Chủ Nhật, 5 tháng 5, 2019

Cuộc hải chiến giữa người Việt và người Tây phương vào thế kỷ 17

Thế kỷ 16, người Tây phương với vũ khí hiện đại đã dòm ngó và thôn tính các vùng đất ở phương Đông. Năm 1563 người Bồ Đào Nha xâm nhập Ma Cao, năm 1568 người Tây Ban Nha chiếm Philippines, người Hà Lan chiếm đảo Java.
Vào thế kỷ 19, người Pháp xâm chiếm Đại Nam, mở đầu bằng trận đánh tại bán đảo Sơn Trà ở Đà Nẵng. Nhiều người cho rằng đây là cuộc đụng độ đầu tiên giữa người Việt và Tây phương. Thế nhưng thực tế là hơn 200 năm trước, vào thế kỷ 17, người Tây phương đã có cuộc đụng độ với người Việt cả trên bộ lẫn trên biển…

Bối cảnh

Vào thế kỷ 17, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã mở thương cảng sầm uất nổi tiếng thế giới lúc đó ở Hội An, rất nhiều thương gia phương Tây đến buôn bán tại đây. Đầu tiên là người Bồ Đào Nha với nhiều chuyến tàu mua bán.
Đặc biệt, một người Bồ Đào Nha là Jean De La Croix đã giúp chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên mở lò đúc đại bác, giúp trang bị quân đội Đàng Trong thêm hùng mạnh, không chỉ đánh bại cuộc xâm lăng của chúa Trịnh mà còn giúp Cao Miên đánh bại quân Xiêm La (tức Thái Lan ngày nay), mở đường cho cuộc di dân vào Nam.

hải chiến ECO
Bức vẽ Giao Chỉ quốc mậu dịch độ hải đồ (Vượt biển buôn bán với người Giao chỉ) do người Nhật ở Hội An là Chaya Shinroku vẽ.

Người Hà Lan cũng muốn nhanh chóng có chân ở Đại Việt. Năm 1637, họ được chúa Nguyễn Đàng Trong cho mở hiệu buôn ở Hội An. Trong khi đó tại Đàng Ngoài họ được chúa Trịnh cho mở hiệu buôn ở Phố Hiến (Hưng Yên).
Việc cạnh tranh giữa các thương nhân Bồ Đào Nha và Hà Lan khiến họ quay sang dựa vào mối quan hệ với chính quyền bản địa nhằm chiếm lợi thế trong kinh doanh. Người Bồ Đào Nha có quan hệ tốt với chúa Nguyễn Đàng Trong nên tìm cách nhờ cậy chúa Nguyễn; các thương nhân Hà Lan thì tìm cách gây ảnh hưởng đến chúa Trịnh với lời hứa giúp đỡ về vũ khí.
Nửa đầu thế kỷ 17, hai chúa Trịnh – Nguyễn đua nhau tăng cường sức mạnh cho thủy quân. Chúa Trịnh bố trí 68 tàu chiến tại cửa sông Cả. Chúa Nguyễn cũng có cả trăm tàu chiến ở cửa sông Nhật Lệ.
Chúa Trịnh đã 3 lần đem đại quân tiến đánh Đàng Trong nhưng đều thất bại. Nhận thấy Đàng Trong được người Bồ Đào Nha giúp đúc đại bác, uy lực rất mạnh , nên chúa Trịnh cũng tìm cách có được vũ khí phương Tây từ người Hà Lan.
Chúa Trịnh Tráng vì mưu lợi cho mình mà sẵn sàng nhượng cả đất đai cho người Hà Lan. Nhà sử học Li Tana đã tìm được bức thư chúa Trịnh Tráng gửi cho Toàn quyền Công ty Đông Ấn Hà Lan vào năm 1637:
“… Các ông có thể cho chúng tôi 2 hoặc 3 chiếc tàu, hoặc 200 lính thiện xạ… Thêm vào đó, xin gởi cho chúng tôi 50 chiến thuyền cùng với số lính tuyển chọn và những khẩu súng mạnh, và chúng tôi sẽ gửi một số lính tin cậy đến hướng dẫn các chiến thuyền của các ông tới Quảng Nam. Đồng thời đạo quân của chúng tôi sẽ tấn công Thuận Hóa… Sau khi chiến thắng chúng tôi sẽ ban tặng cho binh lính các ông 20.000 tới 30.000 lạng bạc. Về phần các ông, chúng tôi sẽ trao xứ Quảng Nam cho các ông cai trị. Các ông có thể chọn một số lính để xây dựng và canh gác thành, chúng tôi sẽ truyền lệnh cho người dân ở đó làm lao dịch cho các ông. Các ông có thể thu hoạch các sản phẩm trong vùng và gởi một phần cho triều đình chúng tôi, như thế cả hai đều được hưởng lợi…”
Công ty Đông Ấn Hà Lan là công ty đa quốc gia đầu tiên trên thế giới, là mẫu công ty đầy quyền lực, sở hữu gần như toàn bộ quyền lực của chính phủ như phát động chiến tranh, thay mặt trong các đàm phán hiệp ước, thành lập thuộc địa v.v… Ngày 14/5/1641, Toàn quyền Công ty Đông Ấn Hà Lan cho chúa Trịnh Tráng biết rằng họ đã sẵn sàng đưa tàu chiến đến để giúp chúa Trịnh đánh Đàng Trong.

hải chiến ECO
Tàu Hà Lan tấn công tàu Anh trong chiến dịch ở Chatham 1667. (Tranh của Jan-van-Leyden vẽ năm 1669)

Rất có thể nhà Nguyễn biết được điều này nên năm 1641, chúa Nguyễn Phúc Lan hạ lệnh bắt giam các thủy thủ trên 2 tàu Hà Lan bị nạn ngoài biển. Bên cạnh đó, tại Hội An, một chủ cửa hiệu Hà Lan bị mất đồ, đã nghi ngờ và đánh chết một người Việt làm công ăn lương. Tin tức loan ra khiến nhiều người phẫn nộ, dân cùng quan phủ bắt giữ người Hà Lan và đốt cháy mọi thứ trong cửa hiệu.
Đầu năm 1642, Công ty Đông Ấn Hà Lan lợi dụng các thuyền chiến hiện đại đã đến vùng biển phía Nam bắt 120 người ở Đà Nẵng, bố ráp từ vịnh Quy Nhơn trở ra, đốt hàng trăm ngôi nhà cùng các kho thóc gạo, bắt 49 cư dân ven biển nhằm yêu cầu chúa Nguyễn phải thả người (theo sách Xứ Đàng Trong – lịch sử kinh tế-xã hội Việt Nam thế kỷ 17-18” của tác giả Li Tana, Nguyễn Nghị dịch).
Sau đó Công ty Đông Ấn Hà Lan đàm phán cùng chúa Nguyễn nhằm trao đổi người, trong khi phía Hà Lan trả hết người thì phía chúa Nguyễn chưa trả người, lý do là vì bên chúa Trịnh cử đại diện của họ đến gặp công ty Đông Ấn Hà Lan bàn việc đánh chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn yêu cầu bên Hà Lan phải giao người đại diện của chúa Trịnh thì mới chịu thả người.
Thế nhưng sau đó chúa Nguyễn Phúc Lan trực tiếp xem xét sự việc và đã hạ lệnh thả hết số người Hà Lan. Tuy nhiên phía Công ty Đông Ấn của Hà Lan không hề biết việc thả người này. Phải đến năm 1643, họ mới biết được việc này.

Cuộc chiến đầu tiên giữa Đại Việt và Tây phương

Không biết chúa Nguyễn đã thả người, nên 5 tàu chiến Hà Lan với khoảng 200 thủy thủ và quân sĩ dưới sự chỉ huy của Van Liesvelt thẳng tiến đến Đà Nẵng, tấn công quân đồn trú, bắt thêm người nhằm gây áp lực để chúa Nguyễn thả người Hà Lan đang bị bắt giữ. Tuy nhiên cư dân đã phát hiện sớm và báo cho quan viên địa phương. Khi thuyền Hà Lan cập bến đổ bộ lên bờ thì bị tấn công bất ngờ. Cuộc chiến diễn ra cả trên biển lẫn trên bộ, Van Liesvelt cùng nhiều binh sĩ bị tử trận.

hải chiến ECO
Hạm đội Công ty Đông Ấn Hà Lan, nhiều trọng pháo được đặt thành hàng bên hông tàu. (Tranh của Jonhnny Van Haeften)

Đây có thể được xem là cuộc đụng độ đầu tiên giữa Đại Việt là quân Tây phương, kết quả quân Hà Lan bị thất bại thảm hại.

Cuộc hải chiến lịch sử

Sau sự việc này, Hà Lan quyết định hợp quân với chúa Trịnh để đánh chúa Nguyễn. Năm 1643 đội tàu chiến của Hà Lan đến Đàng Ngoài hội quân với chúa Trịnh, chia làm hai nhóm:
  • Nhóm tàu chiến Hà Lan thứ nhất đã đến trước hợp cùng 10 vạn quân của chúa Trịnh Tráng chuẩn bị đánh Đàng Trong.
  • Nhóm thứ hai gồm 3 tàu chiến lớn của Hà Lan dưới sự chỉ huy của Pieter Baeck khởi hành sau.
Thuyền của Hà Lan trên đường gặp bão, thay vì phải đến Đàng Ngoài thì lại bị gió bão bão đánh dạt về hướng cảng Eco (tức Thuận An, Phú Vang, Thừa Thiên – Huế ngày nay).
Theo các sách sử ghi chép lại thì lúc này chúa Nguyễn Phúc Lan cũng nhận được tin chiến thuyền Hà Lan ra Đàng Ngoài, nhưng chưa dám quyết định có nên chặn đánh bằng đường biển hay không vì các tàu chiến của Tây phương được trang bị rất hiện đại. Các quan không ai dám lên tiếng vì e ngại sức mạnh của các tàu Tây phương.
Chúa bèn tìm hỏi một người Hà Lan đang giúp việc cho mình, thì người này trả lời rằng: “Tàu Hà Lan chỉ sợ mãnh lực và quân đội của trời thôi”. Lúc này Thế tử Nguyễn Phúc Tần liền dẫn quân đi đánh.
Sách Đại Nam thực lục ghi chép như sau:
“Bấy giờ, giặc Ô Lan (tức Hà Lan) đậu thuyền ngoài biển, cướp bóc lái buôn. Quân tuần biển báo tin. Chúa đương bàn kế đánh dẹp. Thế tử (tức Nguyễn Phúc Tần) tức thì mật báo với chưởng cơ Tôn Thất Trung (con thứ tư của Hy Tông), ước đưa thủy quân ra đánh. Trung lấy cớ chưa bẩm mệnh, ngần ngại chưa quyết. Thế tử tự đốc suất chiến thuyền của mình tiến thẳng ra biển. Trung bất đắc dĩ cũng đốc suất binh thuyền theo đi, đến cửa biển thì thuyền của thế tử đã ra ngoài khơi. Trung lấy cờ vẫy lại, nhưng thế tử không quay lại. Trung bèn giục binh thuyền tiến theo. Chiếc thuyền trước sau lướt nhanh như bay, giặc trông thấy thất kinh hoảng sợ”.
Khi cách sông Gianh 5 dặm về phía Nam, quân Hà Lan bất ngờ khi thấy khoảng 50 thuyền chiến Đàng Trong đang đợi sẵn. Thế nhưng quân Hà Lan cũng không lo lắng quá vì tàu chiến của họ rất mạnh và hiện đại, được trang bị trọng pháo, đã chinh phục được Batavia và vùng quần đảo Indonesia.

hải chiến ECO
Tàu chiến Hà Lan. (Ảnh từ congly.vn)

Thế tử Nguyễn Phúc Tần lệnh cho các thuyền chiến bao vây tấn công 3 tàu chiến Hà Lan. Các tàu Hà Lan trút hỏa lực tối đa. Một số tàu bị trúng đạn, nhưng số tàu khác vẫn tiến lại gần tàu chiến Hà Lan. Nhờ nhỏ nhẹ nên tàu chúa Nguyễn tiến rất nhanh.
Thấy tình thế nguy ngập, một tàu Hà Lan tìm cách tháo chạy, một tàu khác lúng túng va vào đá khiến cả tàu và người chìm xuống biển. Tàu lớn nhất không chạy kịp ở lại chống cự quyết liệt, quân chúa Nguyễn áp sát tràn được vào tàu. 
Tuyệt vọng, thuyền trưởng Pieter Baeck cho nổ kho thuốc súng trên tàu, tử trận cùng quân sĩ. 7 thủy thủ nhảy xuống biển cố bơi thoát nhưng đều bị bắt.
Đây được xem là cuộc hải chiến đầu tiên giữa thủy binh Đại Việt với phương Tây.
Thời điểm đó, việc tàu chiến hiện đại phương Tây bị một nước phương Đông đánh bại được xem là một bất ngờ khiến các nhà sử học phương Tây rất ấn tượng và đi vào nghiên cứu, TS Li Tana viết:
“Những người Hà Lan sống sót đã chỉ trích nặng nề viên chỉ huy của họ là đã không lường trước được cuộc tấn công của kẻ địch. Trong cả hai trận chiến (1642 và 1643 – PV), các cuộc tấn công bất ngờ của họ Nguyễn đã đặt người Hà Lan vào thế thủ ngay từ giây phút đầu. Theo Tiền biên, họ Nguyễn đã chuẩn bị kỹ lưỡng vì đã nhận được báo cáo từ một đội đặc biệt gọi là tuần hải, thêm vào là các trạm gác dọc bờ biển…”.
Trần Hưng

Chúa Nguyễn Phúc Tần
Bìa sách “Lịch sử Việt Nam bằng tranh”, NXB Trẻ.
Nguyễn Phúc Tần (thường gọi là Hiền Vương) là vị Chúa thứ 4 của nhà Nguyễn. Ông là con thứ 2 của chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan. Sách Đại Nam liệt truyện chép:
Một hôm Hy Tông (tức chúa Nguyễn Phúc Nguyên) ngự giá tới Quảng Nam, đi theo tháp tùng hộ giá có Nguyễn Phúc Lan (bấy giờ đang là thế tử, về sau lên ngôi nối nghiệp chúa, tức chúa Thượng). Vào một đêm trăng sáng, Nguyễn Phúc Lan đi chơi thuyền trên sông, ghé vào bãi Điện Châu để câu cá, nghe tiếng hát của một người con gái đang hái dâu trên bãi sông. Động lòng, mới cho người tới hỏi thì được biết người con gái đó họ Đoàn. Phúc Lan bèn đem nàng về hầu ở Tiềm để. Cô gái đó đức hạnh ít ai bằng. Về sau, khi Phúc Lan lên ngôi chúa, nàng sinh cho ông một con trai. Sau này, chính là Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần.
Nối nghiệp chúa từ năm Mậu Tý (1648), nhưng khi còn thế tử mang tước là Dũng Lễ Hầu, Nguyễn Phúc Tần đã có một chiến công vô cùng hiển hách:
Năm 1644, theo yêu cầu của chúa Trịnh, chiến thuyền người Ô Lan (Hà Lan) đã vào xâm phạm cảng cửa Eo (Thuận An) của nước ta. Đoàn thuyền của họ được chia làm hai cánh:
  • Một cánh gồm ba chiến thuyền có tên là Wakendebode, Kievit và Meerman do Issac Davids chỉ huy, cánh này tiến thẳng ra Đàng Ngoài để cùng đi với chúa Trịnh.
  • Cánh thứ hai gồm ba chiếc Wojdenes, Waterhod và Vos do Baek chỉ huy.
Ngày 3/6/1644, cả hai đoàn chiến thuyền rời Batavia, theo gió Nồm tiến đến bờ biển nước ta. Trịnh Tráng đem đại đội binh mã 100.000 người rước vua Lê đi cùng với Issac Davids vào. Cả hai đoàn quân giao ước hội quân ở sông Gianh.
Khi đoàn thuyền của Baek trên đường đến điểm hẹn thì tại Phú Xuân, chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan được tin cấp báo. Sách Đại Nam thực lục t.1, tr. 55, 56 chép:
Bấy giờ, giặc Ô Lan đậu thuyền ngoài biển, cướp bóc lái buôn. Quân tuần biển báo tin. Chúa đương bàn kế đánh dẹp. Thế tử (tức Nguyễn Phúc Tần) tức thì mật báo với chưởng cơ Tôn Thất Trung (con thứ tư của Hy Tông), ước đưa thủy quân ra đánh. Trung lấy cớ chưa bẩm mệnh, ngần ngại chưa quyết. Thế tử tự đốc suất chiến thuyền của mình tiến thẳng ra biển. Trung bất đắc dĩ cũng đốc suất binh thuyền theo đi, đến cửa biển thì thuyền của thế tử đã ra ngoài khơi. Trung lấy cờ vẫy lại, nhưng thế tử không quay lại. Trung bèn giục binh thuyền tiến theo. Chiếc thuyền trước sau lướt nhanh như bay; giặc trông thấy thất kinh hoảng sợ…
Đó là ngày 7/7/1644*, đoàn thủy binh ta do thế tử Nguyễn Phúc Tần cầm đầu, tiến thẳng ra biển Đông, vây đánh đoàn thuyền Hà Lan do Baek chỉ huy. Khi đối đầu với đoàn thủy binh của ta, quân Hà Lan quá hoảng sợ, chống cự không nổi, phải bỏ chạy ra khơi. Trong tình thế hoảng loạn, quân địch tự phóng lửa đốt cháy tàu Wijdenes, tướng Baek chết theo tàu. Binh lính trên tàu sống sót chìm xuống biển, bị quân Nguyễn vớt lên và tiêu diệt. Từ xa, các chiến thuyền khác của Hà Lan thấy chiến thuyền của Phúc Tần nổ súng vang trời, không dám tiến đến sông Gianh nữa, chúng chạy ra trốn ở đảo Tây Sa.
Cũng theo Đại Nam thực lục, khi hay tin Nguyễn Phúc Tần ra biển một mình, chúa Thượng rất lo lắng, liền tự mình đốc suất binh thuyền đi tiếp ứng. Vừa tới cửa biển, từ xa trông thấy khói đen bốc cao mịt mù; chúa ra lệnh cho thủy binh ta tiến lên tiếp ứng. Đến khi được tin quân ta thắng trận, chúa mừng lắm, kéo quân về hải đình để chờ đợi.
Khi Nguyễn Phúc Tần đến bái yết, chúa trách: “Làm thế tử sao không thận trọng giữ mình?”.
Chúa còn trách Tôn Thất Trung về tội không bẩm mệnh. Trung cúi đầu tạ tội, sau đó đã hết lời khen ngợi thế tử. Chúa thượng cười và nói: “Trước kia, tiên quân ta đã từng đánh phá giặc biển, nay con ta cũng lại như thế. Ta không lo gì nữa…”
Nói xong, chúa trọng thưởng thế tử và đoàn thủy binh rất hậu…
Trong thời gian kế nghiệp chúa, Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần được coi là người rất chăm chỉ chính sự, biết trọng người tài, xa rời nữ sắc. Dưới thời chúa, vào năm 1656, Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn Hữu Tiến đã kéo quân ra đánh Trịnh, tạm chiếm được 7 huyện ở Nghệ An. Sau đó mới rút quân về. Và kể từ đó, chiến tranh Trịnh – Nguyễn kéo dài từ lâu đã được chấm dứt.
Năm Quý Tỵ (1653), vua nước Chiêm Thành mang quân sang đánh phá Phú Yên, chúa sai quân đi đánh dẹp. Đổi vùng đất từ Phan Rang trở ra làm Thái Ninh phủ và đặt dinh Thái Khang để coi việc cai trị.
Năm Kỷ Mùi (1659) Dương Ngạn Địch là một tướng cũ của triều Minh, bất phục nhà Thanh, cùng với Trần Nhượng Xuyên đem hơn 3.000 quân vào đóng tại cửa bể Tư Dung xin thuần phục. Chúa bèn phong cho họ quan chức, rồi cho vào khai hoang vùng Đông Phố (Gia Định); Lộc Dã (Đồng Nai) và Mỹ Tho. Cùng với số di dân từ miền Trung vào miền Bắc, họ đã lập nên phố xá đông đúc ở các vùng đất mới. Nhân dân trong vùng có sự giao lưu thương mại với thuyền buôn của nhà Thanh, các nước Tây phương và Nhật Bản.
Cùng trong thời gian Hiền Vương trị vì, nhiều vùng đất mới được mở mang. Các kênh Trung Đan, Mai Xá được khơi đào. Bờ cõi vô sự, thóc lúa được mùa. Chúa thực hiện chính sách bớt lao dịch, giảm thuế khóa…
Nguyễn Phúc Tần là người có tình cảm sâu nặng. Sách Nam Triều công nghiệp diễn chí tr. 613 chép: “Từ khi thái phu nhân Chu thị qua đời. Hiền Vương buồn rầu thương tiếc, mắt lệ ít khi khô, bữa ăn thường bỏ dở, đêm nằm, vẫn đặt chung đôi gối như khi thái phu nhân còn sống, các mỹ nhân trong cung không mấy khi được gần…” (sđd, tr. 613).
Chúa ở ngôi 39 năm, thọ 68 tuổi.
Tôn Thất Thọ
Xưa & Nay, số 304, 3/2008, tr 12.
Đăng lại từ trang Nghiencuulichsu.com
Chú thích:
* Về thời gian trận đánh, Đại Nam thực lục ghi là vào năm Giáp Thân (1644), còn Lê Quý Đôn trong Phủ Biên tạp lục và GS Dương Kỵ trong Việt Sử khảo luận thì ghi là năm Quý Mùi (1643). Cũng theo GS Dương Kỵ; năm trước đó (1642) quân Hà Lan đã một lần đem quân vào Nam đánh chúa Nguyễn, nhưng lần đó chúng thua to. Lần sau, mặc dù chuẩn bị kỹ hơn, nhưng kết quả lại còn tệ hơn năm trước!
Tài liệu tham khảo:
– Đại Nam thực lục, T1, QSQTN, Nxb Giáo Dục, 2007.
– Đại Nam liệt truyện, T1, Nxb Thuận Hóa, 1993.
– Việt Sử khảo luận, Dương Kỵ, Thuận hóa XB, 1949.
– Nam Triều công nghiệp diễn chí, Nguyễn Khoa Chiêm, Nxb Hội Nhà văn, 2003.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét