Thứ Ba, 13 tháng 12, 2011

Cac diem du lich cua Ba Ria Vung Tau

Bạch Dinh

Bạch Dinh dọc theo bãi trước về phía Núi Lớn, chúng ta luôn trông thấy một dinh thự màu trắng, mái ngói đỏ sừng sững trên núi nổi bật trên nền xanh tươi của cây cỏ. Đấy chính là Bạch Dinh.
Bạch Dinh được người Pháp xây dựng năm 1898 đến năm 1916 dùng làm nơi nghỉ mát cho toàn quyền Pháp Paul Doumer và được gọi là Villa Blanche theo tên cô con gái yêu của ông ta, dân địa phương quen gọi Bạch dinh là biệt thự trắng.
Sau đó nhiều đời toàn quyền đông dương (người Pháp) cũng dùng Bạch Dinh làm nơi nghỉ nghơi giải trí nên gọi là Villa Dugouverneur (Dinh toàn quyền).
Sau này Ngô đình Diệm, Nguyễn văn Thiệu cũng lấy Bạch Dinh làm nơi nghỉ ngơi giải trí nên Bạch Dinh còn có tên là Dinh ông Thượng.
Phía trước Bạch Dinh hướng ra biển. Tại đây có thể nhìn bao quát cảnh bãi trước, núi nhỏ, núi lớn nhìn thẳng xuống ta sẽ thấy hòn Hải ngưu, đó là mũi đá nhỏ nhô ra biển có hình dáng một con trâu nằm dưới nước bây giờ Bạch dinh được là dùng nhà bảo tàng trưng bày cổ vật tìm được ở Hòn Cau - Côn Đảo.


Tượng chúa Kitô

Theo đường vòng núi nhỏ (đường Hạ Long) từ bãi trước qua bãi Dứa đến mũi Ninh Phong.
Tượng chúa được xây dựng từ năm 1972 những công trình bị bỏ dở, do yêu cầu cuả đồng bào giáo dân ngày 28 tháng 1 năm 1992 UBND tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu đã quyết định xây dựng tiếp công trình tượng chúa trên Núi Nhỏ. Sau hai năm xây dựng ngày 2 tháng 2 năm 1994 công trình đã được hoàn tất. Tượng chúa được xây dựng trên núi cao 136 mét và cao so với mực nước biển 176 mét. Tượng đài cao 31 mét, hai tay dang rộng 18,4 mét được đặt trên một ngôi nhà hình vuông có trạm trổ chúa và 13 tông đồ trên mặt tượng.
Phía trong bụng tượng có thể chứa được hàng trăm người đi trên 133 bậc thang được làm bằng đá mài. Từ hai tay của tượng ta có thể nhìn bao quát được toàn bộ thành phố Vũng Tàu.


Hải Đăng

 Hải Đăng Vũng Tàu được xây dựng từ năm 1907, lúc đầu đặt ở mỏm thấp của núi nhỏ, thắp bằng dầu năm 1911 được xây dựng thành tháp tròn có đường kính 3 mét cao 18 mét được làm trên đỉnh cao nhất của núi nhỏ có độ cao 170 mét. 
Hải đăng Vũng Tàu dọi xa đến 35 hải lưu có kính viễn vọng để theo dõi tàu và hướng dẫn thuyền trên biển.

Hải Đăng Vũng Tàu

Hải Đăng Vũng TàuVới tuổi đời 145 năm, hải đăng Vũng Tàu được xếp vào cổ xưa nhất Việt Nam và khu vực Đông Nam Á.
Ở Việt Nam hiện có 79 ngọn đèn biển, trải dài từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Hà Tiên (Kiên Giang) và trên hầu hết các đảo thuộc lãnh hải. Một số ít ngọn hải đăng nằm ở thành phố, bến cảng lớn tấp nập thuyền bè qua lại như hải đăng Vũng Tàu, hầu hết các ngọn đèn biển đều nằm ở vị trí heo hút, xa xôi mà không phải ai cũng dễ dàng đến tham quan được.                              
Từ xa xưa, vùng biển Bà Rịa - Vũng Tàu đã có tầm chiến lược trọng yếu, nằm trên đường hàng hải quốc tế, thường xuyên có tàu thuyền qua lại, nhất là tàu buôn nước ngoài. Các thế kỷ trước có nhiều thuyền buôn bị đắm do không xác định được tọa độ vị trí. Để đáp ứng nhu cầu vận tải ngày càng tăng của quân đội Pháp cũng như tàu buôn nước ngoài qua đây, người Pháp cho xây dựng hải đăng Bảy Cạnh (Côn Đảo -1883) và hải đăng Vũng Tàu. 
Hải đăng Vũng Tàu cùng với hải đăng Bảy Cạnh (trong tài liệu cũ gọi Phare de BaiKan) là những ngọn đèn biển được xây dựng sớm nhất với kỹ thuật cao nhất ở nước ta trong thời kỳ cận đại. Về vị trí hàng hải, ngọn hải đăng Bảy Cạnh nằm sát ngay luồng hàng hải quốc tế. Ngoài việc đảm bảo hành hải quốc tế, ngọn hải đăng có nhiệm vụ thắp sáng để báo hiệu luồng tàu thuyền theo hướng Sài Gòn, Vũng Tàu, Kiên Giang. Hải đăng Vũng Tàu giúp tàu thuyền hoạt động trong vùng biển ngoài khơi tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu định hướng ra vào vịnh Gành Rái. Nẽu như hải đăng Bảy Cạnh có một niên đại rõ ràng vì nó gắn với cuộc nổi dậy của tù nhân Nhà tù Côn Đảo chống lại nạn lao dịch khủng khiếp của thực dân Pháp tại công trường xây dựng hải đăng, xảy ra vào ngày 27 tháng 8 năm 1883 thì niên đại hải đăng Vũng Tàu chưa biết đến một cách rõ ràng. Hải đăng Vũng Tàu ngày nay tọa lạc trên đỉnh cao nhất của Núi Nhỏ chỉ mới được xây dựng vào năm 1910. Trước đó có tòa hải đăng cổ (tên tiếng Pháp ghi trong các địa đồ cũ là Ancien Phare) ở mỏm núi thấp hơn phía nam trong cùng dãy Núi Nhỏ - (nơi hiện có tượng Chúa Giêsu -  hiện nay không còn dấu vết gì của tòa hải đăng cũ). Vì vậy, khi nói đến hải đăng Vũng Tàu các sách hướng dẫn du lịch trong ngoài nước thường đưa ra những niên đại khác nhau, không có tài liệu lịch sử để chứng minh. Bảo tàng tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã sưu tầm, nghiên cứu một số tài liệu lịch sử cho biết về niên đại xây dựng hải đăng Vũng Tàu.
      Tài liệu thứ nhất : Đó là bài thơ “Phong cảnh Cần Giờ” của nhà thơ yêu nước Nguyễn Trường Tộ (1830 - 1871). Trong chuyến đi từ kinh thành Huế trở lại Gia định năm 1866 để chờ tàu qua Pháp (chuyến đi kéo dài 3 ngày, từ 15 đến ngày 17 tháng 9 năm 1866), khi tới Cần Giờ (thuộc Gia Định) Nguyễn Trường Tộ đã làm bài thơ, trong đó có miêu tả Vũng Tàu và ngọn hải đăng cũ như sau :
                                  Bài thơ :  Phong cảnh Cần Giờ
                                                Nhân gia lao lạc tạp Tây triền,
                                                Nhất vọng bình lâm trấn hiểu yên.
                                                Sơn khởi tam phong hồi hải ngạn,
                                                Đăng cao nhất trụ dẫn dương thuyền.
                                                Quan hà diện định nhưng y cựu,
                                                Cảnh sắc thương mang dĩ bất tiền.
                                                Như thử giang sơn thùy thị chủ ?
                                                Yếu tương tình sự vấn chi thiên.

                                                (Bản dịch của Lê Thước)
                                                Nhà dân lác đác phía trời Tây,
                                                Rừng thấp bạt ngàn tỏa khói mây.
                                                Núi dựng ba tòa quanh bãi biển,
                                                Đèn cao một ngọn dẫn tàu Tây.
                                                Non sông như cũ hồn sông núi,
                                                Cảnh sắc rõ ràng đã đổi thay.
                                                Đất nước sơn hà ai đấy chủ ?
                                                Biết đem tâm sự hỏi trời thôi.
     Qua phân tích về mặt lịch sử bài thơ chúng ta có thể khẳng định : ngọn hải đăng cũ đã được xây dựng trên Núi Nhỏ muộn nhất cũng vào năm 1866.
     Tài liệu thứ hai : Trong cuốn sách “Cochinchine contemporaine” xuất bản tại Paris năm 1884 của tác giả A.Bouinais, có đoạn viết : “Cap Saint Jacques là tên mũi núi đá chạy dài 250 m và tạo nên một bán đảo nhỏ có chiều dài 20 km, chiều rộng 3 - 5 km. Trên đỉnh núi phía nam, ở độ cao 140 m nổi lên một hải đăng kiểu xưa nhất, với tia sáng trắng quay quanh. Người ta có thể thấy ở mọi góc độ hải đăng rọi xa tới 28 dặm. Vào ban ngày hình dáng hải đăng là tòa tháp cao bằng đá trắng (ở 10019’40’’ vĩ Bắc, và 107004’43’’ kinh Đông), làm điểm mốc cho tàu bè ngoài khơi. Chiều cao của tháp đèn là 8 m. Hải đăng do ông kỹ sư Maucher xây dựng, được khánh thành vào ngày 15/8/1862”. “… bán đảo Cap Saint Jacques có chừng vài trăm dân cư ngụ, có nhiều bãi lầy nước lợ trong phạm vi diện tích. Sản phẩm làm ra là dừa. Dầu dừa dùng để cung cấp cho hải đăng.” (Bản dịch từ tiếng Pháp).  Tài liệu đã nêu một cách cụ thể về thời gian và vị trí ban đầu xây dựng hải đăng. Hải đăng cổ này chính là ngọn hải đăng trên núi Nhỏ do người Pháp xây dựng đầu tiên ở nước ta sau khi Pháp chiếm được ba tỉnh miền Đông Nam bộ. Năm 1910, hải đăng được di chuyển lên địa điểm mới, trên đỉnh cao nhất của Núi Nhỏ (cao 170 m so với mực nước biển), so với nền hải đăng cũ cao hơn 30 m.

 Theo đường trải nhựa uốn quanh triền núi dẫn ta lên hải đăng Vũng Tàu. Được xây dựng từ khá sớm, tồn tại lâu đời, hải đăng Vũng Tàu vẫn giữ nguyên kiểu dáng, kỹ thuật cổ điển. Toàn bộ khuôn viên của hải đăng rộng 3.407,5m2 bao gồm : Tháp Hải đăng, Nhà Quản đăng và một số công trình khác liên quan lĩnh vực quân sự, hàng hải do Pháp xây dựng (đường Ngầm, cột tín hiệu, hầm ngầm, hầm chứa nước ngọt, đài báo tín hiệu morse…).
     Hải đăng là một tháp tròn, xây bằng đá hộc, cao 18 m, đường kính 3 m, sơn màu trắng, ba mặt Đông - Tây - Nam giáp biển, phía Bắc giáp khu dân cư và trung tâm thành phố Vũng Tàu. Về màu sắc hải đăng luật hàng hải quốc tế qui định : Thông thường hải đăng được sơn 2 màu từng đoạn một (tựa như barie) để ban ngày có thể luôn nổi bật trên nền biển xanh. Nếu ở sát bờ, hải đăng thường được sơn màu trắng. Nhưng nếu bờ toàn cát trắng hoặc cát vàng thì chúng phải được sơn màu đen… Bên trong lòng tháp có cầu thang xoắn ốc, làm bằng thép dày với 55 bậc đi qua 3 tầng tháp lên gần tới đỉnh và có lối dẫn ra ban công bên ngoài. Tầng thứ ba là nơi đặt máy vận hành thấu kính hải đăng. Tầng cuối cùng là nơi đặt hệ thống lăng kính đồ sộ, bóng đèn sợi đốt lên tới 172V - 1000W. Hai thấu kính thủy tinh dày 300mm, thiết kế kiểu đèn lồng có chu vi đường tròn 3,2m, phân thành 1 mặt tối 2 mặt sáng tạo cho ánh sáng chớp 2 nhịp, chu kỳ 12 giây, tầm chiếu xa 34 hải lý (63 km) vào ban ngày và 23 hải lý (43 km) vào ban đêm. Đèn chuyển động bằng môtơ điện, mỗi phút quay 5 vòng hướng dẫn tàu bè qua lại. Đêm đến, đứng ở Bãi Trước ta thấy hai luồng ánh sáng trắng như hai đường thẳng quét tròn kế tiếp nhau trên nền trời tối sẫm. Tại hành lang bao quanh bên ngoài tháp tầng thứ ba đặt một đèn phụ dự phòng, có tầm chiếu 18 hải lý và một thiết bị vô tuyến có tầm hoạt động xa 12 hải lý. Thời kỳ đầu chưa có điện, sử dụng chất đốt (dầu dừa, dầu mỏ, gas…) cơ chế vận hành của hải đăng Vũng Tàu tương đối đơn giản, để ánh sáng từ ngọn hải đăng được quay vòng, người ta sử dụng loại máy như kiểu máy đồng hồ (hệ thống dây thiều, cứ ba giờ phải lên cót một lần). Đứng ở ban công tháp đèn (cách xa 70 km có thể trông thấy được tháp Hải đăng) quan sát được toàn cảnh non nước Vũng Tàu và xa hơn nữa như Kỳ Vân - Minh Đạm, Vàm Láng - Gò Công, vùng đảo Cần Giờ. Tuy nhiên, thời điểm lý tưởng nhất trong ngày lên đỉnh hải đăng là lúc hoàng hôn mặt trời sắp lặn và khi thành phố lên đèn, để chiêm ngưỡng phong cảnh một vùng biển mở ra trước mắt đẹp đến sững sờ.   
Tháp hải đăng được nối liền với khu nhà ở của những người vận hành (nhà quản đăng) bằng một con đường hầm cong kiên cố với dáng vẻ kiến trúc độc đáo chưa có ở bất cứ hải đăng nào. Khu nhà quản đăng là một kiến trúc kiểu Pháp, hai tầng đồ sộ, xây dựng cùng thời. Nhà dài, rộng có đến 25 phòng, phòng nào cũng rộng, thoáng mát. Vì ở cao không đào giếng nước được, người ta xây dựng hầm chứa nước mưa 100 m3 đủ để những người canh hải đăng dùng trong cả năm.
Dưới chân tháp đèn có bốn khẩu đại bác dài trên 10 m (30 ft), nặng hàng tấn, thuộc di tích trận địa pháo cổ do người Pháp xây dựng tại núi Nhỏ từ năm 1895, nhằm khống chế một vùng rộng lớn từ Long Hải đến Cần Giờ, kiểm soát đường biển vùng Đông Nam Bộ.
Bao quanh khu nhà vận hành và đoạn cuối đường lên hải đăng là vườn sứ nhiều chục năm tuổi, tỏa bóng mát rượi, trổ bông thơm ngát.
Trong thời kỳ chống Pháp (1946 - 1954), hải đăng Vũng Tàu có vị trí quan trọng trong vận tải quân sự của quân Pháp chiếm đóng nên đã bị Đội Biệt động thành phố Vũng Tàu đã hai lần tổ chức tấn công đánh sập, làm tắt Đèn Pha (lần thứ nhất xảy ra vào đầu tháng 4 năm 1950 ; Lần thứ hai xảy ra ngày 10 tháng 5 năm 1950). Các trận đánh mang ý nghĩa chính trị nhiều hơn bởi từ lâu Pháp vẫn cho thị xã Cấp là rất an toàn.
Trong kháng chiến chống Mỹ, “Đoàn tàu không số” phải dựa vào luồng sáng hải đăng Vũng Tàu để cập bến Lộc An thành công, kịp đưa vũ khí đạn dược từ miền Bắc chi viện cho chiến trường miền Đông đánh thắng quân địch trên chiến trường Bình Giã (1964 - 1965) làm sụp đổ hoàn toàn “Chiến lược chiến tranh đặc biệt” của Mỹ và tay sai trên chiến trường Miền Nam.
Ngoài giá trị tự nó về chức năng của ngành hàng hải, vẻ đẹp hấp dẫn về kiến trúc độc đáo, cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, hải đăng Vũng Tàu còn có giá trị lịch sử-văn hóa.  
           
Hơn một trăm năm qua, hải đăng Vũng Tàu là người bạn tin cậy và trung thành của những người đi biển. “Với những người lâm nạn, mất phương hướng giữa đêm trên biển thì ánh sáng nhấp nháy của ngọn hải đăng thực sự là một điều kỳ diệu, một vị cứu tinh. Nó không những đưa đường dẫn lối, mà còn như thắp lên tia hy vọng, làm bùng cháy những khát khao sống mạnh mẽ của con người, là động lực cho những con thuyền rẽ sóng về bến đỗ an toàn”.
Hải đăng Vũng Tàu cùng với những hải đăng lâu đời nổi tiếng do người Pháp xây dựng tại Việt Nam từ nửa cuối thế kỷ XIX - Hải Đăng Mũi Điện (Tuy Hòa) -1890 ; Hải đăng Đảo Dáu (Hải Phòng) - 1896 ; Hải đăng Kê Gà (Bình Thuận) -1899 ; Hải Đăng Hòn Khoai (Cà Mau) - 1899 ; hải đăng Cù Lao Xanh (Qui Nhơn) - 1899, đang là điểm du lịch hấp dẫn của du khách, đặc biệt là những người yêu thích khám phá vẻ đẹp hùng vĩ của hải đăng.
Đến với thành phố biển Vũng Tàu không chỉ được nghỉ ngơi, tắm biển, dưỡng bệnh trong không khí trong lành mát mẻ, được hiểu biết nhiều di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, du khách còn có cơ hội tham quan hải đăng Vũng Tàu - biểu tượng của thành phố biển.
Trong một vài năm tới, khi dự án cáp treo nối liền hai đỉnh Núi Lớn - Núi Nhỏ dài hơn 2 km đi vào hoạt động, du khách sẽ có thêm một lựa chọn nữa để lên núi khám phá ngọn hải đăng Vũng Tàu, ngoài cách đi bộ hoặc ngồi xe như hiện nay.

                                                                                                                         Lê Dung
                                                                                                                              (Bảo tàng BRVT)



Núi Lớn

wpe26.jpg (10181 bytes)Vũng Tàu có hai hòn núi là Núi Lớn và Núi Nhỏ. Núi Lớn có diện tích khoảng 400 ha, có ba đỉnh lớn là Vũng Mây, Núi Lớn và Hòn Sụp.
Theo đường Núi Lớn (đường Trần Phú ) quanh sườn núi từ Bến Đình sẽ đến chùa Thích Ca Phật Đài, Bãi Dâu, đến Bãi Trước dài 10 km, đường dốc quanh co, trên là núi, dưới là biển, phong cảnh hữu tình, hùng vĩ lên thơ. Có nhiều thắng cảng dọc đường đi như tượng Đức mẹ, tượng Phật Bà Quan Âm, Bạch Dinh ...


Núi Nhỏ

Núi Nhỏ có diện tích khoảng 120 ha, đỉnh núi cao 170 m. Về truyền thuyết, Núi Nhỏ mang tên Tao Phùng kể về câu chuyện giữa người con gái vua Thuỷ Tề và một chàng trai làng chài.
Theo đường vòng Núi Nhỏ (đường Hạ Long) chạy từ bãi trước qua Bãi Ô Quắn, Bãi Dứa đến mũi Nghinh Phong và ra Bãi Sau dài khoảng 6 km. Đường mới, rộng và đẹp. Hai bên đường có nhiều điểm du lịch hấp dẫn như Bãi Trước, chùa Niết Bàn Tịnh Xá, tượng Chúa Kitô, Hòn Bà  ...


Lăng cá ông

wpe17.jpg (11634 bytes)Lăng Cá Ông nằm trên đường Hoàng Hoa Thám , trong khuôn viên rộng và thoáng mát trong cả quần thể gồm đền thần Thắng Tam và miếu Bà Ngư Hành. Chuyện kể rằng, vào thế kỷ XIX có một đầu cá Ông rất lớn trôi dạt vào Bãi Sau. Đầu cá to đến nỗi không thể kéo lên bờ nên ngư dân địa phương phải lấy gỗ, tre rào lại cho thịt rữa hết rồi tháo từng khớp xương rửa sạch đem về thờ tại một miếu sơ sài tại Bãi Trước. Cùng thời gian đó ở Cần Giờ, có một thân cá và ở Long Hải có một đuôi cá dạt vào bờ. Do vậy trong giới ngư phù có một truyền thuyết cho rằng Cá Ông này là vị Tướng quân được Long Vương ra lệnh phải bảo vệ và giúp đỡ thuyền bè qua lại trong vùng biển này. Những vị Tướng quân này không hoàn thành nhiệm vụ khiến cho chiếc tầu bị đắm trong cơn bão tố, nên Long Vương nổi giận hạ lệnh chém làm ba khúc  
Đối với ngư dân khắp vùng biển phía Nam thì Cá Ông được xem là loài linh thiêng thường hay cứu giúp những con thuyền gặp sóng to gió lớn. Vì vậy mỗi khi có xác Cá Ông trôi dạt vào bờ, thì người đầu tiên trông thấy được coi là con trưởng nam, phải có bổn phận để tang và lo toan việc chôn cất xác cá thật chu đáo. Khoảng 40 năm sau lại có một xác Cá Ông lớn trôi vào Bãi Sau, dân làng được tin kéo tới đem xác cá lên bờ rồi chôn cất tử tế. Đến năm 1911, ngư dân địa phương chung nhau góp tiền xây một Lăng tại khu vực lăng hiện nay, rồi đào xương cá Ông này và dời xương cá Ông trước đó về thờ trong lăng. Từ đó Lăng được nhiều lần tu bổ và đến tháng 4 năm 1969 được sửa chữa có hình dáng như hiện nay. Giữa lăng là bàn thờ được trạm trổ công phu các hình long, ly, quy, phụng giao đầu, cá hoá Rồng giỡn sóng. Phía sau bàn thờ là ba tủ kính lớn đựng xương cá. Tủ bên trái đựng xương cá Ông nhỏ vớt được trong những lần sau. Ngày vua Ông (ngày Giỗ) được định vào ngày 16 tháng 8 âm lịch hàng năm.Vào ngày nay, ngư dânVũng Tàu kéo về làm lễ cúng bái rất linh đình, trọng thể
wpe18.jpg (17507 bytes)


Cảng Cầu Đá

wpe1B.jpg (11108 bytes)Cảng Cầu Đá được xây dựng tế năm 1896 nhằm phục vụ cho mục đích quân sự, đồng thời phục vụ cho việc bốc xếp về kho, hàng hoá phục vụ cho thành phố nghỉ mát và các căn cứ quân sự. 
Tiền cảng Vũng tàu là một con đê dài hơn 400 m, chân đê rộng 15 m, mặt đê rộng 4 m được kè bằng đá đổ bê tông chạy dài tế mũi phía bắc Núi Nhỏ ra giữa biển, song song với bãi trước. Đê cảng Vũng Tàu được kỹ sư Pháp thiết kế và thị trưởng Vũng Tàu lúc đó phê duyệt và thi công.
 Tiền cảng được xây dựng và sử dụng chưa tới bảy năm đã hư hỏng do những tính toán sai lầm của người Pháp. Cùng với trận địa pháo trên Núi Nhỏ, Cầu Đá Bãi Trước hợp thành một quần thể di tích đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng cấp quốc gia.


Hòn Bà

Hòn Bà là một hòn đảo nhỏ, dưới chân đảo sóng biển đánh tung bọt trắng xoá rất lên thơ, nằm phía ngoài biển theo đường hạ Long vòng Núi nhỏ, Từ Bãi Trước, qua Bãi Dứa đến mũi Nghinh Phong. Hòn Bà nằm cách chân Núi Nhỏ khoảng 200 m. Năm 1881 ông Hồ Quang Minh gốc miền Trung đã bỏ kinh phí ra xây dựng một ngôi miếu nhỏ trên đảo gọi là Miếu Bà.
Miếu Bà hiện nay có chiều cao nổi trên mặt đất là 4 m. Trong là điện thờ các vị thần linh. Bên dưới có một tầng hầm dài 6m rộng 3m, trước kia tếng là nơi hội họp bí mật của đồng bào yêu nước chống đế quốc. 
Khi thủy triều xuống thấp, có thể men theo một lối đá chập trùng để ra đảo. Ngày rằm hay mồng một, bà con thường ra đảo rất đông để thắp hương cầu may tại ngôi  miếu nhỏ này.


Vũng Tàu Paradise

wpe2B.jpg (12817 bytes)Piz 1 : Khu du lịch thiên đường với những thú vui giải trí phong phú dựa vào mẫu của người châu Âu, những khu vườn theo kiểu Châu Âu và Trung Quốc, phòng Karaoke hiện đại. Đã khai trương tế ngày 19/3/1995 .
Piz 2 : Câu lạc bộ Marina : Những sinh hoạt thể thao trên biển với nhiều trò đặc sắc, hấp dẫn như: thuyền buồm, thuyền máy ... bãi đậu xe rộng rãi, nhà hàng với thiết kế độc đáo, trang nhã phục vụ những món ăn biển.
Piz 3 : Câu lạc bộ sân golf Paradise là sân golf bờ biển đầu tiên tại Việt Nam , Chọn kiểu gôn, chọn lỗ nổi tiếng của Anh, Mỹ, phù hợp với tất cả  mọi người.


Căn cứ Minh Đạm

wpe12.jpg (18779 bytes)
Núi Châu Long - Châu Viên ở đông Nam huyện Long Đất ,Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, cách thành phố Vũng Tàu 30 km. Từ Đông xang Tây dài 8 km điểm cao nhất là 355 m. Ba mặt giáp biển, có nhiều hang động hiểm trở. Dãy núi này là căn cứ chống Pháp, Mỹ của Tỉnh uỷ Bà Rịa và Huyện uỷ Long Điền. Năm 1948 đổi tên là căn cứ Minh Đạm, đó là ghép tên của hai đồng chí Bùi Công Minh và Mạc Thanh Đạm là bí thư và phó bí thư huyện uỷ Long Điền đã hy sinh tại đây. 
Căn cứ Minh Đạm bao gồm 4 khu : Chùa Viên, Đá Chẻ, Chùa Giếng Gạch, Đá Chồng.
Căn cứ Minh Đạm được công nhận là di tích lịch sử theo quyết định số 57/QĐ VHTT ngày 18/01/1993 của Bộ Văn Hoá Thông Tin.
wpe10.jpg (9499 bytes)


Nhà tưởng niệm nữ anh hùng Võ Thị Sáu

Ngôi nhà lưu niệm nữ liệt sỹ anh hùng lực lượng vũ trang công an nhân dân Võ Thị Sáu thật đơn sơ, khiêm nhường bên tỉnh lộ 23 ,cách thị xã Bà Rịa 12 km về phía Tây, thuộc xã Phước Long Thọ, Huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tầu. Ngôi nhà có lối kiến trúc dân dã đặc trưng của làng quê Việt Nam . Xung quanh được che bằng các tấm ván gỗ, mái lợp ngói âm dương, nền đất. Căn nhà dài 10m, rộng 3m gồm 2 phòng nhỏ. Phòng ngoài rộng 5 m, ở giữa bài trí tủ thờ gia tiên, kế sát bên vách phía phải là bộ đồ ván gỗ nơi chị em Sáu thường nằm ngủ. Phía trong là nơi nghỉ của ông bà song thân. Nối giữa phòng ngoài và vòng trong là một hành lang nhỏ thông ra phía sau nhà.
Cách đó chừng 50m về hướng đông nằm kế ngã tư­ tỉnh lộ 32 là khu công viên tượng đài nữ anh hùng Võ thị Sáu đặt trang trọng tại công viên, bốn mùa bát ngát hương hoa sứ, ngọc lan, lêkima. Tượng đúc bằng đồng, cao 7 m do tác giả Thanh Thanh sáng tác, diễn tả tư thế chị Sáu ung dung ra pháp trường với tà áo tung bay trong gió.


Địa đạo Long Phước


Thuộc xã Long Phước thị xã Bà Rịa là căn cứ cách mạng của tỉnh Bà Rịa Long Khánh. Năm 1948 nhằm bảo tồn lực lượng và củng cố phong trào cách mạng, đảng bộ Long Phước phát động phong trào đào hầm bí mật trong toàn xã. 
Tiền thân chọn là căn hầm nhà ông Năm Hồi với chiều dài 300 mét nhờ đó tháng 10 năm 1949 lực lượng vũ trang cách mạng đã chiến thắng cuộc càn quét của giặc Pháp giữ vững xam ấp và cơ sở cách mạng.
Năm 1963 địa đạo được khôi phục và phát triển ở ấp Nam Tây chiều dài 200 mét, có cấu trúc thêm giao thông hào, ụ chiến đấu kho lương thực, kho về khu, hầm cứu thương.
 Địa đạo đã trở thành thế trận vững chắc để lực lượng cách mạng bám trụ kiên cường đánh bại nhiều cuộc tấn công lấn chiếm của địch góp phần cùng quân dân cả nước giải phóng miền Nam.
Ngày 09 tháng 1 năm 1990 bộ văn hoá Thông tin - Thể thao-Du lịch đã ra quyết định số 34/HVQĐ công nhận di tích lịch sử địa đạo Long Phước. UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã cho trùng tu lại khu di tích địa đạo Long Phước và đón khách du lịch trong và ngoài nước đến tham quan.


Căn cứ núi Dinh

wpe2D.jpg (9038 bytes)Núi Dinh chạy hình vòng cung theo hướng Đông Nam - Tây Bắc. Đỉnh cao nhất là núi Ông Trịnh cao 504m, phần còn lại thoải dần về 2 phía. Đầu thế kỷ 20, ở đây là rong nguyên sinh với thảm thực vật nhiệt đới đa dạng, nhiều lại cây gỗ qúi hiếm.
Trong hai cuộc kháng chiến, Núi Dinh là căn cứ cách mạng, trải dài trên một diện tích có địa hình phức tạp, hiểm trở. Mỗi hốc đá, bờ suối đều tạo lên những kỳ tích anh hùng. Những địa danh như­ Hang Dây Bí, Hang Tổ, Hang, Mai Chùa Diệu Linh, Hang Dơi đều làm nhiều thế hệ bồi hồi xúc động.


Suối nước nóng Bình Châu

wpe2F.jpg (7548 bytes)Khu du lịch nước nóng Bình Châu nằm cách huyện Xuyên Mộc khoảng 30 km, theo quốc lộ 23. Nằm giữa rừng nguyên sinh rộng tới 7000 ha, một bầu nước sôi với hơn 70 điểm phín nước lộ thiên, vùng có nước  nóng hoạt động rộng hơn 1 km vuông, gồm nhiều hồ lớn nhỏ tạo thành các dòng chảy có lưu lượng nhỏ. vùng hồ rộng nhất khoảng 100 m vuông với độ sâu hơn 1m. Đây là điểm nóng nhất, nhiệt độ tầng mặt nước khoảng 64 độ và đáy nước là 84 độ. Những nơi nông, nước chỉ nóng khoảng 40 độ, có thể ngâm chân, tay để chữa bệnh.
Khu du lịch này đã được đầu tư thành nơi phục vụ đông đảo du khách trong nước và nước ngoài. Du khách có thể tắm nước nóng trong bồn tại phòng riêng hay chọn ở hồ hoặc tự nhiên giữa thiên nhiên tại các dòng mương dẫn nước khoáng nóng.


Rừng nguyên sinh Bình Châu

wpe32.jpg (11884 bytes)Rừng Bình Châu - Phước Bửu là một quẩn thể cảnh quan đa dạng, có sức thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước đến tham quan.
Khu rừng cấm quốc gia Bình Châu - Phước Bửu nằm dọc theo ven biển, thuộc phía nam huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Khu rừng này trải dài trên đại phận 5 xã Bình Châu, Bưng Riềng, Bông Trang, Xuyên Mộc và Phước Bửu, với tổng diện tích hơn 11.000 ha. Địa hình rừng cấm tương đối bằng phẳng, những ngọn đồi thoải dần xen lẫn những vạt rừng tươi tốt và hệ thống hồ nước ngọt tự nhiên đã tạo lên cảnh quan tuyệt đẹp.
Với hệ thực vật phong phú, đa dạng, có tới 113 họ, 408 chi, 661 loài trong đó có rất nhiều loại cây qúi hiếm. Dưới tán rừng là vô số loại cây cảnh sinh sống như thiên tuế, vạn tuế, mai, lan ... Động vật có 178 loài thuộc 70 họ, 29 bộ, 36 loài thú như voi, báo, khỉ, voọc, heo, hoẵng ... 96 loài chim, 33 loài bò sát ...
Giữa rừng già hoang sơ, du khách sẽ gặp dòng sông Hòa êm đềm chảy về biển. Rừng Bình Châu - Phước Bửu là một  trong những khu rừng nổi tiếng ở miền Nam Việt Nam . Ngày 9 tháng 8 năm 1986, Hội đồng Bộ trưởng đã ký quyết định số 194, đưa rừng Bình Châu - Phước Bửu vào danh mục rừng cấm quốc gia.


Cầu Tàu

wpe2.jpg 
(7411 bytes)Cầu Tàu được khởi công xây dựng vào văn 1873,với chiều dài là 107m, từ mép lộ trước cổng dinh Chúa Đảo lao thẳng ra vịnh Côn Sơn.Dấu ấn sâu lắng nhất đọng lại di tích lịch sử này. Trong hơn một thế kỷ qua chọn là những phiến đá ngổn ngang, sắp lớp. Những tảng đá đó đã đè nát bao nhiêu thân tù khi họ đưa nó từ núi Chùa về đây. Cái thời đau thương ấy như vẫn còn âm vang trong từng phiến đá và có câu trường hận của tù nhân : "Côn Lôn ơi, viên đá mạng người....".
Cầu Tàu đã từng rợp bóng cờ đỏ sao vàng những ngày Cách Mạng Tháng Tám(1945) thành công ở Côn Đảo. Trên 2000 tù nhân đã trở về tiếp tục cuộc kháng chiến chống Pháp. Một số người đã trở thành những đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Ngày 4/5/1975 trên chuyến tàu đầu tiên ra giải phóng Côn Đảo 500 bức ảnh Bác Hồ được in lụa đã được chuyển tới Cầu Tàu để về đất liền, chấm dứt hơn một thế kỷ "địa ngục trần gian " nơi Côn Đảo.


Côn Đảo

wpe6.jpg 
(9767 bytes)Là quần đảo Côn Lôn bao gồm 14 đảo lớn nhỏ nằm ở phía Nam Tây Nam biển Đông cánh Vũng Tàu 97 hải lưu ,cánh mũi Cà Mau 100 hải lưu. Là quần đảo có diện tích rộng 76.71 km, dân cư thưa thớt. Hòn đảo lớn nhất  gọi là Côn Đảo (Còn có tên là Phú Hải ) rộng 51.52 km vuông.
Côn Đảo là trung tâm Kinh tế - Chính trị - Xã hội của quần đảo. Côn Đảo có 200 km bờ biển, có rừng rậm quốc gia rộng 6.043 ha là rừng nguyên sinh. Có thảm thực vật phong phú, có rất nhiều loại động vật qúi hiếm vùng nhiệt đới.  
Côn Đảo có ngư trường lớn, phạm vi đánh bắt hải sản rộng rất thuận tiện cho các hoạt động dịch vụ phục vụ khai thác xây dựng cơ sở chế biến hải sản xuất khẩu. Có nhiều thắng cảnh và bãi tắm nổi tiếng.


Nghĩa trang Hàng Dương

wpe8.jpg 
(7323 bytes)Được quy hoạch rộng 190.000 m2. Bao gồm khu A, khu B và khu C.Theo ước định có khoảng 20.000 tù nhân đã chết ở Côn Đảo, tuy nhiên không phải tất cả đã nằm ở Hàng Dương. Nghĩa địa tù này được lập đầu tiên ở Chuồng Bò  sau đó chuyển lên Hàng Keo. Tính đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (1975) nghĩa trang lịch sử này đã tròn 35 tuổi.
Khu A nghĩa trang, nơi có phần mộ của  cụ Nguyễn An Ninh và đồng chí Lê Hồng Phong, là nơi chôn những ngôi mộ đầu tiên. Năm 1944 khu A đã chôn chật mộ nhà tù mở rộng nghĩa trang về phía Nam tức  khu B hiện nay.
Hài cốt của lớp tù nhân trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) được chôn kế tiếp từ đồi cát chạy dài xuống phía Nam nơi có ngôi mộ của người nữ anh hùng Võ Thị Sáu. Hài cốt của lớp tù nhân chống Mỹ được chôn tiếp vào phần còn lại của khu B và chuyển sang khu C.   
Sân hành lễ nằm ở trung tâm nghĩa trang với một tượng đài mang một hình tượng Trao áo. Tượng đài cao 9 m, nặng 25 tấn được khởi dựng ngày 16/07/1980 . Dưới chân bức tượng có ghi dòng chữ "Vĩnh biệt các đồng chí". Nghĩa trang Hàng Dương được bảo tồn như một di tích lịch sử đặc biệt. Nghĩa trang Hàng Dương với hàng ngàn nấm mộ có tên và không có tên là bằng chứng hùng hồn về tội ác của đế quốc, thực dân đối với dân tộc ta.


Rừng nguyên sinh Côn Đảo

wpeC.jpg
 (9049 bytes)Rừng nguyên sinh Côn Đảo là khu bảo tồn quốc gia rộng 6.043 ha trên 14 hòn đảo nằm trong quần đảo Côn Lôn ,được bao bọc đường hành lang biển rộng 4 km .Quần đảo bao gồm 3 hệ sinh thái : Rừng nhiệt đới quanh năm xanh tốt, Rừng đồi cát khô, Rừng đước và rừng sau đước.
Những khảo sát sơ bộ cho thấy có khoảng 361 loài cây thuộc về 22 lớp ,71 họ ,191 giống đại diện cho vùng khu hậu Việt Nam.Trong đó có 26 loại cây lấy gỗ (Với nhiều loại cây gỗ qúi như : lát, quăng, sao, giáng hương...), và có 76 loại cây thuốc dân tộc. 
Khu rừng có 100 loài chim và thú lưỡng cư thuộc 50 họ và 22 lớp : 18 loại động vật có vú ;62 loài chim;19 loài bò sát ;6 loài ếch và 150 loại động vật thân mềm .Đông vật qúi có Sac đen ,Sac da đỏ ,Sac bay, khỉ vàng, đại bàng biển ,trăn...
Hòn Trứng trong quần đảo là nơi trú ngụ của các loài chim biển với mật độ dày đặc có thể so sánh với sân chim ở miền Tây Nam Bộ.
Trong biển có những bãi Hải Sâm lớn, nơi cư ngụ của các Heo. Những bãi biển của hòn Bảy Cạnh, hòn Tre Lớn là nơi sinh đẻ của Voọch và đồi mồi . Nhiều hang, vách đá của hòn Cau, hòn Tre Nhỏ , vịnh Đầm Tre ... là nơi trú ngụ của chim yến.
Khu rừng bảo tồn quốc gia Côn Đảo là bức tranh thu nhỏ, thiên nhiên rừng Việt Nam . Tại đây người ta đã bắt đầu  phát hiện được những di tích lịch sử văn hoá cổ. Tương lai Côn Đảo đáng được nghiên cứu hoạch định để Côn Đảo có thể trở thành một trong những trung tâm du lịch thiên nhiên hấp dẫn nhất vùng Đông Nam á  .
wpeE.jpg (9684 bytes)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét