Cách Thị xã Tân An 3,5km về phía Tây, lăng Nguyễn Huỳnh Đức là một trong những kiến trúc lăng mộ cổ nhất ở Long An còn tồn tại gần như nguyên vẹn cho đến ngày nay. Đây là một quần thể kiến trúc bao gồm các công trình chính như cổng, lăng mộ, đền thờ Kiến Xương Quận công Nguyễn Huỳnh Đức, một công thần khai quốc của Triều Nguyễn. | ||
Khuôn viên lăng Nguyễn Huỳnh Đức có diện tích hơn 3000m2, được giới hạn bởi tường rào, có cổng tam quan mở về hướng Đông, trên cổng đắp nổi dòng chữ ''Tiền quân phủ''. Lăng Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức được xây dựng năm 1817 (trước khi ông mất) bằng đá ong và vữa tam hợp theo hướng bắc-nam. Lăng được xây dựng theo lối cổ, đăng đối nghiêm ngặt, có vòng thành hình chữ nhật dài 35m, rộng 19m, cao1,2m, dày 0,4m bao quanh. | ||
Di tích nghệ thuật ''Lăng mộ và Đền thờ Nguyễn Huỳnh Đức''
| ||
Án ngữ lối vào mộ ở phía bắc tường thành là bình phong đá ong cao 3m có đắp nổi hoa văn mai - lộc. Từ bình phong có đường thần đạo dài 17m dẩn đến phần chính của mộ gồm biểu thành, các trụ biểu, hai bình phong và bia mộ. Trên hai bình phong có khắc 2 bài văn tế Nguyễn Huỳnh Đức của Trịnh Hoài Đức và Trấn thủ Định Tường Nguyễn Văn Phong. Toàn bộ ngôi mộ được trang trí hoa văn rồng, hoa lá, mặt trời, mây, hoa sen và nhiều câu đối chữ Hán. Nổi bật trong ngôi mộ là bia đá cao 1,56m, rộng 0,95m được mang vào từ Huế. Mặt bia có dòng chử hán: ''Việt Cố Khâm Sai Gia Định Thành Tổng Trấn, Chưởng Tiền Quân, Tặng Thôi Trung Dực Vận Công Thần, Phụ Quốc Thượng Tướng Quân, Thượng Trụ Quốc, Thái Phó Nguyễn Huỳnh Quận Công Chi Mộ''. Phía sau bia là nơi chôn cất thi hài Nguyễn Huỳnh Đức với một nấm mộ phẳng dài 3,4m, rộng 2,7m, cao 0,3m. Xung quanh mộ là những cây sứ cổ thụ tỏa hương ngào ngạt tạo nên vẻ thâm nghiêm cho nơi an nghĩ của một đại thần khai quốc. Nói chung lăng mộ Nguyễn Huỳnh Đức được xây dựng theo lối kiến trúc đầu đời Nguyễn: giản dị mà hùng tráng. Cách mộ 20m về phía Nam là đền thờ Nguyễn Huỳnh Đức. Từ năm 1819 đến 1959, gia tộc thờ ông trong ngôi nhà xưa do Vua Gia Long sai người dựng cách ngôi mộ khoảng 500m. Vào năm 1959, để tiện cho việc thờ cúng, gia tộc đã xây dựng ngôi đền thờ mới này theo kiểu tứ trụ, 2 tầng mái, cửa gỗ trông ra hướng Đông. Ngay sau cửa chính đền thờ có đặt hương án chạm rồng, phụng, hoa lá sơn son thếp vàng, phía trên có bức họa truyền thần Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức được vẽ năm 1802. Phía sau hương án có bộ ván độc mộc dài 3,4m - rộng 1,8m- dày 0,14m có niên đại hơn 300 năm vốn là di vật của người đã khuất. Trong cùng là bàn thờ chính với khánh thờ đặt trên hương án và chiếc hộp sơn son đựng 8 bản chiếu, chỉ, chế, sắc của các triều Gia Long, Minh Mạng, Tự Đức phong tặng cho tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức. Bên trong đền thờ còn bố trí 3 bộ lỗ bộ, tàn lọng và 4 cặp liễn đối ca ngợi sự nghiệp của Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức do Vua Gia Long ngự ban. Ngoài ra những hiện vật cổ có niên đại thế kỷ XVIII và XIX còn được lưu giữ trong đền thờ như: đoản kỷ Vua Xiêm tặng năm 1798, Khánh lệnh đồng Vua Gia Long tặng năm 1819, bức hoành ''Vạn Lý Danh'' Vua Tự Đức tặng năm 1854. Phía sau đền thờ là ngôi chánh điện lợp ngói lưu ly xanh được gia tộc xây dựng năm 2000 theo bản vẽ của Kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng (nguyên viện trưởng Viện khảo cổ Sài Gòn). Trước đây vào năm 1972 gia tộc đã cho xây dựng 2 cổng lớn ở hai đầu con đường vòng cung dẫn vào lăng với thiết kế giống nhau theo kiểu cổng tam quan truyền thống. Trên cổng có hàng chữ Hán ''Tiền quân phủ'' và ''Lăng Nguyễn Huỳnh Đức'' bằng đồng. Nhìn từ xa, cổng lăng toát lên vẻ đường bệ, uy nghi như chào đón khách tham quan. Trong dân gian và sử sách, cuộc đời của Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức đã trở thành huyền thoại. Ông có tên thật là Huỳnh Tường Đức, sinh năm 1748 tại làng Tường Khánh- huyện Kiến Hưng (nay là xã Khánh Hậu - Thị xã Tân An) trong một gia đình võ tướng đã 3 đời. Ông theo phò Nguyễn Ánh từ năm 1780 lập nhiều công trạng lớn, được ban họ vua và giữ nhiều chức vụ quan trọng như: Chưởng Hậu Quân, Chưởng Tiền Quân, Tổng Trấn Gia Định Thành, Tổng Trấn Bắc Thành, tước Quận Công. Tương truyền ông là người trung cang, nghĩa khí, võ nghệ cao cường, mọi người đều gọi là ''Hổ tướng''. Ông mất vào ngày 9/9/1819, được dân gian xem như một vị thần. Hằng năm vào 3 ngày 7-8-9 / 9 âm lịch, nhân dân trong vùng tề tựu cùng gia tộc làm lễ cúng ông hết sức trọng thể. Truyền thống này đã được kế tục từ năm 1819 cho đến nay. | ||
Đến tham quan di tích lăng Nguyễn Huỳnh Đức chúng ta được chiêm ngưỡng nghệ thuật kiến trúc lăng mộ đầu đời Nguyễn và những cổ vật quý giá cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Ta còn được biết đến cuộc đời và sự nghiệp của một ''Hổ tướng'' lừng danh đất Ba Giồng và cũng là người có công khai phá Giồng Cai Én (Khánh Hậu), được nhân dân tôn thờ như một vị Tiền Hiền. Với những ý nghĩa ấy, ngay từ đầu thế kỷ XX, chính quyền thuộc địa đã liệt hạng lăng Nguyễn Huỳnh Đức là 1 trong 404 cổ tích ở Đông Dương. Bộ Văn hóa Thông tin nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam cũng đã ra quyết định công nhận lăng Nguyễn Huỳnh Đức là di tích Quốc gia ngày 11/5/1993 (số quyết định 534-QĐ/BT).Ly kỳ bộ phản linh thiêng hơn 300 năm tuổi 'đánh ngã' người ngồiBộ ván linh thiêng đến nỗi từ ngày ông Bá Đa Lộc té hộc máu cách đây 200 trăm năm, đến nay, không một ai dám ngồi, tựa, nằm lên nó nữa. Người dân xem nó như linh vật linh thiêng và kiêng sợ lắmĐã hơn 300 năm, bộ ván dày bằng gỗ nguyên khối được nhiều đời hậu duệ Tổng trấnthành Gia Định Nguyễn Huỳnh Đức thờ tự, xem như bảo vật linh thiêng của gia tộc. Hơn thế, kỷ vật của vị Tổng trấn được người dân xem như một linh vật ứng nghiệm trong công cuộc bảo vệ lẽ phải. Những câu chuyện, giai thoại ly kỳ về bộ ván trên ăn sâu vào văn hóa người dân địa phương, linh thiêng đến nỗi hơn 300 năm qua không một ai dám ngồi, nằm, tựa lên bộ ván bằng gỗ Gõ xưa cũ ấy.Kỷ vật của hổ tướng Trong trái tim người dân các tỉnh miền Tây, vị Tổng trấn Gia Định thành, Nguyễn Huỳnh Đức đã trở thành biểu tượng của sự thanh liêm, cương trực. Hơn thế, người dân Long An còn xem ông như một vị thần sau ngày ông tạ thế. Người dân địa phương đặc biệt ngưỡng vọng bộ ván dài, vật từng được vị hổ tướng sử dụng làm nơi nghỉ ngơi, bàn việc từ thuở hàn vi. Theo lão bà tên Sáu nhiều năm làm việc, vệ sinh tại khu lăng mộ, bộ ván trên chính là hiện thân cho sự linh thiêng của cụ Nguyễn Huỳnh Đức. Bộ ván luôn hiện hữu trong các câu chuyện, giai thoại ly kỳ đã trở thành một phần văn hóa của người dân địa phương. Bà Sáu cho biết: "Tôi quét dọn ở đây nhiều năm nên nghe và biết, thậm chí chứng kiến nhiều chuyện linh thiêng từ bộ ván của cụ (cụ Nguyễn Huỳnh Đức - PV). Nói chung, ai ở hiền thì cụ thương, ai ở ác thì cụ trách phạt. Bộ ván linh thiêng đến nỗi từ ngày ông Bá Đa Lộc té hộc máu cách đây 200 trăm năm, đến nay, không một ai dám ngồi, tựa, nằm lên nó nữa. Người dân xem nó như linh vật linh thiêng và kiêng sợ lắm". Ông Nguyễn Huỳnh Thoại, cháu đời thứ 7 của cụ Nguyễn Huỳnh Đức khẳng định: "Về sự linh thiêng của bộ ván, trước đây, tôi cũng được ông, cha kể lại. Chúng có được ghi lại trong một tài liệu nhưng thất lạc mất rồi. Tôi là phận con cháu nên không muốn phổ biến chuyện tổ tiên tránh người đời chê trách "mèo khen mèo dài đuôi" nên để cho người dân kể thì chính xác và khách quan hơn. Tuy nhiên về xuất xứ của bộ ván thì tôi được ông bà kể lại rằng chính cụ ông đã cho người lên tận vùng rừng núi Tây Ninh đốn một cây Gõ đỏ đem về. Ông cho người xẻ phần gốc cây Gõ khổng lồ trên ra làm bộ ván. Từ lúc đóng tới giờ đã hơn 300 năm nhưng bộ ván vẫn y như cũ chỉ hư hỏng phần chân và đã được tôn tạo lại". Ông cho biết, bộ ván được xem là di vật gắn bó lâu với ông nhất còn lại nguyên vẹn. Nhiều kỷ vật khác đã bị thực dân Pháp lấy đi trong những năm xâm lược. Theo đó, đây là vật vị Tổng trấn Gia Định thành dùng để nghỉ lưng sau những thời gian xông trận. Ông Thoại khẳng định, bộ ván được ông sử dụng từ thuở hàn vi và cũng là vật gắn bó suốt cuộc đời ông. Sự gắn bó đó để lại những giai thoại ly kỳ cho đến ngày ông qua đời. Nhiều người dân địa phương cho rằng, vì đây là vật ông yêu quý, gắn bó nên nó chất chứa linh hồn, tinh thần của ông. Do đó, ngoài ông, không một ai có thể leo lên đấy nằm. Đặc biệt, người có tâm địa xấu, ác, làm điều xấu trước bộ ván sẽ bị ông quở trách. Ông Thoại thông tin: "Bộ ván này dày 2 tấc, rộng 1,8 thước, dài hơn 3 thước và nặng hơn rất nhiều so với các loại sập cùng loại gỗ, cùng kích thước. Nặng đến nỗi, khi dời đền thờ ông từ miếu tôn Nguyễn Huỳnh về đền thờ này, người ta đã huy động toàn bộ người trong nhà mà không cách nào lay chuyển được nó. Cuối cùng, gia đình phải mướn nguyên một trung đội lính Sài Gòn mới khiêng nổi". Cũng từ ngày chuyển về đây, những câu chuyện lạ bắt đầu xảy ra, những giai thoại linh thiêng bắt đầu hình thành và được lưu truyền, phổ biến. Giai thoại linh vật trị điều ác Cho đến nay, những câu chuyện huyền bí, ly kỳ xung quanh bộ ván của Tổng trấn thành Gia Định đã sống cùng đời sống của người dân nơi đây. Hỏi về bộ ván linh, dân địa phương có rất nhiều câu chuyện kể về những điều linh thiêng được lưu truyền từ đời trước, thậm chí có những chuyện mà họ vừa chứng kiến vài năm trở lại đây. Ông Thoại kể: "Chuyện tôi nhớ nhất và cũng là chuyện mọi người ở đây, từ nhỏ đến già đều biết là việc tên Trần Bá Lộc bị hương hồn ông vật ngã xuống đất khi hống hách leo lên tấm phản thiêng ngồi. Ông Lộc nổi tiếng ác ôn, tàn bạo. Tiếng ác của người này ghi đầy trong sử sách. Trong một lần dẫn quân đi tuần vùng Trường Khánh, hắn ghé vào đền thờ ông. Thấy bộ ván đẹp, được thờ phụng giữa đền một cách uy nghi, hắn liền leo lên ngồi xếp bằng và cho quân lính, người hầu quỳ mọp quanh bộ ván. Đang lúc tận hưởng cảm giác làm vua, bỗng nhiên hắn ngã nhào xuống đất bất tỉnh, miệng hộc ra cả máu tươi. Từ đó, không một lần nào hắn dám đến đền nữa". Được nghe chính hậu duệ gia tộc Nguyễn Huỳnh kể lại giai thoại ly kỳ về đức Tiền quân, bà lão nhiều năm gắn bó, quét dọn lăng mộ cho biết thêm: "Đó là ông Thoại chỉ kể những chuyện được chép trong sách thôi, còn nhiều chuyện ở ngoài, ông không có kể. Ví như chuyện cụ Nguyễn Huỳnh Hữu là cháu đời thứ tư của đức Tiền quân nửa đêm ngã nhào từ trên phản xuống, rồi chạy ra sau nhà giập đầu xuống thềm đá ong vái lạy đến toác đầu". Được cái gật đầu của ông Thoại, lão bà kể: "Cách đây mấy chục năm vào ngày giỗ của đức Tiền quân, cháu đời thứ tư của ông là ông Nguyễn Huỳnh Hữu vì tiếp khách nhiều, mệt quá mới leo lên phản ngủ gục. Mọi người thấy thế lay ông dậy vì sợ ông bị quở nhưng nghĩ rằng ông là con cháu của cụ nên thôi. Ai ngờ, đang ngủ, ông Hữu cũng lăn xuống đất rồi vùng dậy chạy ra sau nhà, quỳ gối giập đầu xuống thềm đá ong, miệng lẩm bẩm điều gì không rõ. Khi người nhà lôi ông dậy thì đầu ông đã rỉ máu. Hỏi ra thì ông cho biết lúc đang mơ ngủ thì nghe tiếng trách của cụ bảo: Sao dám vô phép nằm trên phản thiêng của ta nên sợ quá mới chạy ra sau giập đầu tạ tội". Cũng theo bà này, chính mắt bà chứng kiến nhiều sự việc ly kỳ như: Cái chết bất thường và bí ẩn của một khách tham quan từ dưới Cần Thơ lên viếng lăng mộ trong dịp giỗ đức Tiền quân vào năm trước. Bà lão khẳng định: "Năm ngoái chính tôi và mọi người làm việc trong lăng chứng kiến một bà khách chết ngay trong đền thờ, trước tấm ván của cụ. Không biết bà này làm gì nhưng sau khi vái lạy đức Tiền quân xong, tự nhiên bà gục đầu vào tấm ván chết. Mọi người ai nấy đều sợ hãi, vây quanh bà vì nghĩ bà cũng như những người trong chuyện kể nhưng đúng là bà đã tắt thở. Chuyện này cách đây đúng một năm". Người dân địa phương đều khẳng định đây là chuyện thật và đưa ra nhiều lý giải. Theo đó, có thông tin cho rằng, bà này sống trong bệnh tật, ghẻ lạnh của con cháu, từ lâu đã muốn quên đời nhưng không được. Nghe đức Tiền quân linh thiêng bà mới khăn gói lên Long An viếng ngài, thỉnh cầu được theo ngài làm người hầu và được ngài chấp thuận. Ông Thoại chia sẻ: "Bộ ván rất linh thiêng, ai cũng hiểu điều đó nên hơn 300 năm nay, không một ai dám ngồi, nằm lên bộ ván này. Mỗi khi làm lễ cúng giỗ cần lau chùi, quét dọn bộ ván, chúng tôi đều phải thắp hương xin phép ông. Nhưng khi lau chùi, quét dọn, chúng tôi cũng chỉ dám khom lưng, với người lau, quét thôi chứ tuyệt nhiên không dám leo lên".
|
Huyền thoại bộ ván linh
Trong dân gian vẫn tồn tại quan niệm “sinh vi tướng, tử vi thần”. Sự “hiển thánh” của một số đối tượng thờ cúng qua những huyền thoại lưu truyền trong dân gian nhằm mục đích ca ngợi công đức của họ, cũng có khi nhằm gửi một thông điệp cho người đương thời về cách đối nhân xử thế, giữ đạo làm người. Các huyền thoại về Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức cũng không ngoại lệ.
Đức Tiền quân linh hiển
Tại đền thờ Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức, ngoài những hiện vật quý khác, bộ ván thờ đặt ở gian giữa được coi là di vật của Tiền quân để lại. Tương truyền đây là bộ ván mà ông đã cho người lên tận vùng rừng núi Tây Ninh, đốn một cây sao to đem về. Phần gốc xẻ làm bộ ván, còn phần ngọn thì dùng để làm tang trống, hiện được lưu giữ tại chùa Diêu Quang gần đó. Từ khi Tiền quân mất, bộ ván được đặt trang trọng tại chánh điện thờ ngài. Bộ ván có bề dày 2 tấc, rộng khoảng 1,8 thước, dài hơn 3 thước, được làm từ khối gỗ nguyên nên gọi là ván một, hay còn gọi là ngựa nhứt. Thông thường các bộ ván ở các gia đình Nam bộ thường sử dụng 2 hoặc 3 tấm gỗ, gọi là ván (ngựa) đôi hoặc ván ba. Trọng lượng bộ ván khá nặng, theo gia đình ông Nguyễn Huỳnh Thoại, hậu duệ đời thứ 7 của đức Tiền quân, hồi năm 1959, khi dời đền thờ ngài từ miếu tôn Nguyễn Huỳnh, tức nền nhà cũ của Tiền quân đến đền thờ hiện nay, gia đình đã phải nhờ một trung đội lính Sài Gòn khiêng mới nổi.
Theo tục lệ Nam bộ xưa, trong gian nhà chính thường bài trí đến ba bộ ván, đồng thời bộ ván còn tượng trưng cho vai vế chủ nhân trong xã hội. Chẳng hạn như nhà quan quyền thì bộ ván giữa thường dành riêng cho quan chức, bạn bè của chủ nhà. Hai bộ đặt hai bên dành cho các loại khách khác của chủ nhà. Bộ ván giữa rất quan trọng vì nó đặt ngay dưới bàn thờ tổ tiên. Nếu không phải bậc trưởng thượng, người đức cao vọng trọng hoặc chưa được chủ nhân mời, khách không dám ngồi lên. Và xung quanh bộ ván đặt ở đền thờ Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức có nhiều huyền thoại lý thú về sự linh hiển của ngài.
Năm nọ, trong một lần giỗ đức Tiền quân ngày mùng 8 tháng 9 âm lịch, quan khách các nơi đến dự rất đông. Cụ Nguyễn Huỳnh Hữu, cháu đời thứ 4 của đức Tiền quân, vì tiếp khách mệt mỏi nên phải leo lên bộ ván thờ nằm nghỉ đỡ. Ông thiếp đi một lát thì bất thình lình té xuống đất, rồi bật dậy bươn bả ra sau hiên nhà, chắp tay dập đầu liên hồi xuống thềm đá ong. Mãi đến 3 giờ sáng hôm sau người nhà mới phát hiện, thấy trán ông đầm đìa máu bèn hoảng hốt khiêng vào nhà. Khi tỉnh lại, cụ Hữu bảo: “Vì tôi mệt mỏi quá nên mới đánh liều lên bộ ván nằm nghỉ. Trong lúc mơ màng, thấy một cậu nhỏ để tóc trái đào chạy lại kéo tôi đi gặp Đức Quận công. Ngài quở tôi sao lại vô phép, dám nằm trên bộ ván. Vì vậy tôi mới dập đầu tạ tội”. Đoạn cụ Hữu sai người nhà bày hương, đăng lễ vật, nhờ các vị hương chức làng Tường Khánh đến cúng vái, xin ngài Tiền quân tha tội.
Trừng trị Tổng đốc Lộc
Trần Bá Lộc là một Việt gian khét tiếng. Khi thực dân Pháp chiếm Nam kỳ, ông ta vào lính mã tà, đến năm 1865 được thăng Tri huyện Kiến Phong, làm Chủ quận Cái Bè, nhưng quyền hành bao trùm đến vùng Cai Lậy. Nhờ có công đàn áp cuộc khởi nghĩa của Thiên Hộ Dương ở Tháp Mười, Tứ Kiệt ở Cai Lậy và Mai Xuân Thưởng ở Bình Thuận..., không bao lâu Lộc được thăng Tri phủ, Đốc phủ sứ rồi Tổng đốc.
Trong những lần dẫn quân đi đàn áp, Trần Bá Lộc ra lệnh cho bọn lính tàn sát những ai mà bọn chúng tóm được. Nhiều tư liệu cho biết Lộc từng bắt trẻ con bỏ vào cối giã gạo rồi sai lính dùng chày nện như người ta quết nem, hoặc dùng tầm vông vạt nhọn đóng vào hậu môn nạn nhân rồi đem bêu sống làm cho nạn nhân chịu sự đau đớn cùng cực trước khi trút hơi thở cuối cùng. Người xưa kể lại, Trần Bá Lộc còn nhiều lối tra khảo tàn nhẫn như lối đánh giao kèo. Nạn nhân bị lột trần truồng, nằm sấp, tay chân bị đóng cọc căng cứng. Lộc trực tiếp điều khiển cuộc tra tấn. Khi có lệnh của y tức thì có hai tên lính dùng cây nứa đập dập nện vào nạn nhân. Thịt da văng ra từng mảng một, máu me đầm đìa. Nếu nạn nhân không chịu khai báo, Lộc cho lính đổ than hồng vào vết thương.
Lần nọ, Trần Bá Lộc dẫn lính đi lùng sục vùng Tường Khánh, y ghé vào đền thờ ngài Tiền quân rồi ung dung leo lên bộ ván thờ ngồi chễm chệ. Trong lúc những người trong nhà bước ra định chào “quan lớn” thì bỗng nhiên y ngã nhào xuống đất ngất xỉu. Bọn lính hầu lật đật khiêng Lộc ra giường nằm. Một lúc sau tỉnh lại, Lộc hốt hoảng kể: “Ta đang ngồi trên bộ ván, thình lình có năm sáu người tự xưng là bộ hạ của quan Thượng Tiền quân vâng lệnh ngài bắt ta đem chém. Ta vùng vẫy chống cự nên mới té xuống đất”. Nói rồi y bảo thuộc hạ dìu ra khỏi khu vực đền thờ, không dám ngoái đầu lại nhìn.
Đình làng Tường Khánh có lệ cúng Kỳ Yên hằng năm vào ngày 14 và rằm tháng giêng âm lịch. Trong lễ cúng, ngoài việc tổ chức xây chầu, hát bội, còn có tục cúng tống Ôn hoàng dịch lệ, cầu cho dân làng mạnh khỏe mùa viêm nhiệt. Rạng ngày 16, lễ hội sắp kết thúc, ban tổ chức mời thầy pháp làm lễ Tống ôn. Người ta kết bè chuối, cắm cờ ngũ sắc cùng lễ vật để thả xuống sông, gọi là tiễn thần Ôn hoàng dịch lệ đi nơi khác.
Đoàn người làm lễ tiễn với cờ xí, trống kèn rầm rộ. Thầy pháp hóa trang mặt mày rằn ri, ngồi trên chiếc kiệu cao có đóng hai lưỡi dao hình chữ thập và hai tùy tùng hầu hai bên rất oai vệ. Lúc đoàn đi ngang qua đền thờ, bất thình lình thầy pháp từ giàn kiệu cao té nhào xuống đất, lại bị lưỡi dao cắt vào mông, bất tỉnh nhân sự. Hai gã tùy tùng cũng hoảng hốt bỏ chạy làm đám đông náo loạn. Một lúc sau, thầy pháp tỉnh lại, thuật lại với các kỳ lão trong làng rằng, lúc ông ngồi trên kiệu, khi đi ngang qua đền thờ đức Tiền quân bỗng thấy người xây xẩm, choáng váng, văng vẳng nghe có tiếng nạt rằng: “Quân bây làm gì rần rần vô phép, không cho thượng quan nghỉ ngơi”. Rồi ông ngồi không vững, té nhào xuống đất.
Từ đó về sau, mỗi lần tổ chức lễ Kỳ Yên, hương chức làng Tường Khánh quy định đám rước đi ngang qua đền thờ Đức Tiền quân thì phải yên lặng, không được khua chiêng đánh trống huyên náo như trước.
Ngọc Phan - Hoàng Phương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét