Thứ Ba, 9 tháng 10, 2018

Hậu duệ vua Lê Đại Hành và cái chết lẫm liệt trời Nam

Trần Bình Trọng để lại tấm gương sáng mãi muôn đời với câu nói đi vào sử sách, thi ca: “Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc”.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Trần Bình Trọng (1259-1285) là dòng dõi của vua Lê Đại Hành. Ông sinh ra ở xã Bảo Thái (Thanh Liêm, Hà Nam ngày nay), vợ là Thụy Bảo Công chúa, con vua Trần Thái Tông. Sau này, con gái của ông là Chiêu Từ hoàng thái hậu đã sinh ra vua Trần Minh Tông.
Một số tài liệu cho rằng ông là con trai của Lê Phụ Trần (chồng của Lý Chiêu Hoàng), nhờ có công cứu giá vua Trần Thái Tông nên được vua ban quốc tín, con cháu được mang họ Trần.
Quyết chiến chặn giặc mạnh
Sau khi chiếm Trung Quốc vào năm 1271 để lập ra nhà Nguyên, mục tiêu tiếp theo của Hốt Tất Liệt (hoàng đế nhà Nguyên) là mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam. Muốn đạt được mục đích đó, quân Nguyên buộc phải xâm lược bằng được nước ta.
Đó chính là một trong những lý do thôi thúc đội quân xâm lược điên cuồng này chuẩn bị chiến tranh bằng mọi giá, dù dư âm thất bại năm 1258 vẫn còn khiến nhiều bộ tướng của chúng khiếp vía.
Tháng 1/1285, 50 vạn quân Nguyên do Trấn Nam Vương Thoát Hoan (con trai Hốt Tất Liệt), cầm đầu chia quân làm hai cánh thủy bộ tiến vào xâm lược nước ta.
Là đạo quân rất thiện chiến, nhiều kinh nghiệm qua các cuộc chiến tranh xâm lược, giai đoạn đầu, quân Nguyên nhanh chóng chiếm ưu thế trên chiến trường.
Sau khi gặp một số tổn thất trong vài trận đánh mở màn, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn quyết định lui quân về giữ Vạn Kiếp (nay thuộc vùng Chí Linh, Hải Dương).
Hau due vua Le Dai Hanh va cai chet lam liet troi Nam
 Khi bị giặc bắt, Trần Bình Trọng đã thể hiện tinh thần yêu nước, không chịu khuất phục kẻ thù bằng câu nói đi vào lịch sử dân tộc.
Sau đó, quân ta lui về Thăng Long, nhưng cũng không cản được sức tấn công ồ ạt của giặc Nguyên. Hưng Đạo Vương lại quyết định rút khỏi Thăng Long, lui về Thiên Trường (Nam Định).
Trong hoàn cảnh khó khăn đó, Trần Bình Trọng được giao nhiệm vụ rất nặng nề: Phải giữ vùng Đà Mạc - Thiên Mạc, ngăn chặn và cầm chân quân Nguyên, đảm bảo cho bộ chỉ huy rút lui an toàn và bí mật, không để lại dấu vết.
Bên kia chiến tuyến, Thoát Hoan đặc biệt ưu tiên cho cánh quân truy đuổi này với hai đạo cả thủy lẫn bộ đều do những tướng giỏi như Lý Hoằng, Ô Mã Nhi, nhằm truy bắt hai vua Trần (Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông).
Để ngăn chặn đà truy kích của quân Nguyên, bảo vệ hai vua, Trần Bình Trọng đã tổ chức chặn đánh giặc ngay tại bãi Thiên Mạc.
Do có sự chênh lệch quá lớn về lực lượng, Trần Bình Trọng đã sử dụng lối đánh cảm tử, cầm chân địch, giúp vua Trần và bộ chỉ huy rút lui an toàn. Đây cũng là trận đánh có ý nghĩa rất quan trọng về mặt chiến lược. Kể từ đó, quân Nguyên hoàn toàn mất dấu vết bộ chỉ huy kháng chiến của quân ta.
Câu nói nổi tiếng trong lịch sử
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, sau khi bắt được Trần Bình Trọng, giặc tìm mọi cách, vừa dọa nạt, vừa dụ dỗ ông. Tuy nhiên, ông kiên quyết không khuất phục.
Khi được hỏi có muốn làm vương đất Bắc không, Trần Bình Trọng khẳng khái trả lời: "Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc”.
Đó là một trong những câu nói nổi tiếng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm, trở thành biểu tượng của tinh thần yêu nước, không khuất phục trước kẻ thù.
Không thu phục được Trần Bình Trọng, giặc Nguyên giết ông vào tháng hai Âm lịch năm 1285. Lúc đó, ông mới tròn 26 tuổi.
Nghe hung tin ông tuẫn nghĩa, triều đình vô cùng thương tiếc một dũng tướng hết lòng vì dân vì nước. Sách Cương mục chép rằng vua Trần Nhân Tông “được tin này, vật vã thương khóc”.
Sự hy sinh và đặc biệt là câu nói ngập tràn khí phách của Trần Bình Trọng đã cho thấy hoài bão lớn nhất của ông là giết giặc báo quốc. Đồng thời, nó cũng chính là khí phách của dân tộc ta với hào khí Đông A lúc bấy giờ.
Sách Đại Nam quốc sử diễn ca viết rằng: Trần Bình Trọng là tôi trung / Thà làm Nam quỷ, chẳng lòng Bắc vương.
Học giả Phan Kế Bính từng có có bài thơ khen ngợi cái chết lẫm liệt của Trần Bình Trọng: Giỏi thay Trần Bình Trọng / Dòng dõi Lê Đại Hành / Đánh giặc dư tài mạnh / Thờ vua một tiết trung / Bắc vương sống mà nhục / Nam quỷ thác cũng vinh / Cứng cỏi lòng trung nghĩa / Ngàn thu tỏ đại danh.
Theo Nguyễn Thanh Điệp/Zing New

Trần Bình Trọng có phải là con Lý Chiêu Hoàng?

(Kiến Thức) - Có tư liệu cho rằng, Trần Bình Trọng chính là con trai của danh tướng Lê Tần và vị nữ hoàng duy nhất trong sử Việt - Lý Chiêu Hoàng.
 

Trần Bình Trọng là một dũng tướng trung nghĩa triều Trần Nhân Tông, có công lớn hộ giá bảo vệ Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ hai (1285). Có tư liệu cho rằng, ông chính là con trai của danh tướng Lê Tần và vị nữ hoàng duy nhất trong lịch sử Việt Nam - Lý Chiêu Hoàng.
Lý Chiêu Hoàng - một nhân vật độc đáo
Lý Chiêu Hoàng - nữ hoàng duy nhất trong lịch sử các vương triều phong kiến Việt Nam, xuất hiện thoáng qua trên vũ đài chính trị, ở ngôi báu hơn một năm, nhưng đã trở thành nhân vật độc đáo, thành đề tài luận bàn gần 800 năm qua và còn thu hút sự quan tâm của các thế hệ người Việt mãi sau này.
Tuy nhiên, chính sử khi viết về Lý Chiêu Hoàng chỉ đề cập những dòng sơ lược, ngắn ngủi khiến hậu thế ít ai biết, cuộc đời bà có bao sự độc đáo, thú vị cùng những chi tiết về gia đình riêng rất đặc biệt.
Lý Chiêu Hoàng tên thật là Lý Phật Kim sau đổi là Lý Thiên Hinh, được sắc phong làm Chiêu Thánh công chúa, là con gái thứ hai vua Lý Huệ Tông và Hoàng hậu Trần Thị Dung.
Theo chính sử, bà chào đời tháng 9 năm Mậu Dần (1218), còn nội dung bản văn chầu sự tích về công chúa cho biết rõ hơn về ngày sinh, đó là ngày 16 qua đoạn ghi "lại còn thu cửu trăng cao/ngọc hoàng sai chúa hiện vào Lý gia”, như vậy thu cửu tức là mùa thu tháng 9, còn trăng cao là vào ngày 16 giữa tháng khi trăng tròn mọc cao và sáng nhất.
Lý Chiêu Hoàng bị truất ngôi hoàng hậu ở tuổi 19 (1237) sau 12 năm chung sống với Trần Thái Tông, trở lại với danh vị công chúa. Và hơn 20 năm sau, ở tuổi tứ tuần, bà bị chính Thái Tông gả cho Lê Tần, vị tướng có công lớn trong cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên.
 Ảnh minh họa.
Lê Tần - dòng dõi Lê Đại Hành
Lê Tần là danh tướng, mưu sĩ tài ba triều Trần Thái Tông; quê làng Bảo Thái, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Không rõ năm sinh, tổ tiên vốn dòng dõi Lê Đại Hành, cha là Lê Khâm có công giúp Trần Thừa, Trần Thủ Độ đánh dẹp nạn cát cứ của Nguyễn Nộn, mang lại ngôi báu cho họ Trần, được Trần Thái Tông phong chức Khuông việt Thượng tướng quân, tước Thượng Vị Hầu. Ông có học vấn uyên thâm, có tài văn võ, sống cương trực, được triều đình nhà Trần tin tưởng trọng dụng. Tháng 2/1250, Trần Thái Tông phong cho ông Ngự sử trung tướng, tri Tam ty tiện sự, trông coi Viện Tam ty. 
Cuối năm 1257, quân Mông - Nguyên đánh chiếm Đại Lý, áp sát biên giới, nhằm đánh chiếm Đại Việt, nhiều lần sai sứ sang dọa nạt, dụ hàng quân dân Đại Việt, nhưng đều thất bại. Ngày17/1/1258, Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy hơn 3 vạn quân, tiến đánh Đại Việt. Vua Trần Thái Tông thân chinh cầm quân, cử Lê Tần làm tướng tiên phong, dàn trận ở Bình Lệ Nguyên (Bình Xuyên, Vĩnh Phúc) chặn địch. 
Trận chiến diễn ra ác liệt, Lê Tần xông pha trận mạc, đốc thúc quân sĩ đánh địch, vừa dũng mãnh, vừa bình tĩnh trong trận chiến. Nhưng thế trận quân Trần bị lấn dần, Lê Tần biết lúc này chưa thể đối đầu trực diện với quân địch, nên cố sức can vua tạm lánh để bảo toàn lực lượng. Vua Trần nghe theo ra lệnh cho lui quân và tổ chức các đội dân binh liên tục tập kích quân địch, lệnh cho phá cầu Phủ Lỗ làm chậm bước tiến quân giặc. Quân Mông - Nguyên đuổi gấp, âm mưu cướp thuyền bắt sống vua Trần. Lê Tần chỉ huy hậu quân chặn đánh quyết liệt, giúp vua Trần và đại quân rút lui an toàn. 
TS Nguyễn Thành Hữu
s

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét