quyền trên các vùng quần đảo giữa Biển Đông hết sức độc đáo là đội Hoàng Sa”.


Nguyễn Phúc Nguyên
Phố cổ Hội An với Chùa Cầu phía sau. (Ảnh từ wikipedia.org)

Cuộc di dân lịch sử của người Việt

Do phải đối phó với sức mạnh từ Xiêm La (Thái Lan ngày nay), Quốc Vương Cao Miên muốn đặt quan hệ thông gia với chúa Nguyễn, từ đó công nữ Ngọc Vạn đã trở thành Hoàng hậu của vua Chey Chettha II. Chúa Nguyễn gửi quân cùng vũ khí sang giúp Cao Miên đẩy lui các cuộc xâm lược của Xiêm La. Quân chúa Nguyễn dùng đại pháo do người Bồ Đào Nha giúp đúc được khiến quân Xiêm La kinh hoàng phải rút lui.
Chúa Nguyễn cũng đã thương lượng với vua Chey Chettha II và được nhượng lại 1 dinh điền ở Mô Xoài (gần Bà Rịa ngày nay), đồng thời chúa Nguyễn được phép lập hai thương điểm là Prei Nokor (thuộc khu Chợ Lớn, Sài Gòn sau này) và Kas Krobey (khu vực Bến Nghé, Sài Gòn sau này) để thu thuế.
Đồng thời người Việt ở Đàng Trong được phép đến sinh sống ở vùng Thủy Chân Lạp (tức Đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam và miền Nam Campuchia ngày nay). Chúa Nguyễn cũng cho quân đến đóng ở vùng Prei Nokor (tức  Sài Gòn, Biên Hòa, Bà Rịa) của Chân Lạp nhằm bảo vệ người Việt làm ăn buôn bán sinh sống, đồng thời giúp Cao Miên khi có biến.
Nhờ đó chỉ trong một thời gian ngắn người Việt xuất hiện rất đông ở Cao Miên, khu vực ngày này là Đồng bằng sông Cửu Long, Sài Gòn, Biên Hòa, Bà Rịa. Miền Nam Campuchia cũng rất đông người Việt sinh sống. Đây là tiền đề quan trọng cho việc mở rộng lãnh thổ về sau này.
Nguyễn Cư Trinh, người phò tá cho chúa Nguyễn Phúc Nguyên đưa người Việt vào Nam Bộ đã có lời tổng kết rằng:
“Đời trước lập Gia Định, tất trước mở xứ Mỗi Xoài, rồi mở xứ Đồng Nai, để cho quân dân hoàn tụ, rồi mới mở xứ Sài Gòn, thế là lấy ít đánh nhiều, lấn dần như tằm ăn.” (trích Phủ Biên tạp lục của Lê Qúy Đôn).


Nguyễn Phúc Nguyên
Lăng Trường Diễn của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. (Ảnh từ lichsunuocvietnam.com)

Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên qua đời vào ngày 19/11/1635, hưởng thọ 73 tuổi. Lăng mộ táng tại Sơn Phận, huyện Quảng Điền; sau cải táng về vùng núi Hải Cát, Hương Trà, Thừa Thiên. Tên lăng là Trường Diễn. 
Chúa Nguyễn Phúc Nguyên không chỉ hoàn thành tâm nguyện của cha mở rộng cương vực lãnh thổ về phía Nam, mà còn phát triển kinh tế, mở cảng giao thương với thế giới. Cảng Hội An được xem là lớn và tiêu biểu nhất châu Á lúc bấy giờ, nổi tiếng trên thế giới. Quân đội của chúa Nguyễn cũng được xây dựng hùng mạnh với vũ khí hiện đại, không chỉ đánh bại đội quân chúa Trịnh, mà còn giúp Cao Miên đánh bại Xiêm La.
Quân đội cũng theo chân người Việt di cư xuống tận vùng Nam Bộ nhằm bảo vệ cư dân sinh sống, giúp cuộc di dân lịch sử của người Việt xuống phương Nam thành công tốt đẹp.

Năm 1635, chúa Nguyễn Phúc Nguyên qua đời, con thứ là Nguyễn Phúc Lan lên thay, hiệu là Thượng Vương nên còn được gọi là Chúa Thượng. Chúa Nguyễn Phúc Lan không có đóng góp gì cho việc mở mang bờ cõi lãnh thổ như các đời Chúa trước đó. Năm 1648 chúa Nguyễn Phúc Lan mất, con thứ là Nguyễn Phúc Tần lên thay, thường được gọi là Chúa Hiền. Chúa Hiền đã có công trong việc mở rộng lãnh thổ Đại Việt hơn nữa.

Đánh bại và xâm chiếm Chiêm Thành, mở rộng lãnh thổ đến tỉnh Khánh Hòa

Năm 1653, Chiêm Thành cho quân tấn công quấy nhiễu Đại Việt ở Phú Yên. Chúa Hiền sai Hùng Lộc đưa quân đến Phú Yên đánh bại quân Chiêm Thành, đồng thời vượt đèo Hổ Dương (núi Thạch Bi) đuổi theo quân Chiêm đến tận kinh thành nước Chiêm. Vua Chiêm là Po Nraup chạy trốn khỏi kinh thành rồi sai con là Xác Bà Ân dâng thư xin hàng.
Chúa Hiền đồng ý cho hàng, lấy sông Phan Rang làm biên giới, sáp nhập hai Phủ Thái Khang và Diên Ninh (thuộc tỉnh Khánh Hòa ngày nay), mở rộng thêm biên giới lãnh thổ.

Sáp nhập Đồng Nai và Gia Định vào lãnh thổ

Thời kỳ này, tình hình Cao Miên rất rối ren. Trong hoàng tộc anh em chú bác đánh lẫn nhau nhằm tranh giành ngôi Vua.
Hai con của vị vua đã quá cố là Ang Sur và Ang Tan dấy binh chống lại vua Ramathipadi I (Nặc Ông Chân) nhưng thất bại. Vậy nên hai người này tìm đến thái hậu Ngọc Vạn (tức con gái chúa Nguyễn Phúc Nguyên), được Thái hậu hứa sẽ giúp đỡ cầu cứu chúa Nguyễn Phúc Tần.
Chúa Nguyễn liền cho tướng Nguyễn Phúc Yến đưa quân đến Mỗi Xuy (nay thuộc huyện Phúc An, tỉnh Bà rịa Vũng tàu). Quân Chúa Nguyễn tiến được vào thành, bắt vua Ramathipadi I.
Các đời chúa Nguyễn mở rộng lãnh thổ Đại Việt như thế nào? – Phần 3: Lãnh thổ mở rộng đến Gia Định
Quân Đại Việt. (Tranh minh họa của họa sĩ Đức Hòa trong bộ “Lịch sử Việt Nam bằng tranh” – Sử dụng dưới sự đồng ý của tác giả)
Nhờ sự can thiệp của chúa Nguyễn mà Ang Sur được làm Quốc vương, xưng là Barom Reachea V, đóng tại Long Úc (Oudong); còn Ang Nan (Nặc Nộn) làm Phó vương đóng tại thành Sài Gòn ngày nay.
Hai Vương của Cao Miên thần phục Chúa Nguyễn, đồng ý cống nạp theo định kỳ và hoàn toàn phụ thuộc vào Chúa Nguyễn. Thời kỳ này cũng chứng kiến việc cư dân Việt đến Cao Miên sinh sống rất đông, kiểm soát rất nhiều vùng đất.
lãnh thổ
Người Việt đến vùng đất Biên Hòa, Gia Định, Định Tường. (Ảnh từ wikipedia.org)
Lúc này tại Trung Hoa, nhà Thanh lật đổ nhà Minh lập ra triều đại mới. Năm 1679, một số quan tướng nhà Minh không theo nhà Thanh đem 3.000  người đi trên 50 thuyền đến Đàng Trong, dâng sớ xin được làm dân xứ Việt.
Chúa Hiền thấy họ cùng quẫn mà đến, lại tỏ lòng trung thực mong được an cư lạc nghiệp. Ông nhận thấy nhiều vùng đất của Cao Miên ở phía Nam màu mỡ nhưng chưa được khai phá nên giao cho họ khai hoang đất đai để ở, phong cho họ quan tước rồi cho đến vùng Gia Định, Nông Nại (Đồng Nai ngày nay), trấn Định Tường (thuộc Mỹ Tho), Bàn Lân, Lộc Đã (tức Biên Hòa, Đồng Nai ngày nay). Tại những vùng này họ mở mang đất đai, lập phố chợ, giao thông buôn bán. Dần dần các tàu thuyền người Hoa, người phương Tây, Indonesia đến đây buôn bán ngày càng tấp nập.
Với việc sáp nhập thêm Khánh Hòa, Đồng Nai, Gia Định, lãnh thổ Đại Việt năm 1679 thay đổi như sau:
lãnh thổ
Bản đồ Đại Việt năm 1679. (Ảnh từ lichsunuocvietnam.com)
Năm 1687, chúa Nguyễn Phúc Tần mất. Nguyễn Phúc Thái lên ngôi, thời kỳ này lãnh thổ Đàng Trong không có gì thay đổi. Năm 1691, Nguyễn Phúc Chu lên ngôi nối tiếp các đời chúa Nguyễn trước đó, mở rộng lãnh thổ hơn về phương Nam.
Nguyễn Phúc Chu sinh vào tháng 5 (âm lịch) năm Ất Mão 1675, ông là con cả của Nghĩa vương Nguyễn Phúc Thái và bà Tống Thị Lĩnh (người ở Tống Sơn, Thanh Hóa).
Sách Đại Nam thực lục có ghi chép rằng:
“Trước kia, năm Giáp dần, mùa thu, ở phương Tây Nam trên trời mở ra một lỗ, có mây sắc vận quanh, ở giữa một luồng ánh sáng rực trời tỏa ngay vào chỗ nhà mẫu hậu ở, người thức giả cho là điềm Thánh. Năm sau chúa đúng kỳ giáng sinh, mùi thơm nức nhà”.
Cũng theo sách Đại Nam thực lục thì thuở nhỏ Nguyễn Phúc Chu không chỉ say mê đèn sách mà còn chăm chỉ luyện võ thuật, lớn lên không chỉ văn hay mà võ cũng rất giỏi.
Các đời chúa Nguyễn mở rộng lãnh thổ Đại Việt như thế nào? – Phần 4: Chiêm Thành quy thuận, Cao Miên dâng đất
Nguyễn Phúc Chu say mê đèn sách. (Tranh minh họa của họa sĩ Đức Hòa trong bộ “Lịch sử Việt Nam bằng tranh” – Sử dụng dưới sự đồng ý của tác giả)

Dùng Phật Pháp giáo hóa muôn dân, xã hội cực thịnh

Khi lên ngôi Nguyễn Phúc Chu mới 16 tuổi. Ngay năm đó ông cho giảm một nửa thuế ruộng cho dân. Người thời bấy giờ gọi ông là Quốc Chúa.
Mới lên ngôi Quốc Chúa đã chiêu hiền đãi sĩ, loại bỏ nịnh thần, dùng người có chí khí, nghe lời người ngay thẳng bãi bỏ thói xa hoa lãng phí.
Là nguời mộ đạo, chúa Nguyễn Phúc Chu chủ trương hồng dương Phật Pháp. Ông cho xây dựng một loạt chùa miếu; mở hội lớn ở chùa Thiên Mụ, Mỹ Am; phát tiền gạo cho người nghèo.
Chùa Thiên Mụ ở Huế. (Ảnh từ khoahocnet.com)
Quốc Chúa dùng Phật Pháp để giáo hóa muôn dân, khiến đạo đức thăng hoa, xã tắc ổn định, người dân có cuộc sống sung túc. Đây cũng là nền tảng giúp cho các cuộc Nam tiến, mở rộng lãnh thổ thành công.
Năm 1710, nhân ngày Phật đản, Chúa cho đúc chuông chùa Thiên Mụ nặng 2.021 kg, cao 2,5 m, đường kính 1,2 m. Tiếng vang của chuông bao phủ khắp kinh thành, tiếng chuông cũng đánh dấu giai đoạn phát triển đến cực thịnh ở Đàng Trong, vì một xã hội có niềm tin tín ngưỡng thì sẽ ổn định, người người đều quy thuận.

Sáp nhập Bình Thuận, Ninh Thuận, Hà Tiên, đảo Phú Quốc vào lãnh thổ

Từ năm 1690 đến 1692, vua Chiêm Thành là Bà Tranh thường cho quân vượt biên giới đến đốt phá giết hại dân Việt ở hai Phủ Thái Khang và Diên Ninh (thuộc tỉnh Khánh Hòa ngày nay). Chúa Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Cảnh đem binh đi đánh.
Nguyễn Hữu Cảnh đánh bại quân Chiêm Thành, đuổi theo tận đến kinh thành nước Chiêm, bắt được vua Chiêm giải về Phú Xuân.
Chúa Nguyễn cho sáp nhập đất Chiêm Thành vào lãnh thổ (nay là tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận), đặt tên là trấn Thuận Thành, lập ra phủ Bình Thuận.
Người Chăm Pa ở Mỹ Sơn. (Ảnh qua vietnamspirittravel.com)
Sau khi Bà Tranh chết tại Huế, em là Kế Bà Tử nghe theo một người Mãn Thanh là A Ban tập hợp quân nổi lên. Năm 1693, lợi dụng lúc Nguyễn Hữu Cảnh đã đi Tây chinh, quân Chiêm đánh bại quân chúa Nguyễn, quân cứu viện từ Bà Rịa đến cũng bị đánh bại.
Quân Chiêm đánh chiếm lại Phan Rí, rồi bao vây Phan Rang. Quân chúa Nguyễn ít hơn nên giữ chặt thành khiến quân Chiêm phải lui binh.
Năm 1694, A Ban lại cho quân đến vây Phan Rang. Quân Chúa Nguyễn từ Bình Khang đến ứng cứu khiến A Ban phải lui binh.
Nhận thấy người Mãn Thanh là A Ban chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến người Chiêm nổi dậy, chúa Nguyễn cho quân tập trung đánh A Ban, khiến A Ban thua trận phải chạy trốn.
Lúc này để giữ yên người Chiêm, tránh họ nổi loạn, chúa Nguyễn đã đồng ý ký hòa ước cho khôi phục vương quốc Chăm Pa với hình thức là một khu tự trị với tên là Thuận Thành Trấn, trực thuộc lãnh thổ Đàng Trong. Chúa Chăm Pa được gọi là Trấn Vương.
Sau đó, mối quan hệ với Chăm Pa diễn ra tốt đẹp, người Chăm Pa không còn nổi loạn nữa.
Chúa Nguyễn Phúc Chu có nhiều động thái để khẳng định và cai quản các cùng đất phía Nam như: Đặt phủ Bình Thuận cai quản các vùng đất của người Chăm Pa là Phan Rang, Phan Rí; đặt phủ Gia Định; chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phúc Long, dựng dinh Trấn Biên (Biên Hòa); lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, lập xã Minh Hương.
Tháng 8/1708, một người Hoa tên là Mạc Cửu đang khai phá ở vùng Hà Tiên dâng thư lên chúa Nguyễn xin được quy thuận, sáp nhập vùng Hà Tiên, đảo Phú Quốc vào lãnh thổ Đàng Trong. Chúa nhận lời và phong Mạc Cửu làm Thống binh trấn giữ vùng Hà Tiên.

Cao Miên dâng vùng đất Mỹ Tho và Vĩnh Long

Mùa xuân năm 1698, vua Nặc Yêm của Cao Miên cho quân đi cướp bóc dân buôn người Việt. Triều đình liền sai Nguyễn Hữu Cảnh đi kinh lược đất Cao Miên. Vua Nặc Yêm không chống cự được phải đầu hàng và xin được cống nạp như cũ.
chúa Nguyễn mở rộng lãnh thổ
Tượng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh trong đình Bình Kính, xã Hiệp Hòa, Biên Hòa. (Ảnh từ wikipedia.org)
Nguyễn Hữu Cảnh lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lập đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng nên dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn. Ông sắp đặt các quan chức địa phương để cai quản vùng đất này.
Sách Đại Nam liệt truyện ghi chép lại rằng:
Nguyễn Hữu Cảnh đã chiêu mộ dân phiêu tán từ châu Bố Chánh (nay là Quảng Bình) trở vào Nam vào đất ấy (tức đất Trấn Biên và Phiên Trấn), rồi đặt xã thôn, phường ấp, định ngạch tô thuế và ghi tên vào sổ đinh […] đất đai mở rộng hơn ngàn dặm, dân số có thêm bốn vạn hộ. 
Năm 1725, chúa Nguyễn Phúc Chu qua đời, Nguyễn Phúc Thụ lên thay, người thời đấy gọi là Ninh vương (tục gọi là chúa Ninh). Ông cũng là người mộ đạo, tiếp tục chí hướng của cha hồng dương Phật Pháp, giúp Đàng Trong duy trì giai đoạn cực thịnh.
Năm 1729, một người gốc Lào là Prea Sot sách động người Cao Miên tàn sát người Việt ở vùng Banam, rồi cho quân quấy nhiễu Sài Gòn.
Tướng Trương Phước Vĩnh sai cai cơ Đạt Thành ra ngăn lại nhưng thất bại. Sau đó Giám quân cai đội Nguyễn Cửu Triêm đi đánh, quân Cao Miên thua chạy về Vũng Gù (thuộc Mỹ Tho ngày nay). Quân chúa Nguyễn tiến tiếp vào Vũng Gù đánh bại loạn quân của Cao Miên.
Lúc này vua Cao Miên sợ bị vạ lây, liền gửi thư giải thích rằng mọi việc đều do Prea Sot gây ra, đồng thời xin đem Peam Mesar (Mỹ Tho) và Longhôr (Vĩnh Long) dâng chúa Nguyễn để cầu hòa. Chúa Nguyễn tiếp nhận các vùng đất này năm 1732.
Nhận thấy vùng đất phía Nam đã rất rộng lớn, chúa Ninh cho lập châu Định Viễn, dựng dinh Long Hồ, bổ nhiệm quan lại địa phương rồi đưa thêm dân Việt đến khai hoang lập nghiệp.
Bản đồ Đại Việt năm 1732. Thuận Thành Trấn là vùng tự trị. (Ảnh từ lichsunuocvietnam.com)
Năm 1738, chúa Nguyễn Phúc Thụ qua đời, con trưởng là Nguyễn Phúc Khoát lên nối ngôi, người thời đấy gọi ông là Chúa Võ. Chúa Võ đã giúp hoàn thành việc mở mang lãnh thổ Đại Việt, nhưng cũng vì ông mà cơ nghiệp các đời chúa Nguyễn bị lụi tàn. Phải chờ đến hàng chục năm sau, hậu duệ của Chúa Võ mới giúp lãnh thổ nước ta rộng lớn tới cực điểm.

Cao Miên dâng đất Long An, Tiền Giang

Khi chúa Nguyễn sáp nhập các vùng đất của Chiêm Thành ở Bình Thuận và Ninh Thuận vào lãnh thổ, một số người Chăm đã sang Cao Miên để định cư sinh sống. Thế nhưng sau đó triều đình Cao Miên liên tục quấy nhiểu ức hiếp những người Chăm sinh sống ở đây.
Xem người Chăm là dân tộc thuộc quốc gia của mình, năm 1753, Chúa Võ sai Thiện Chính và Nguyễn Cư Trinh tiến sang Cao Miên để giải cứu người Chăm.
Năm 1754, Thiện Chính và Nguyễn Cư Trinh từ Gia Định chia quân làm hai hướng tiến sang Cao Miên. Quân Cao Miên đại bại, Quốc Vương là Nặc Nguyên phải chạy trốn đến Tầm Phong Thu (nay là tỉnh Kampong Thom), các Phủ ở Cao Miên đều đầu hàng.
Mùa xuân năm 1755, thống suất Thiện Chính rút về Mỹ Tho trước, còn những người Chăm đi sau. Nhưng trên đường đi, người Chăm bất ngờ bị hơn 1 vạn quân Cao Miên tập kích, phải đem hết xe chất thành lũy để ngăn ngăn quân Cao Miên đồng thời cho người đi cấp báo.
Các đời chúa Nguyễn mở rộng lãnh thổ Đại Việt – Phần cuối: Lãnh thổ rộng lớn cực điểm
Quân Chúa Nguyễn rút về trước. (Tranh minh họa của họa sĩ Đức Hòa trong bộ “Lịch sử Việt Nam bằng tranh” – Sử dụng dưới sự đồng ý của tác giả)
Thiện Chính vì sông sâu đầm lầy nên không thể đến được, Nguyễn Cư Trinh lập tức đưa quân ngay đến đánh khiến quân Cao Miên phải rút. Nguyễn Cư Trinh đưa hơn 5.000 người Chăm đến chân núi Bà Dinh (tức núi Bà Đen ngày nay) an toàn.
Vì chuyện này, quân Chúa Nguyễn lại tiến sang Cao Miên một lần nữa. Quân Cao Miên bị đánh tan tác, quốc vương Nặc Nguyên chạy đến Hà Tiên nương tựa Mạc Thiên Tứ (hậu duệ Mạc Cửu, người đã dâng cho Chúa Nguyễn vùng đất Hà Tiên và đảo Phú Quốc), nhờ Mạc Thiên Tứ làm trung gian, đổ lỗi việc sát hại người Chăm là do tướng Chiêu Chùy Ếch làm. Đồng thời quốc vương Nặc Nguyên xin dâng hai phủ là Tầm Bôn (tức Tân An, Long An ngày nay), Lôi Lạt (tức Gò Công, Tiền Giang ngày nay), xin cống nộp lễ vật còn thiếu 3 năm trước đó.
Các đời chúa Nguyễn mở rộng lãnh thổ Đại Việt – Phần cuối: Lãnh thổ rộng lớn cực điểm
Trong thời gian ngắn, quân Chúa Nguyễn hai lần liên tục đánh sang Cao Miên. (Tranh minh họa của họa sĩ Đức Hòa trong bộ “Lịch sử Việt Nam bằng tranh” – Sử dụng dưới sự đồng ý của tác giả)
Chúa Võ không đồng ý mà yêu cầu Cao Miên phải giao cả kẻ sát hại người Chăm là tướng Chiêu Chùy Ếch. Quốc vương Nặc Nguyên báo rằng đã cho xử tử viên tướng này rồi. Chúa Nguyễn không tin nên yêu cầu giao cả gia đình tướng Chiêu Chùy Ếch thì Nặc Nguyên xin Chúa Nguyễn tha cho họ. Chúa Võ cho rằng quốc vương Cao Miên lừa dối nên không đồng ý.
Tuy nhiên Nguyễn Cư Trinh đã dâng sớ tâu nhắc lại kế “tằm ăn dâu” và khuyên Chúa nên nhận 2 phủ này, lời sớ tâu có đoạn rằng:
Từ xưa, sở dĩ dùng đến binh, chẳng qua là muốn giết đứa cừ khôi, mở mang bờ cõi mà thôi. Nay Nặc Nguyên đã hối quá, biết nộp đất hiến của. Nếu không cho y hàng, thì y chạy trốn; mà từ Gia Định đến La Bích, đường sá xa xôi, không tiện đuổi đánh. Vậy muốn mở mang bờ cõi, chi bằng hãy lấy hai phủ ấy, giữ chặt phía sau cho hai dinh (Phiên Trấn và Trấn Biên). Năm xưa, đi mở phủ Gia Định, trước phải mở phủ Hưng Phước (Biên Hoà), rồi mới mở đến phủ Lộc Dã (Đồng Nai) để quân dân đoàn tụ, rồi mới mở đất Sài Côn. Đó là cái kế ‘tằm ăn dâu’ đó”.
Chúa Võ thuận theo lời tâu này, đồng ý nhận 2 phủ mới.

Cao Miên tiếp tục dâng đất Trà Vinh, Bến Tre, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang, Cà Mau

Năm 1757 Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận tạm nắm quyền. Nhưng Nặc Nhuận muốn ngôi Vương nên tấu lên Chúa Võ phong xin phong tước Vương cho mình. Chúa Võ yêu cầu Nặc Nhuận phải dâng hai vùng đất là Trà Vang (nay là Trà Vinh và Bến Tre), Ba Thắc (nay là Sóc Trăng và Bạc Liêu) mới chuẩn tấu.
Thế nhưng sang năm 1758, Nặc Nhuận bị con rể là Nặc Hinh nổi loạn giết chết để cướp ngôi. Con của Nặc Nhuận là Nặc Ong Ton chạy sang Hà Tiên lánh nạn và nhờ Mạc Thiên Tứ cầu cứu với Chúa Nguyễn đánh đuổi Nặc Hinh giành lại ngôi Quốc Vương Cao Miên cho mình.
Bạc Liêu xưa kia. (Ảnh từ dauxuanambo.blogspot.hk)
Chúa Võ nhận lời, sai Trương Phúc Du đem quân thảo phạt. Ninh Hinh thua chạy đến Tầm Phong Xoài thì bị phiên liêu là Ốc Nha Uông giết chết.
Chúa Võ đồng ý sắc phong cho Nặc Ong Ton là Quốc Vương nhưng yêu cầu phải dâng thêm vùng đất Tầm Phong Long (tức An Giang, Đồng Tháp bây giờ).
Ngoài ra Nặc Ong Ton vì để tạ ơn Mạc Thiên Tứ đã cưu mang giúp đỡ mình khi hoạn nạn nên đã tặng riêng 5 phủ là: Kompong Som (Vũng Thơm), Kampot (Cần Bột), Chal Chun (Chưn Rùm hay Chân Sâm), Bantey M éas (Sài Mạt) và Raung Veng (Linh Quỳnh). Tuy nhiên Mạc Thiên Tứ đã dâng hết cả 5 phủ này cho chúa Nguyễn. 5 phủ này đều thuộc tỉnh Kiên Giang và Cà Mau ngày nay.

Hoàn tất công cuộc khai phá phương Nam

Năm 1758, cả một vùng đất Nam Bộ đã thuộc về Chúa Nguyễn. Công cuộc Nam tiến của các đời chúa Nguyễn đến đây cũng kết thúc.
Nếu vào thời điểm tháng 10/1558, thời Chúa Nguyễn đầu tiên là Nguyễn Hoàng chỉ có hai vùng đất là Thuận Hóa và Quảng Nam còn hoang sơ chưa được khai phá…
lãnh thổ Việt Nam
Thời Chúa Nguyễn đầu tiên là Nguyễn Hoàng chỉ có phần đất Thuận Hóa và Quảng Nam. (Ảnh từ tlichsunuocvietnam.com)
Thì đúng 200 năm sau, trải qua 8 đời Chúa Nguyễn đến năm 1758, lãnh thổ Đàng Trong đã vô cùng rộng lớn, trải dài hết vùng đất Nam Bộ đến tận vùng cực Nam, định hình cho nước Việt Nam ngày nay. Đó là công lao các đời Chúa Nguyễn tạo thành.
Bản đồ Đại Việt năm 1758. (Ảnh từ tlichsunuocvietnam.com)
Một phút lơ là để loạn thần thao túng dẫn đến mất nước
Sau khi lãnh thổ rộng lớn, đất nước cường thịnh, Chúa Võ lại chỉ lo tận hưởng cuộc sống xa hoa, không còn tha thiết với việc nước nữa. Chúa Võ bị cậu là Trương Phúc Loan dụ dỗ đi vào con đường nữ sắc không quan tâm đến vận nước, để từ đó Trương Phúc Loan có cơ hội nắm hết quyền hành, khiến vận nước rối bời, muôn dân ca thán.
Năm 1765 Chúa Võ mất, viết di chiếu nhường ngôi cho con là Nguyễn Phúc Luân (thân phụ của Nguyễn Phúc Ánh tức vua Gia Long sau này). Biết Nguyễn Phúc Luân là người thông minh khó mà uy hiếp, Trương Phúc Loan đã bố trí người giết chết cận vệ rồi bắt giam Nguyễn Phúc Luân, đồng thời phong Nguyễn Phúc Thuần mới 11 tuổi lên nối ngôi. Ngay sau đó Nguyễn Phúc Luân cũng chết trong ngục. Mọi việc đều do Trương Phúc Loan thao túng khiến Đàng Trong ngày càng suy yếu.
Các đời chúa Nguyễn mở rộng lãnh thổ Đại Việt – Phần cuối: Lãnh thổ rộng lớn cực điểm
Nguyễn Phúc Thuần tuổi còn nhỏ lên ngôi, do Trương Phúc Loan sắp đặt. (Tranh minh họa của họa sĩ Đức Hòa trong bộ “Lịch sử Việt Nam bằng tranh” – Sử dụng dưới sự đồng ý của tác giả)
Năm 1767, Lại bộ Thương thư Nguyễn Cư Trinh, trụ cột nhà Nguyễn qua đời, không còn ai có sức ngăn cản Trương Phúc Loan nữa. Những người có tài có tâm với nước đều bị Trương Phúc Loan tìm cách hãm hại, quốc khố ngày càng kiệt quệ
Có được quyền hành Trương Phúc Loan tha hồ vơ vét của cải mặc cho quốc nạn cũng như dân tình đói khổ, thuế sản vật các mỏ vàng Thu Bồn, Đồng Hương, Trà Sơn, Trà Vân… đều rơi vào tay Loan. Loan tổ chức thu thuế ở các cảng sông, cảng biển quan trọng và thu thuế khai thác các nguồn tài nguyên, khoáng sản ở Quảng Nam mỗi năm ước đạt bảy tám vạn quan tiền bỏ vào túi riêng, chỉ nộp công khố khoảng một hai phần. Thêm vào đó, Loan công khai bán quan, chạy ngục nên đã thâu tóm được một lượng tài sản kếch xù. 
Sử sách ghi lại rằng, có năm ngập lụt, nước tràn vào cả dinh thự của Trương Phúc Loan ở Phần Dương. Sau khi nước rút ông ta phơi vàng bạc ở sân cho khô ráo làm sáng rực cả một góc trời. Cả nhà họ Trương chia nhau nắm giữ mọi chức vụ chủ chốt trong triều đình.
Trương Phúc Loan không quan tâm đến đời sống người dân, mặc cho dân đói khổ vì thiên tai, ông ta còn tăng các khoản sưu thuế rất nặng. Cuộc sống người dân Đàng Trong đang phồn thịnh bỗng chốc trở nên nghèo đói lầm than, người dân oán thán gọi Trương Phúc Loan là Trương Tần Cối. (Tần Cối là một gian thần bán nước thời Nam Tống bên Trung Quốc) 
Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra đã đánh đổ Chúa Nguyễn. 8 đời Chúa Nguyễn đều có công Nam tiến mở rộng lãnh thổ, đời sống Đàng Trong rất sung túc, nhưng Chúa Võ cuối đời chỉ lo hưởng lạc mà bị quyền thần thao túng, khiến cơ nghiệp sụp đổ.
Nhà Nguyễn lấy lại Giang Sơn, mở rộng lãnh thổ lớn gấp hơn 1,7 lần ngày nay
Sau này hậu duệ Chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Ánh (cháu nội của Chúa Võ Nguyễn Phúc Khoát, con của Nguyễn Phúc Luân) đã đánh thắng được Tây Sơn, thống nhất toàn cõi lãnh thổ, lên ngôi Vua vào năm 1802, hiệu là Gia Long, lập ra triều đại nhà Nguyễn.
Các đời vua Gia Long và Minh Mạng, Việt Nam ngày càng hùng mạnh khiến Ai Lao (tức Lào ngày nay) phải thần phục, xin được đặt dưới sự bảo hộ và sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam.
Các đời chúa Nguyễn mở rộng lãnh thổ Đại Việt – Phần cuối: Lãnh thổ rộng lớn cực điểm
Nhà Nguyễn khôi phục và mở rộng cơ đồ, khiến lãnh thổ Đại Nam đạt đến cực thịnh. (Tranh minh họa của họa sĩ Đức Hòa trong bộ “Lịch sử Việt Nam bằng tranh” – Sử dụng dưới sự đồng ý của tác giả)
Nhà Nguyễn cũng đưa quân sang Cao Miên đánh bại quân Xiêm la, khiến Cao Miên mong được bảo hộ, đồng thời sáp nhập hầu hết các vùng đất Cao Miên vào lãnh thổ Việt Nam.
Đến năm 1835 thời vua Minh Mạng, với các vùng đất từ Ai Lao và Cao Miên sáp nhập vào, lãnh thổ Việt Nam đạt đến cực điểm, rộng 575.000 km2 tức gấp hơn 1,7 lần so với Việt Nam bây giờ (diện tích Việt Nam hiện là 331.698 km2, theo cổng thông tin điện tử chính phủ năm 2009).
lãnh thổ Việt Nam
Bản đồ Việt Nam năm 1835 sau khi sáp nhập các vùng đất của Lào và Campuchia (Ảnh từ tlichsunuocvietnam.com)
Trần Hưng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét