Thứ Tư, 17 tháng 10, 2018

Hoài bão của Tương Dực trước đêm xây dựng Cửu trùng đài


Hình tượng vua Lê Tương Dực
Khi nhắc đến vua Tương Dực thì nhiều người nghĩ ngay đến hình ảnh hôn quân. Thậm chí còn mượn lời sứ nhà Minh để gọi vua là Trư Vương. Nhưng nếu dựa vào những điều sử sách đã ghi một cách tin cậy thì có thể chắc Tương Dực vốn là một minh quân trước khi bị suy thoái.
Lê Oanh (tức Tương Dực đế sau này) lên ngôi khi mới 14 tuổi và điều đáng nói là cách lên ngôi rất gian truân chứ không phải ngồi yên rồi có người mang long bào khoác lên mình. Khi Lê Uy Mục mới lên ngôi nhưng không được lòng người. Để bảo vệ ngôi vị, Uy mục giết hại tông thất và năm 1509, sai bắt giam Lê Oanh vì cảm thấy Lê Oanh là mối lo sau này. Lê Oanh muốn chạy thoát ra ngoài, mới đem của cải đút lót với người cai ngục. Người cai ngục được tiền, liền thả cho ông chạy thoát. Lê Oanh một mình chạy trốn vào thành Tây Đô mà không kịp báo cho mẹ, anh em mình một tiếng. Đến khi chạy đến được cửa biển Thần Phù, Lê Oanh được đại thần thất sủng là Nguyễn Văn Lang ra đón rước, rồi được tôn lên là minh chủ.
Mới hơn 14 tuổi mà Lê Oanh dám cầm quân để đấu lại vua đương thời thì cái gan cũng không phải nhỏ. Và sau khi giành ngôi thì Tương Dực cũng là người nắm luôn thực quyền chứ không phải chịu cảnh sống khuất dưới bóng quyền thần nào. Đó là điều phi thường. Trong chiến dịch lật đổ Uy mục thì bài hịch do Lê Oanh sai Lương Đắc Bằng viết thể hiện rõ cái chí của bậc minh quân, tác động mạnh mẽ đến lòng người
Bạo chúa Lê Tuấn, phận con thứ hèn kém, làm nhơ bẩn nghiệp lớn, lần lữa mới gần 5 năm mà tội ác đã đủ muôn khoé. Giết hại người cốt nhục, dìm hãm các thần liêu. Bọn ngoại thích được tin dùng mà phường đuôi chó ngang ngược làm bậy, người cứng cỏi bị ruồng bỏ mà kẻ đầu cá ẩn nấp nẻo xa. Quan tước đã hết rồi vẫn thưởng tràn không ngớt, dân chúng đã cùng khốn còn vơ vét chẳng thôi. Vét thuế khoá từng cân lạng, tiêu tiền của như đất bùn, bạo ngược ngang với Tần Chính. Đãi bề tôi như chó ngựa, coi dân chúng tựa cỏ rác ngạo mạn quá cả Nguỵ Oanh. Huống chi lại xây cung thất to, làm vườn hoa rộng. Xua dân đi trồng cây, giẫm theo vết xe đổ chất gò Hoa Cương đời Tống; lấp biển xây cung điện, nối gót thói u mê xây cung A Phòng nhà Tần. Công trình thổ mộc xây lên rồi thay đổi, thay đổi rồi xây lên, dân Hải Dương, Kinh Bắc mệt mỏi, lao đao; tông thất xa hoa, kiêu căng lại ngang ngược, ngang ngược lại kiêu căng, cõi tứ tuyên phiên trấn xôn xao, rối loạn. Cư dân nhức óc, cả nước đau lòng”.
Nhờ bài hịch đó mà Lê Oanh đánh đâu được đó, thế như chẻ tre. Ngày 8.11.1509, khởi binh ở Tây Đô thì đến cuối tháng đã kéo quân đến Thăng Long. Ngày 1.12, Uy Mục cùng kế tự vẫn. Ngày 4.12, Lê Oanh lên ngôi vua. Mọi thứ thay đổi chóng mặt và nếu không có bài hịch mà Lương Đắc Bằng viết thì có lẽ Lê Oanh không thể dễ dàng thay đổi triều đại một cách nhanh chóng như thế. Bài hịch đã đánh đúng tâm lý của người dân đương thời khi đó khi bất bình với việc triều đình Uy Mục xây lắm cung điện, đốt tiền của dân, nặng nề thuế khóa, lao dịch...
Thế nên quân của Uy Mục khi thấy có biến thì chẳng đánh tự tan, dân chúng lại càng không ủng hộ. Đến ngay cả tù nhân cũng chán với chế độ hà khắc của Uy mục nên khi được thả ra cũng quay lưng. Sử còn chép chuyện Uy Mục lấy vàng bạc tiền của ban cho bọn tội nhân bị giam ở ty Ngũ hình mỗi người 3 quan, rồi sai đi đánh quân Lê Oanh. Tù nhân nhận được tiền, không những không đi đánh mà người nào người nấy đều bỏ về nhà.
Tương Dực đế lên ngôi khi đó đúng là đáp ứng được nhân tâm đang chán ghét Uy Mục. Bản thân Tương Dực ngày đầu lên ngôi cũng ôm ấp hoài bão làm một minh quân, quyết tâm chỉnh đốn tệ nạn thời cũ. Cái chí đó thể hiện rõ trong việc ban sách Trị bình bảo phạm vào năm 1511 cho cả nước.
Sách dụ các quan văn võ và dân chúng rằng: Nghĩ trời thương dân chúng, tất lập vua lập thầy; vua vâng mệnh trời, phải lo nuôi dạy trước. Thế là để lòng người hoà hợp, của dân dồi dào, đưa nước nhà đến cõi thịnh trị bình yên lâu dài. Xưa Nghiêu, Thuấn được hạnh phúc yên vui, vốn gốc ở trọng Ngũ điển, vui Cửu tự; Thang, Vũ đến thái bình thịnh trị, do nền ở ban Ngũ giáo, dùng Bát chính. Xem vậy, các bậc thánh đế minh vương thay trời trị nước, có bao giờ bỏ qua việc nuôi dạy mà trở nên thịnh trị được đâu. Cao Thái Tổ Hoàng Đế khai sáng cơ nghiệp, truyền lại kỷ cương, dựng lập nhà học, khuyến khích nông tang, để vỗ yên bốn phương; Thái Tông Văn Hoàng Đế nối theo chí trước, noi việc người xưa, coi trọng giáo hoá, chăm nuôi muôn dân để yên hoà muôn nước; Thánh Tông Thuần Hoàng Đế kính nối mưu trước, làm hết luân thường, hoàn thiện chế độ, ban Đại cáo để bồi đắp gốc nền cho phong hoá, Hiến Tông Duệ Hoàng Đế tỏ rạng công trước, sáng suốt yên vui, ban lời dạy để khuyến khích thói hay tục tốt, lớp lớp yên hoà, đức hoá xa rộng, hiệu quả trị bình, đến đây là thịnh hơn cả. Đến đời Đoan Khánh [1505 - 1508], hoạn quan can thiệp vào chính sự, ngoại thích chuyên quyền, pháp luật phiền hà, kỷ cương rối loạn, nông tang mất nghiệp, phong tục suy đồi, thực rất thương tâm. Trẫm nghĩ công tổ tông gây dựng gian nan, thương ức triệu dân cuộc đời đau khổ, vì tông miếu, xã tắc và sinh dân, đã đại cử nghĩa bình, dẹp yên bốn bể. Khi mới lên ngôi, ban hành giáo hoá, thận trọng hình phạt để phòng giữ lòng người; thi hành chính lệnh, ban ra nhân huệ để đón nối mệnh trời. Những muốn cho điển chương chế độ hết thảy đổi mới, bèn chọn lấy những điều có quan hệ đến chính trị, phong tục, biên tập thành sách Trị bình bảo phạm để ban hành trong nước. Từ quan đến dân các ngươi, phải thể theo lòng trẫm, học lấy mà làm, để cùng đạt đến thịnh trị, để hưởng phúc thái bình muôn đời, để giữ vững cơ đồ mãi mãi. Các điều dạy bảo kê ra như sau:
1- Bề tôi thờ vua, đều phải giữ lòng trung lương, kính ẩn lo giữ chức vụ, vì nước quên nhà, lo việc công, quên việc tư, cùng nhau cung kính hoà hiệp, nói thẳng, can gián đến cùng, không được a dua phụ hoạ, mong được yên thân, ăn hại bổng lộc, cầu may giữ chức, tâu xin việc riêng, bán quan tước, buôn ngục hình, đến nỗi làm phương hại tới đạo trị nước. Kẻ nào vi phạm sẽ bị tội nặng.
2- Những tông thất công thần từ trong cung cấm đến ngoài thế gia, cùng vui buồn với nước, phải thể theo lòng yêu nuôi sinh dân của triều đình. Ruộng đất, chằm ao, bãi dâu được ban cấp theo như lệ đã định rõ, đợi khi khám xong, ban cấp cho và dựng mốc ranh giới rồi mới được cày cấy. Nếu chưa qua khám thực, chưa dựng cột mốc, thì không được cướp đoạt mà thu thóc lúa. Không được dung nạp kẻ gian ra vào, ức hiếp, lấy lạm ruộng đất của dân, để cho dân mọn bị thất nghiệp. Phải dạy dỗ con cháu, răn bảo nô tỳ cho chúng hiểu biết lễ phép, không được cậy thế kiêu ngạo, đánh đập dân mọn, không được phép phóng ngựa ngoài đường phố, làm thương tổn mạng người, không được chắn ngang đường sá, cướp bóc của dân. Kẻ nào vi phạm, thì cho người bị hại cùng người trông thấy tố cáo lên quan khoa, đài, hiến ty và phủ, huyện, châu, để làm bản tâu lên giao cho Hình bộ trị tội. Nếu quan khoa đài, hiến ty và phủ, huyện, châu sợ hãi, né tránh kẻ quyền thế, không chịu xét hỏi thì cho người ấy đến cửa khuyết tâu lên, bọn quan khoa, đài, hiến ty đó đều nhất loạt bị trị tội.
3- Quan các nha môn trong ngoài phải nghiêm khắc sửa mình, kính cẩn siêng năng làm chức phận của mình, không được bừa bãi theo dục vọng riêng, say đắm tửu sắc, sai khiến bậy người dưới quyền, dắt mối gái điếm, nàng hầu, yêu sách cỗ bàn, liên miên chè chén, đến nỗi lười nhác bỏ cả việc công, làm hư hại tới phong hoá. Ai vi phạm sẽ bị trị tội theo pháp luật.
4- Lại bộ phải kính giữ công bằng, cân nhắc bổ dùng người, phải thận trọng dè dặt khi trao quan
tước, giữ trong sạch quan trường. Nếu có dẫn người tuyển dụng thì mỗi lần 40 người, Lại bộ phải tư trước cho các nha môn, đoan khai họ tên những người đáng được thuyên bổ, rồi cùng với quan khoa, đài hiệp đồng dẫn tuyển, làm bản tâu lên, đợi nhận được sắc chỉ thì bổ dụng. Người nào lâu năm và trúng trường nhiều thì bổ trước, người nào ít năm và trúng trường ít thì bổ sau, người nào có quân công thì theo như lệnh thưởng công đời Hồng Đức mà thuyên bổ. Người ốm yếu hèn kém thì bổ chức tản quan, tạp lưu. Ai dám hối lộ và riêng tư, tuyển bổ không có thứ tự, thì cho quan đô, đài kiểm xét tâu lên, theo luật trị tội. Quan đô, đài không biết kiểm xét tâu lên cũng bị nhất loạt trị tội.
5- Giám sinh, nho sinh, sinh đồ cứ đến ngày mồng 1, ngày rằm hàng tháng đều phải mặc mũ áo
đến điểm mục theo phép đã định. Phải tuân theo học quy, luyện tập văn bài, đợi khi thành tài để nhà nước sử dụng. Người nào dám chạy chọt cầu may, rong chơi ngoài đường, bỏ trễ việc học, thiếu 1 lần điểm mục thì phạt 140 tờ giấy trung chỉ, thiếu 2 lần thì phạt 200 tờ giấy trung chỉ, thiếu 3 lần thì đánh 40 roi, thiếu điểm mục 4 lần thì kiểm xét tâu lên giao cho Hình bộ xét hỏi, thiếu điểm mục 1 năm thì tâu lên bắt sung quân.
6- Trong kỳ thi Hương, các quan đề điệu, giám thí, giám khảo, khảo thí, tuần xước, và các xã trưởng phải thể theo đức ý của triều đình, phải giữ công tâm, mong lựa chọn được người có thực tài cho nhà nước sử dụng. Xã trưởng làm sổ khai nhận cho học trò, cốt được kẻ có thực học, không hạn chế số người nhiều hay ít, nộp lên quan huyện, châu bản hạt, cho thi một kỳ ám tả, rồi quan phủ cho thi ba đạo kinh nghĩa, quan thừa hiến hiệp đồng khảo thí như lệ. Thi xong, ngay hôm đó, kê khai hạng trúng tam trường là bao nhiêu người, hạng trúng tứ trường là bao nhiêu người, lập thành danh sách, rồi cùng với quan khảo thí ký tên vào để đề phòng gian trá. Hạn trong 3 ngày, các quan đề điệu, giám thí phải làm bản tâu lên, giao cho Hiến ty sát hạch. Ai dám riêng tư xoay tiền, mua ơn trả oán, nghe theo kẻ quyền thế mà lựa chọn không đúng người hoặc nộp bản tâu chậm trễ thì cho quan khoa, đài tâu lên để trị tội.
7- Đời Đoan Khánh, có nhiều kẻ gian phi ra vào nhà bọn ác đảng ở các làng Phù Chẩn, Hoa Lăng, có kẻ giả xưng là họ hàng của bọn ấy, có kẻ đi tìm mua tờ thiếp, để xâm chiếm ruộng đất của dân, cướp đoạt tiền tài của dân, đánh đập dân lương thiện, trêu ghẹo đàn bà con gái, cũng có kẻ chứa chấp bọn gian phi để chúng chia của cho mình, cậy thế lấn hiếp, gây hại ngày một quá. Nay bọn ác đảng tuy đã bị giết, nhưng bọn gian phi nói trên có kẻ nào vẫn theo thói cũ, ngang ngược hung bạo, quấy nhiễu dân mọn thì cho người bị hại và các phường, xã, thôn trưởng áp giải bản thân nó đến cáo giác với quan thừa, hiến, phủ, huyện, châu né sợ không chịu xét hỏi, thì cho người bị hại đến cửa khuyết tâu lên, nhất loạt giao cho Hình bộ trị tội cả.
Tương Dực đế đã vượt qua những thời khắc khó khăn nhất, đã nhìn thấy những sai lầm từ Uy mục, có những biểu hiện phong thái của một bậc minh quân. Thế nhưng, rốt cuộc sau 8 năm trị vì lại có kết cục thê thảm mà không thể trở thành Thánh Tông phiên bản 2 của nhà Lê.
Anh Tú

Cái kết buồn đau của người xây Cửu Trùng đài xa hoa giữa lúc dân sống khổ

Hình tượng Cửu trùng đài
Trong những ngày qua, dư luận đang xôn xao xung quanh việc xây dựng nhà hát ước tính 1.500 tỉ tại Thủ Thiêm. Chưa biết nhà hát có được xây dựng giữa những luồng dư luận trái chiều hay không nhưng giả sử nếu hoàn thành thì nên chăng diễn vở kịch Vũ Như Tô ở đó?
Vũ Như Tô là vở kịch 5 hồi nổi tiếng do nhà văn Nguyễn Huy Tưởng viết năm 1941. Đây có thể coi là vở kịch kinh điển trong lịch sử sân khấu nước ta, đáng được diễn ở những nơi trang trọng nhất. Nội dung vở kịch này có lẽ nhiều người biết cả và cũng được từng trích trong SGK như sau:
Vũ Như Tô, một kiến trúc sư thiên tài, bị hôn quân Lê Tương Dực bắt xây dựng Cửu Trùng Đài để làm nơi hưởng lạc, vui chơi với các cung nữ. Vốn là một nghệ sĩ chân chính, gắn bó với nhân dân, cho nên mặc dù bị Lê Tương Dực doạ giết, Vũ Như Tô vẫn ngang nhiên chửi mắng tên hôn quân và kiên quyết từ chối xây Cửu Trùng Đài – (hồi I).
Đan Thiềm, một cung nữ đã thuyết phục Vũ Như Tô chấp nhận yêu cầu của Lê Tương Dực, lợi dụng quyền thế và tiền bạc của hắn, trổ hết tài năng để xây dựng cho đất nước một toà lâu đài vĩ đại “bền như trăng sao”, có thể “tranh tinh xảo với hoá công” để cho dân ta nghìn thu còn hãnh diện. Theo lời khuyên, Vũ Như Tô đã thay đổi thái độ, chấp nhận xây Cửu Trùng Đài. Từ đó, ông dồn hết tâm trí và bằng mọi giá xây dựng toà đài sao cho thật hùng vĩ, tráng lệ.
Ông đã vô tình gây biết bao tai hoạ cho nhân dân: Để xây dựng Cửu Trùng Đài, triều đình ra lệnh tăng thêm sưu thuế, bắt thêm thợ giỏi, tróc nã, hành hạ những người chống đối. Dân căm phẫn vua làm cho dân cùng, nước kiệt; thợ oán Vũ Như Tô bởi nhiều người chết vì tai nạn, vì ông cho chém những kẻ chạy trốn. Công cuộc xây dựng càng gần kề thành công thì mâu thuẫn giữa tập đoàn thống trị sống xa hoa, truỵ lạc với tầng lớp nhân dân nghèo khổ, giữa Vũ Như Tô với những người thợ lành nghề và người dân lao động mà ông hằng yêu mến càng căng thẳng, gay gắt (hồi II, III, IV). Lợi dụng tình hình rối ren và mâu thuẫn ấy, Quận công Trịnh Duy Sản – kẻ cầm đầu phe đối lập trong triều đình – đã dấy binh nổi loạn, lôi kéo thợ làm phản, giết Lê Tương Dực, Vũ Như Tô, Đan Thiềm. Cửu Trùng Đài bị chính những người thợ nổi loạn đập phá, thiêu huỷ.
Nhân vật Vũ Như Tô không phải hư cấu và sự kiện xây Cửu trùng đài cũng được ghi trong lịch sử. Vũ Như Tô (1476-1517) là một người thợ xây dựng tài ba thời Lê. Ông được cho là tác giả phác thảo kiến trúc của Cửu Trùng Đài và cung điện trăm nóc, một công trình kiến trúc cực kỳ tráng lệ trong Hoàng Thành Thăng Long, được mô tả là "tuy chưa hoàn thành mà bóng rợp nửa hồ Tây. Chỉ khác so với kịch là trong sử không ghi chép gì đến thái độ chống đối ban đầu của Vũ Như Tô mà chỉ nêu vai trò chủ đạo của Vũ Như Tô trong việc thiết kế và thi công Cửu trùng đài cũng như xây cung điện.
Khâm Định Việt sử thông giám cương mục chép "Trước đây, Vũ Như Tô một người thợ ở Cẩm Giàng, xếp cây mía làm thành kiểu mẫu cung điện lớn trăm nóc, dâng lên nhà vua; nhà vua bằng lòng phong cho Như Tô làm đô đốc đứng trông nom việc dựng hơn trăm nóc cung điện lớn có gác, lại khởi công làm Cửu trùng đài".
Nhưng dù Tô miễn cưỡng hay hào hứng xây công trình thì cũng đẩy người dân thời đó vào cảnh khổ thêm khổ. Đại Việt sử ký toàn thư bình luận: "Người thợ Vũ Như Tô làm điện lớn hơn trăm nóc, dùng hết tiền của và sức dân trong nước" và mô tả "Dân chúng đau khổ, binh lính mệt nhọc. Quân năm phủ đắp thành chưa xong được, đến đây lại có lệnh bắt các nha môn ở trong ngoài kinh thành phải làm, tập hợp nhau lấy hồ, khiêng đất. Vua hàng ngày bất thần ngự chơi các nơi, chỗ nào vừa ý thì thưởng cho bài vàng, bài bạc. Có chỗ đã làm xong lại phải làm lại, sửa đổi xây đắp lại, hết năm này qua năm khác, liên miên không dứt. Quân lính đắp thành mắc chứng dịch lệ đến một phần mười".
Binh lính và dân chúng đói khổ, các đại thần cũng nhiều người bất mãn. Nhân cơ hội, Trịnh Duy Sản giả mượn tiếng đi đánh giặc, mờ sáng ngày 7.4 âm lịch năm 1516, đem binh vào cửa Bắc Thần giết vua Tương Dực. Lúc đó, Nguyễn Hoằng Dụ đóng quân ở Bồ Đề, được tin Duy Sản giết vua, liền đem quân qua sông, đốt hết phố xá trong kinh thành. Điện, đài đều thành tro.
Vua Tương Dực cũng là vua giỏi nên mới từ chỗ lao tù để lật ngược thế cờ, phá bỏ ách thống trị của Uy mục đế bạo ngược. Nhưng đến khi lên ngôi thì chính Tương Dực lại mắc phải sai lầm của Uy Mục khi sống xa hoa, đẩy dân chúng vào thế khốn cùng. Sử chép bối cảnh khi đó tuy ngắn nhưng lại rất đắt qua 2 dòng:
Hạn hán; dân bị nạn đói to.
Khởi công dựng đại điện và cửu trùng đài
Việc xây Cửu trùng đài nếu trong lúc nước giàu dân mạnh thì không nói làm chi nhưng dân chúng đang khổ sau cái nạn Uy Mục mà lại phải khổ tiếp vì chuyện thổ mộc thì chẳng khác gì người chưa ốm dậy lại bắt đi gánh nước, không dùng đòn gánh chống lại thì cũng ngã quỵ mất. Chỉ vì Tương Dực không hiểu điều đó nên chịu kết cục đau thương.
Và đáng thương cho cả Vũ Như Tô trong vụ dân binh nổi loạn. Cương mục chép: “Nguyễn Hoằng Dụ đóng quân ở Bồ Đề, được tin Duy Sản bạo nghịch giết vua, liền đem quân qua sông, đốt hết phố xá trong kinh thành, chém Vũ Như Tô ở ngoài cửa thành. Lúc ấy Như Tô đương coi làm mấy nóc nhà đại điện chưa xong thì bị giết, mọi người đều chỉ trích chê cười, có người nhổ nước bọt vào thây của hắn”.

Kết cục vở kịch Vũ Như Tô

Lớp V
Vũ Như Tô - Đan Thiềm
ĐAN THIỀM - Ông Cả! Ông chạy đi! Ông có nghe tiếng gì không? Quân giặc đang tìm ông đấy, trốn đi!
VŨ NHƯ TÔ - Họ tìm tôi, nhưng có lý gì họ giết tôi. Tôi có gây oán gây thù gì với ai?
ĐAN THIỀM - Ông đừng mơ mộng nữa. Dân chúng nông nổi, dễ sinh tàn ác. Họ không hiểu công việc của ông. Tránh đi! Trốn đi! Đợi thời là thượng sách. Đừng để phí tài trời. Trốn đi!
VŨ NHƯ TÔ - Còn bà?
ĐAN THIỀM - Tôi ở đây. (Có tiếng quân reo dữ dội: Giết chết Vũ Như Tô, giết chết lũ cung nữ).
VŨ NHƯ TÔ, thản nhiên - Bà ở đây. Vậy tôi cũng ở đây, nguy biến ta cùng chịu.
ĐAN THIỀM - Không được! Tôi chết đi không thiệt hại cho đời. Còn ông, ông phải đi mới được. (Có tiếng nhà đổ, tiếng cửa đổ). Ông đi đi không thì không kịp (nàng chắp tay lạy). Tôi xin ông, ông nghe tôi trốn đi.
Có tiếng giày dép nhốn nháo. Bọn cung nữ hốt hoảng đi vào.
Lớp VI
Những người trên - Kim Phượng - Cung nữ
KIM PHƯỢNG , khóc lóc - Làm thế nào bây giờ? Cửa điện bị chúng phá rồi! Chúng đứng đầy ngoài sân (hỏi Đan Thiềm). Đây có cửa ra đằng sau không?
ĐAN THIỀM - Đến đây là đường cùng rồi! Đây là tử địa!
Cung nữ - Trời ơi!
ĐAN THIỀM, bảo Vũ Như Tô - Ông Cả ơi! Có trốn cũng không được nữa. Ông nguy mất (nàng khóc).
Quân khởi loạn kéo vào, gươm giáo sáng lòe.
Lớp VII
Những người trên.
Thêm Ngô Hạch và quân khởi loạn
Quân khởi loạn - Đây rồi! Vũ Như Tô! Lũ cung nữ!
NGÔ HẠCH - Quân bay, vào bắt lũ cung nữ trước.
Cung nữ, quỳ xuống - Trăm lạy tướng quân, trăm lạy tướng quân.
NGÔ HẠCH - Ta vâng tướng lệnh vào bắt các ngươi.
KIM PHƯỢNG , quỳ xuống - Chị em chúng tôi không có tội gì. Xin tướng quân sinh phúc. (Đan Thiềm bĩu môi thở dài). Kẻ hay xúc xiểm vua là ả kia (chỉ Đan Thiềm). Chính nó mê hoặc vua. Chính nó dan díu với Vũ Như Tô, làm uế tạp nơi cung cấm, chính nó là thủ phạm.
Cung nữ - Chính nó là thủ phạm.
ĐAN THIỀM - Lũ yêu quái không được đặt để nên nhời, tướng quân nên thấu cho. Tôi không sợ chết, nguyện xin được chết. Nhưng tôi không phải là con người bất chính, tôi nói thế không hổ với quỷ thần hai vai, không hổ với thanh thiên bạch nhật.
Cung nữ - Chính con Đan Thiềm là thủ phạm. (Nhìn lẳng lơ, bọn quân sĩ như bị quyến rũ).
NGÔ HẠCH - Ta đã biết! Quân bay vào bắt lấy gian phu dâm phụ.
ĐAN THIỀM - Tướng quân không nên nói thế.
VŨ NHƯ TÔ - Giết thì cứ giết, nhưng đừng nghi oan.
ĐAN THIỀM - Tướng quân nghe tôi. Bao nhiêu tội tôi xin chịu hết. Nhưng xin tướng quân tha cho ông Cả. Ông ấy là một người tài...
Quân khởi loạn, cười ầm - Thế mà còn mở mồm cãi. Mày chết để chồng mày sống à.
ĐAN THIỀM - Các ngươi chỉ nghĩ những điều quá quắt.
Quân khởi loạn - Chúng ông chỉ có thế, con đĩ già câm miệng.
NGÔ HẠCH - Trói cổ nó lại.
ĐAN THIỀM, quỳ xuống - Tướng quân tha cho ông Cả. Nước ta còn cần nhiều thợ tài để tô điểm.
NGÔ HẠCH, cười ha hả - Cần thợ tài để tô điểm. Để hao hụt công khố, để dân gian lầm than.
VŨ NHƯ TÔ - Đan Thiềm, bà đứng dậy. Sao bà lẩn thẩn thế, lạy cả một đứa tiểu nhân?
ĐAN THIỀM, đứng dậy - Tướng quân hãy nghe tôi, đừng phạm vào tội ác. Đừng giết ông Cả. Kẻo tướng quân mang hận về muôn đời! Tha cho ông Cả. Tôi xin chịu chết.
NGÔ HẠCH, truyền - Trói cổ con đĩ già lại.
ĐAN THIỀM - Tướng quân tha...
Quân khởi loạn, xúm vào trói nàng - Đừng nói nữa vô ích, con dâm phụ.
ĐAN THIỀM - ... Tha cho ông Cả.
NGÔ HẠCH, thấy Như Tô chạy lại - Trói thằng Vũ Như Tô lại. (Quân sĩ xông vào trói chàng có vẻ đắc ý).
ĐAN THIỀM, thất vọng - Chỉ tại ông không nghe tôi, dùng dằng mãi. Bây giờ... (nói với Ngô Hạch) Xin tướng quân...
NGÔ HẠCH - Dẫn nó đi, không cho nó nói nhảm nữa, rờm tai. (Quân sĩ dẫn nàng ra).
ĐAN THIỀM - Ông Cả! Đài lớn tan tành! Ông Cả ơi! Xin cùng ông vĩnh biệt. (Họ kéo nàng ra tàn nhẫn).
Lớp VIII
Những người trên, trừ Đan Thiềm
VŨ NHƯ TÔ - Xin đa tạ tấm lòng tri kỷ. Đan Thiềm, xin cùng bà vĩnh biệt. (Buồn rầu, trấn tĩnh ngay). Đời ta chưa tận, mệnh ta chưa cùng. Ta sẽ xây một đài vĩ đại để tạ lòng tri kỷ.
NGÔ HẠCH, chỉ bọn cung nữ bảo mấy tên quân - Dẫn họ về dinh ta đợi lệnh.
Mấy tên quân - Xin vâng lệnh (dẫn cung nữ ra).
VŨ NHƯ TÔ, khinh bỉ - Mi thực là một tên bỉ ổi. Sao trời lại để cho mi sống làm nhục cương thường!
NGÔ HẠCH - Dẫn thằng này về trình chủ tướng.
VŨ NHƯ TÔ, đầy hy vọng - Dẫn ta ra mắt An Hòa hầu, để ta phân trần, để ta giảng giải, cho người đời biết rõ nguyện vọng của ta. Ta tội gì. Không, ta chỉ có một hoài bão là tô điểm đất nước, đem hết tài ra xây cho nòi giống một tòa đài hoa lệ, thách cả những công trình sau trước, tranh tinh xảo với Hóa công. Vậy thì ta có tội gì? Ta xây Cửu trùng đài có phải đâu để hại nước? Không, không, Nguyễn Hoàng Du sẽ biết cho ta, ta không có tội và chủ tướng các người sẽ cởi trói cho ta để ta xây nốt Cửu trùng đài, dựng một kỳ công muôn thuở...
Quân sĩ, cười ầm - Câm ngay đi. Quân điên rồ, câm ngay đi không chúng ông vả vỡ miệng bây giờ. Mày không biết mấy nghìn người chết vì Cửu trùng đài, mẹ mất con, vợ mất chồng vì mày đó ư? Người ta oán mày hơn oán quỷ. Câm ngay đi.
VŨ NHƯ TÔ - ... Vài năm nữa, đài Cửu trùng hoàn thành, cao cả, huy hoàng, giữa cõi trần lao lực, có một cảnh Bồng lai...
Quân sĩ - Câm mồm!
VŨ NHƯ TÔ - ... xuất hiện...
Quân sĩ - Câm mồm! (Họ xúm vào vả miệng Vũ Như Tô).
VŨ NHƯ TÔ - Ta có thù oán gì với các ngươi?
NGÔ HẠCH - Dẫn nó ra pháp trường. Không để nó nói nhảm trước mặt chủ tướng mất thì giờ.
Quân sĩ - Ra pháp trường!
VŨ NHƯ TÔ - Không, dẫn ta ra mắt chủ tướng. Ta muốn nói chuyện với An Hòa hầu. Các người không hiểu được ta. (Có tiếng ầm ầm như long trời lở đất).
Mọi người - Cái chi nghe kinh người?
Một lũ quân vào.
Lớp IX
Những người trên. Thêm một lũ quân
NGÔ HẠCH - Chúng bay đi đâu?
Lũ quân - Bẩm tướng quân! Kinh thành phát hỏa!
NGÔ HẠCH - Ai ra lệnh ấy?
Một tên quân - Chính An Hòa hầu!
VŨ NHƯ TÔ - Chính An Hòa hầu! Thế Cửu trùng đài?
Lũ quân - Cửu trùng đài ư? Dã tràng xe cát! Cửu trùng đài sắp là một đống tro tàn!
VŨ NHƯ TÔ - Vô lý! Vô lý!
NGÔ HẠCH - Rõ quân ngu muội! Đến đầu mày chả chắc, nói chi đến Cửu trùng đài mà còn tin tưởng.
VŨ NHƯ TÔ - Đời ta không quý bằng Cửu trùng đài.
Quân sĩ - Giống vật không biết nhục.
NGÔ HẠCH - Dẫn nó đi. (Chợt có ánh lửa, sáng rực cả tàn than, bụi khói bay vào).
VŨ NHƯ TÔ, nhìn ra, rú lên - Đốt thực rồi! Đốt thực rồi! Ôi đảng ác! Ôi muôn phần căm giận! Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gì? Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu trùng đài! (Có tiếng hô vui vẻ: “Cửu trùng đài đã cháy!”).
Quân sĩ - Thực đáng ăn mừng.
VŨ NHƯ TÔ, chua chát - Thôi thế là hết. Dẫn ta đến pháp trường!
trích Vũ Như Tô (Nguyễn Huy Tưởng)
Anh Tú

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét