Thứ Ba, 11 tháng 1, 2011

Nét đẹp chùa Keo

Chùa Keo nằm ở xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình là ngôi chùa có quy mô lớn và có giá trị cao về nghệ thuật kiến trúc. Chùa Keo nằm trong ven đê nhìn ra dòng sông Hồng đoạn uốn cong lượn, thuộc thế “Trạch đắc long xà địa khả cư”.



Gác chuông chùa Keo
Trước chùa là một bãi rộng có nhiều cây cổ thụ xum xuê, trước đây ngày thường họp chợ còn ngày hội làm chỗ rước sách và vui chơi. Hiện tượng có chợ trước chùa là một hình thức chung trong bố cục kiến trúc tôn giáo của nhiều cư dân Đông Nam Á. Đầu bãi chùa Keo có bệ dựng cột cờ vào ngày hội. Ngày hội lá cờ lại bay cao cả vùng trông thấy, là tụ điểm của những dòng người trẩy hội nô nức. Sau bãi là Nội tự, phía trước và hai bên có hồ rộng tạo cho chùa có một ôn độ mát mẻ. Trên bờ hồ là một vườn cây tạo nên tầng sinh thái xanh tươi, tôn nổi những mái chùa cổ kính bên trong mà không che lấp nét đẹp kiến trúc.
Có thể nói công trình kiến trúc chùa Keo đã kế thừa và khai thác triệt để phong cách kiến trúc cổ truyền Việt Nam: Kết hợp hài hòa giữa kiến trúc với thiên nhiên, cân đối cả ở mặt bằng và chiều cao. Tam quan ngoại và Tam quan nội cách nhau một cái hồ rộng. Từ Tam quan nội đến khu thờ Phật cách nhau một cái sân cỏ vừa phải như một tấm thảm xanh. Sau nhà Thượng điện cách khoảng sân hẹp là Giá roi. Giá roi giáp kề với Bái đường làm cho khu thờ Thánh lớn hơn khu thờ Phật. Sau Hậu Cung qua một lạch sân rất hẹp là tới gác chuông được xem như nhà cuối cùng.

Bên cạnh đó bố cục về chiều cao cũng hết sức đặc sắc. Qua sân cỏ lên sân đá, rồi lên Tam quan ngoại, sau đó mặt bằng hạ thấp bằng cốt số 0. Từ sân bước lên chùa Hộ, rồi chùa Tam Bảo, đến sân sau khu Phật mặt bằng lại bằng cốt số 0. Khu vực đền Thánh cũng được xử lý độ cao như vậy, chiều cao được khống chế bằng một dải sân rộng chạy ngang từ hành lang bên trái sang hành lang bên phải. Sự bố trí độ cao đó dụng ý muốn chia công trình thành hai khu Tiền – Hậu rõ rệt mà không tách rời toàn cảnh công trình. Nhờ cách bố cục đó khách tham quan có thể đứng từ những góc độ khác nhau trong sân mà vẫn quan sát được toàn cảnh kiến trúc chùa Keo. Việc tôn tạo cảnh bằng cây xanh cũng góp phần làm tăng thêm vẻ đẹp của di tích. Chùa Keo vừa là chùa (thờ Phật), vừa là đền (thờ Thánh) nên trước chùa người xưa trồng đa, trồng đề. Mặt khác chùa còn hấp dẫn với bộ cánh cửa Tam quan nội “điển hình cho nghệ thuật điêu khắc thời Lê”.
Chùa Keo được xây dựng theo kiến trúc “nội Công, ngoại Quốc”. Trừ nền gạch, toàn bộ kiến trúc chùa Keo không hề xây tường, tất cả đều là gỗ lim được ghép với nhau bằng các mộng gỗ không dùng đinh hay kim loại. Nguyên tắc bố cục kiến trúc ở đây là sự đăng đối giữa hai bên trục kiến trúc xuyên tâm từ cột cờ đến giữa gác chuông, do đó gây ấn tượng về sự tôn nghiêm, trang trọng và bề thế.
Kiến trúc độc đáo nhất của khu di tích là gác chuông, dựng trên nền cao 60cm vươn lên 11,5m, thuộc loại gác chuông cao nhất của nước ta vào thế kỷ XVII – XVIII. Tòa nhà này có kiến trúc ba tầng 12 mái, như một bông sen khổng lồ: tầng 1 treo khánh đá, tầng 2 treo chuông lớn đúc năm 1698, tầng 3 treo chuông vừa, xép nhỏ phía trên treo chuông nhỏ đúc năm 1796. Toàn bộ trọng lượng của gác chuông đều truyền xuống 4 cái cột. Dưới hệ thống mái của hai tầng trên là những dàn “con sơn” nhô ra như đầu voi trên cơ sở hệ thống đấu ba chạc. Hệ thống “con sơn” ở nước ta có từ thời Lý và được nâng lên một tầm cao mới tại chùa Keo Thái Bình, đồng thời nó mang trong mình một góc của giá trị tâm linh.
Thành công lớn nhất của mỹ thuật kiến trúc gác chuông chùa Keo là tỷ lệ giữa các tầng kiến trúc rất cân đối. Sự phối cảnh mang dáng vẻ tự nhiên cũng làm tôn thêm nét duyên dáng của gác chuông. Đó là hàng cau bên cạnh, lá cau cuộn lấy tầu đao tạo vẻ hiền dịu ấm áp của cảnh sắc một vùng nông thôn Việt Nam. Ta có thể dễ dàng nhận thấy sự khác biệt của chùa Keo so với các chùa chiền cổ ở Việt Nam. Đó là việc gác chuông được xây dựng ở vị trí cuối của khu di tích. Chính sự sáng tạo ấy làm tăng vẻ duyên dáng cho gác chuông, đồng thời nâng cao giá trị nghệ thuật của toàn bộ khu kiến trúc chùa Keo.


(Theo Dulich)

Chùa Keo - huyền thoại văn hóa Việt
VIT - Chùa Thần Quang hay còn gọi là chùa Keo, thuộc địa phận huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình được xây dựng từ năm 1067 vào thời nhà Lý. Chùa Keo là ngôi chùa nổi tiếng linh thiêng, người làng Keo rất tự hào với ngôi chùa vừa cổ kính, vừa nguy nga của làng mình.
Theo sách Không Lộ Thiền sư ký ngữ lục, năm 1061, Không Lộ dựng chùa Nghiêm Quang tại làng Giao Thủy (tên nôm là làng Keo) bên hữu ngạn sông Hồng. Sau khi Thiền sư Không Lộ qua đời, chùa Nghiêm Quang được đổi tên là Thần Quang Tự. Theo thời gian, nước sông Hồng xói mòn dần nền chùa và đến năm 1611, một trận lũ lớn đã cuốn trôi cả làng mạc lẫn ngôi chùa.

Dân làng Keo phải bỏ quê cha đất tổ ra đi: một nửa dời về đông nam hữu ngạn sông Hồng, về sau dựng nên chùa Keo - Hành Thiện (nay thuộc tỉnh Nam Định); một nửa vượt sông đến định cư ở phía đông bắc tả ngạn sông Hồng, về sau dựng nên chùa Keo - Thái Bình này.

Chùa Keo là một công trình kiến trúc quy mô, phức hợp nhiều khối kiến trúc đa dạng nhất trong tất cả các kiến trúc Phật giáo ở Đồng bằng Bắc bộ. Chùa không chỉ là một bức tranh sinh động cho lịch sử văn hóa nước ta trong 4 thế kỷ, từ thế kỷ 17 đến 20 mà còn là nơi gặp gỡ giữa kiến trúc Trung Hoa và kiến trúc Việt Nam.

 Sự hòa trộn của hai nền kiến trúc ở đây không bị kiến trúc lai căng mà còn làm giàu thêm kiến trúc Việt Nam, giống như Phật giáo đã từ ấn Độ, Trung Hoa vào Việt Nam đã có thêm màu sắc tín ngưỡng nhân dân, trở thành Phật giáo Việt Nam.

Chùa xây dựng trên một vùng đất rộng 100.000 mét vuông, dài từ chân đê đến con ngòi của thôn Bồng Tiên, gồm nhiều cụm kiến trúc xếp theo một trục dài cao thấp khác nhau.

Gác chuông chùa Keo là một công trình nghệ thuật bằng gỗ độc đáo, tiêu biểu cho kiến trúc cổ Việt Nam thời hậu Lê. Được dựng trên một nền gạch xây vuông vắn, gác chuông cao 11,04 m gồm 3 tầng mái, kết cấu bằng những con sơn chồng lên nhau.

Bộ khung gác chuông làm bằng gỗ liên kết với nhau bằng mộng ngậm, nâng bổng 12 mái ngói với 12 đao loan uốn cong dáng vẻ thanh thoát, nhẹ nhàng. Tầng một treo khánh đá 1,20 m và chuông đồng cao 1,30 m, đường kính 1m đúc vào thời Lê Hy Tông (1686); hai tầng trên treo chuông nhỏ cao 0,62m, đường kính 0,69 m đúc vào năm 1796.

 Chùa là chốn thiền, là một khoảng không gian khép kín, không gian ấy không giống với chốn tu hành, thiên về sự khổ hạnh. Ở đây là một chốn thiền bao la trong suy tưởng cốt tìm đến trí và tuệ để giải thoát cuộc đời bể khổ.

Cho đến nay, chùa Keo đã tồn tại ngót 400 năm. Trong suốt thời gian ấy, chùa Keo vẫn trọn vẹn là một tác phẩm nghệ thuật, ghi đậm một tình cảm thẩm mỹ vừa thực, vừa huyền thoại của văn hóa Việt Nam.

Thùy Dung (tổng hợp)

Về thăm Chùa Keo một chiều thu
Chùa Keo là một trong những ngôi chùa cổ ở Việt Nam được bảo tồn hầu như vẹn nguyên suốt 400 năm qua.

Nghe danh tiếng đại cổ tự từ lâu, chúng tôi tìm đường hành hương về xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, Thái Bình. Sân chùa rụng đầy lá khô, những cành gỗ khẳng khiu soi mình bên hồ nước tạo cho khách phương xa cảm thấy vẻ thanh tịnh, yên bình giữa chốn thiền môn.
2063155749_190911DLAfamilychuakeo1_f6ddc
Sân chùa lá rụng rơi đầy.

Bộ cánh cửa gian trung quan ở Tam quan nội làm từ thế kỷ XVII
với những đường nét trạm trổ rồng chầu tinh xảo.

Bước qua một sân cỏ rộng xanh non, lối nhỏ đưa du khách vào thắp hương tại khu chùa Phật. Khu chùa Phật gồm chùa ông Hộ, tòa Thiêu Hương và điện Phật. Những công trình này được kết cấu theo kiểu chữ công. Nét nổi bật ở đây là tượng Thánh Không Lộ. Đây là một pho tượng được tạc vào thời Lý bằng gỗ trầm hương. Tương truyền rằng tượng giống hệt như Thánh Tổ Không Lộ khi ngài còn sống.

226821789_190911DLAfamilychuakeo9_1debc

Nơi lưu giữ nhiều tượng Phật quý giá.


1179454104_190911DLAfamilychuakeo8_cb477

Du khách bốn phương về lễ Phật.

Đi ra bằng lối cửa sau tòa Thượng điện, chúng ta sẽ được hít thở một luồng khí mát dưới bóng cây cổ thụ mấy trăm năm in bóng xuống hòn non bộ. Theo dãy hành lang phía Đông, nơi cuối sân là chiếc giếng khơi chôn mình bên cạnh gốc cây ngọc lan đang tỏa hương thơm ngát. 
1596385094_190911DLAfamilychuakeo6_dec8c
Mái chùa cổ kính dưới những cây cổ thụ.
1536037136_190911DLAfamilychuakeo5_8ed2a
Gác chuông chùa Keo, một công trình nghệ thuật độc đáo.
Đi thêm vài bước nữa, ta sẽ bắt gặp một hình ảnh nguy nga bề thế đó là gác chuông 3 tầng, kết cấu bằng những con sơn chồng lên nhau. Gác chuông chùa Keo là một công trình nghệ thuật bằng gỗ lim độc đáo, tiêu biểu cho kiến trúc cổ Việt Nam thời hậu Lê.
1011799723_190911DLAfamilychuakeo10_7fd70
Cổ kính, rêu phong sau 400 năm tồn tại
2015452866_190911DLAfamilychuakeo11_1e6df
Tạo cho du khách thấy lòng thanh tịnh
972461542_190911DLAfamilychuakeo12_75fdf
Một công trình kiến trúc nguy nga, bề thế.
Hai dãy hành lang Đông – Tây nối từ chùa ông Hộ đến gác chuông thẳng tắp, dài hun hút hàng chục gian bao bọc cả khu chùa làm thành “bốn mặt tường vây kín đáo” cho một kiến trúc “tiền Phật, hậu Thần” đúng như câu ca: “Từ Đông sang Tây/ Nguy nga lộng lẫy/ Hai chục lâu đài/ Sáng trong như ngọc/ Ba ngàn thế giới/ Chẳng chút bụi trần”.
Đến thăm chùa, ta có thể nhìn thấy những đồ thờ quý giá tương truyền là đồ dùng của Thiền sư Không Lộ như bộ tràng hạt bằng ngà, một bình vôi to và ba vỏ ốc lóng lánh như dát vàng mà tương truyền rằng chính do Không Lộ nhặt được thuở còn làm nghề đánh cá và giữ làm chén uống nước trong những năm tháng tu hành.
195528683_190911DLAfamilychuakeo13_577a9
Toàn cảnh tam quan nội chùa Keo.
1366266701_190911DLAfamilychuakeo14_24a09
Bóng chùa soi mình xuống hồ nước trong xanh.
Hội thu chùa Keo tổ chức vào các ngày 13, 14, 15 tháng 9 Âm lịch. Có câu ca dao rằng: "Dù cho cha đánh mẹ treo/ Em không bỏ hội chùa Keo hôm Rằm". Trải qua gần 400 năm tu bổ, tôn tạo, chùa Keo vẫn giữ nguyên bản sắc kiến trúc độc đáo của mình. Có thể nói Chùa Keo là một bảo tàng nghệ thuật đầu thế kỷ 17, với nhiều kiệt tác đặc sắc.


845406494_190911DLAfamilychuakeo2_cc2aa
Hồ nước gợn sóng lăn tăn trong gió chiều.

1820031002_190911DLAfamilychuakeo7_062af

Những gốc cây khẳng khiu bên hồ.


Tương truyền, nguyên thủy chùa do Thiền sư Dương Không Lộ xây dựng ở ven sông Hồng dưới thời Lý Thánh Tông, tại hương Giao Thủy. Sau gần 500 năm tồn tại, năm 1611, nước sông Hồng lên to, làm ngập làng Giao Thủy. Một bộ phận dân cư dời sang tả ngạn sông Hồng, lập làng Dũng Nhuệ trên đất Thái Bình và cũng dựng lên một ngôi chùa, gọi là chùa Keo Trên.


327503423_190911DLAfamilychuakeo3_f9394

Những người "muôn năm cũ".
Từ cột cờ bằng gỗ chò thẳng tắp ở ngoài cùng, đi qua một sân lát đá, khách sẽ đến tam quan ngoại, hồ sen, tam quan nội với bộ cánh cửa cao 2 m chạm một ổ rồng với rồng mẹ và rồng con, chầu mặt nguyệt. Nếu đôi cánh cửa ở chùa Phổ Minh tiêu biểu cho kiến trúc đời nhà Trần thì đôi cánh cửa chùa Keo tiêu biểu cho kiến trúc đời nhà Lê với những đường nét chạm khắc vô cùng tinh xảo.

1598773476_190911DLAfamilychuakeo15_206af

Chùa Keo - di tích kiến trúc văn hóa đặc biệt cấp quốc gia

Nằm bên bờ sông Hồng, chùa Keo - Thái Bình nổi bật giữa vùng quê lúa bởi vẻ đẹp thâm trầm, cổ kính, huyền bí và vô cùng đồ sộ của ngôi chùa có hơn 400 năm tuổi.

Những hàng cột lim thẳng tắp, đầu đao cong vút, những đòn kê được chạm lộng mềm mại, tinh tế trong 124 gian thờ của 12 công trình từ Tam quan đến tòa Tam bảo, Đền Thánh, Tòa Giá roi… đã khiến bao tao nhân, mặc khách khi đến chùa Keo phải sững sờ như lạc vào một thế giới khác. Dù đã trải qua nhiều lần tu bổ song may mắn thay, công trình văn hóa, kiến trúc đặc biệt này vẫn được gìn giữ gần như nguyên vẹn như thuở ban đầu.
Ngoài quy mô và chất liệu xây dựng, quần thể chùa Keo còn chứa đựng nhiều công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo riêng, không nơi nào có, tiêu biểu như Tam quan nội, Tòa Giá roi, hành lang đông tây, gác chuông... Mỗi công trình nghệ thuật đặc sắc đó lại bao gồm những chi tiết nhỏ, là những kiệt tác nghệ thuật đặc sắc nổi bật về giá trị nghệ thuật cũng như giá trị kiến trúc.
Điển hình như bộ cánh cửa ở Tam quan nội chạm rồng gồm có hai cánh, được đánh giá độc đáo nhất trong cả nước. Khi đóng, bộ cánh cửa trở thành một bức phù điêu hoàn chỉnh hình 4 con rồng chầu nguyệt, rộng 2,47m, cao 2,25 mét, thể hiện tính nghệ thuật cao của điêu khắc Việt Nam thế kỷ XVII (bộ cánh cửa thật hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Bộ cánh cửa hiện tại ở chùa Keo là bản sao phục chế).
Gác chuông chùa Keo làm theo kiểu chồng diêm cổ các, 3 tầng 12 mái với kết cấu gần 100 đàn đầu voi, làm nên vẻ trầm mặc, thâm nghiêm và uy linh chốn linh thiêng. Đây là công trình nghệ thuật có vẻ đẹp lộng lẫy, là viên ngọc quý trong gia tài kiến trúc Việt Nam.
Tháp Chuông
Toà Giá roi chỉ riêng có ở Chùa Keo (theo các nghiên cứu, chưa thấy chùa nào khác có Toà Giá roi); những con sơn nội sơn ngoại cũng đặc biệt, được chạm trổ đa dạng, phong phú các con vật linh, không chỉ có tác dụng đỡ đầu bẩy hay xà mà còn là yếu tố thẩm mỹ ấn tượng... Thậm chí, 42 con sơn do 42 người thợ làm theo nhiều phong cách khác nhau đến giờ vẫn còn nguyên 42 con. Chùa vẫn lưu giữ Nhang án cung tiến từ năm 1632, được đánh giá là một trong những Nhang án cổ xưa nhất Việt Nam hiện còn...
Theo ông Bùi Văn Thương, Trưởng Ban Quản lý di tích này thì Toà Giá roi chỉ riêng có ở Chùa Keo - Thái Bình mới có; 42 con sơn ở đây không chỉ có tác dụng như đỡ đầu bảy mà mỗi con sơn là một tác phẩm mỹ nghệ tinh xảo, thể hiện sự lành nghề của đội ngũ thợ thủ công lành nghề thời ấy.
Đặc biệt, gác chuông Chùa Keo làm theo kiểu chồng diêm cổ các, 3 tầng 12 mái với kết cấu gần 100 đàn đầu voi, làm nên vẻ trầm mặc, thâm nghiêm và uy linh chốn linh thiêng. Tháng 12-2007, tháp chuông Chùa Keo được Kỷ lục Guinness VN xác lập là tháp chuông bằng gỗ cao nhất Việt Nam.
Năm 2004, chùa Keo được Nhà nước hỗ trợ 19 tỉ đồng. Số tiền này cùng với công đức thập phương cũng chỉ đủ để sửa chữa khu vực trong chùa và nội thất. Hiện nay, hàng năm chùa Keo thu khoảng trên 2 tỉ đồng công đức của khách thập phương. Các khoản thu, chi này luôn được công khai minh bạch, do vậy, mỗi năm một ít, chùa Keo đang dần hoàn thiện các công trình phụ trợ bằng nguồn xã hội hóa.
Theo sử sách, ngôi chùa có tên chữ là Thần Quang Tự này thờ Không Lộ Thiền Sư, được xây dựng từ năm 1061, thời Lý thế kỉ 11 phía ngoài đê sông Hồng. Năm 1611, qua trận lũ lớn, chùa bị cuốn trôi và được xây dựng lại vào năm 1632 sau 19 năm chuẩn bị, 28 tháng thi công.
Đến nay, qua gần 400 năm tồn tại, chùa Keo - Thái Bình đã trải qua nhiều lần trùng tu, tu bổ, tôn tạo nhưng vẫn giữ được bản sắc kiến trúc độc đáo từ thời Lê Trung Hưng thế kỷ 17.
Nét độc đáo của Chùa Keo là kiến trúc nội công, được xây dựng hoàn toàn bằng gỗ Lim, song điều đặc biệt hơn cả là hơn 100 gian chùa đều được dựng và kết nối với nhau bằng hệ thống các mộng, kèo vô cùng chuẩn xác và chắc chắn mà không hề xuất hiện bóng dáng của bất cứ một chiếc đinh nào.
Không phải ngẫu nhiên mà kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính từng nhìn nhận công tác trùng tu Chùa Keo là chuẩn mực, đạt tiêu chí "kích thước vàng".
Theo SGGP

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét