Về thăm Chùa Keo một chiều thu
Chùa Keo là một trong những ngôi chùa cổ ở Việt Nam được bảo tồn hầu như vẹn nguyên suốt 400 năm qua.
Nghe danh tiếng đại cổ tự từ lâu, chúng tôi tìm đường hành hương về xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, Thái Bình. Sân chùa rụng đầy lá khô, những cành gỗ khẳng khiu soi mình bên hồ nước tạo cho khách phương xa cảm thấy vẻ thanh tịnh, yên bình giữa chốn thiền môn.
Sân chùa lá rụng rơi đầy.
Bộ cánh cửa gian trung quan ở Tam quan nội làm từ thế kỷ XVII
với những đường nét trạm trổ rồng chầu tinh xảo.
Bước qua một sân cỏ rộng xanh non, lối nhỏ đưa du khách vào thắp hương tại khu chùa Phật. Khu chùa Phật gồm chùa ông Hộ, tòa Thiêu Hương và điện Phật. Những công trình này được kết cấu theo kiểu chữ công. Nét nổi bật ở đây là tượng Thánh Không Lộ. Đây là một pho tượng được tạc vào thời Lý bằng gỗ trầm hương. Tương truyền rằng tượng giống hệt như Thánh Tổ Không Lộ khi ngài còn sống.
Nơi lưu giữ nhiều tượng Phật quý giá.
Du khách bốn phương về lễ Phật.
Đi ra bằng lối cửa sau tòa Thượng điện, chúng ta sẽ được hít thở một luồng khí mát dưới bóng cây cổ thụ mấy trăm năm in bóng xuống hòn non bộ. Theo dãy hành lang phía Đông, nơi cuối sân là chiếc giếng khơi chôn mình bên cạnh gốc cây ngọc lan đang tỏa hương thơm ngát.
Mái chùa cổ kính dưới những cây cổ thụ.
Gác chuông chùa Keo, một công trình nghệ thuật độc đáo.
Đi thêm vài bước nữa, ta sẽ bắt gặp một hình ảnh nguy nga bề thế đó là gác chuông 3 tầng, kết cấu bằng những con sơn chồng lên nhau. Gác chuông chùa Keo là một công trình nghệ thuật bằng gỗ lim độc đáo, tiêu biểu cho kiến trúc cổ Việt Nam thời hậu Lê.
Cổ kính, rêu phong sau 400 năm tồn tại
Tạo cho du khách thấy lòng thanh tịnh
Một công trình kiến trúc nguy nga, bề thế.
Hai dãy hành lang Đông – Tây nối từ chùa ông Hộ đến gác chuông thẳng tắp, dài hun hút hàng chục gian bao bọc cả khu chùa làm thành “bốn mặt tường vây kín đáo” cho một kiến trúc “tiền Phật, hậu Thần” đúng như câu ca: “Từ Đông sang Tây/ Nguy nga lộng lẫy/ Hai chục lâu đài/ Sáng trong như ngọc/ Ba ngàn thế giới/ Chẳng chút bụi trần”.
Đến thăm chùa, ta có thể nhìn thấy những đồ thờ quý giá tương truyền là đồ dùng của Thiền sư Không Lộ như bộ tràng hạt bằng ngà, một bình vôi to và ba vỏ ốc lóng lánh như dát vàng mà tương truyền rằng chính do Không Lộ nhặt được thuở còn làm nghề đánh cá và giữ làm chén uống nước trong những năm tháng tu hành.
Toàn cảnh tam quan nội chùa Keo.
Bóng chùa soi mình xuống hồ nước trong xanh.
Hội thu chùa Keo tổ chức vào các ngày 13, 14, 15 tháng 9 Âm lịch. Có câu ca dao rằng: "Dù cho cha đánh mẹ treo/ Em không bỏ hội chùa Keo hôm Rằm". Trải qua gần 400 năm tu bổ, tôn tạo, chùa Keo vẫn giữ nguyên bản sắc kiến trúc độc đáo của mình. Có thể nói Chùa Keo là một bảo tàng nghệ thuật đầu thế kỷ 17, với nhiều kiệt tác đặc sắc.

Hồ nước gợn sóng lăn tăn trong gió chiều.
Những gốc cây khẳng khiu bên hồ.
Tương truyền, nguyên thủy chùa do Thiền sư Dương Không Lộ xây dựng ở ven sông Hồng dưới thời Lý Thánh Tông, tại hương Giao Thủy. Sau gần 500 năm tồn tại, năm 1611, nước sông Hồng lên to, làm ngập làng Giao Thủy. Một bộ phận dân cư dời sang tả ngạn sông Hồng, lập làng Dũng Nhuệ trên đất Thái Bình và cũng dựng lên một ngôi chùa, gọi là chùa Keo Trên.
Những người "muôn năm cũ".
Từ cột cờ bằng gỗ chò thẳng tắp ở ngoài cùng, đi qua một sân lát đá, khách sẽ đến tam quan ngoại, hồ sen, tam quan nội với bộ cánh cửa cao 2 m chạm một ổ rồng với rồng mẹ và rồng con, chầu mặt nguyệt. Nếu đôi cánh cửa ở chùa Phổ Minh tiêu biểu cho kiến trúc đời nhà Trần thì đôi cánh cửa chùa Keo tiêu biểu cho kiến trúc đời nhà Lê với những đường nét chạm khắc vô cùng tinh xảo.

Chùa Keo - di tích kiến trúc văn hóa đặc biệt cấp quốc gia
Nằm bên bờ sông Hồng, chùa Keo - Thái Bình nổi bật giữa vùng quê lúa bởi vẻ đẹp thâm trầm, cổ kính, huyền bí và vô cùng đồ sộ của ngôi chùa có hơn 400 năm tuổi.
Những hàng cột lim thẳng tắp, đầu đao cong vút, những đòn kê được chạm lộng mềm mại, tinh tế trong 124 gian thờ của 12 công trình từ Tam quan đến tòa Tam bảo, Đền Thánh, Tòa Giá roi… đã khiến bao tao nhân, mặc khách khi đến chùa Keo phải sững sờ như lạc vào một thế giới khác. Dù đã trải qua nhiều lần tu bổ song may mắn thay, công trình văn hóa, kiến trúc đặc biệt này vẫn được gìn giữ gần như nguyên vẹn như thuở ban đầu.
Ngoài quy mô và chất liệu xây dựng, quần thể chùa Keo còn chứa đựng nhiều công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo riêng, không nơi nào có, tiêu biểu như Tam quan nội, Tòa Giá roi, hành lang đông tây, gác chuông... Mỗi công trình nghệ thuật đặc sắc đó lại bao gồm những chi tiết nhỏ, là những kiệt tác nghệ thuật đặc sắc nổi bật về giá trị nghệ thuật cũng như giá trị kiến trúc.
Điển hình như bộ cánh cửa ở Tam quan nội chạm rồng gồm có hai cánh, được đánh giá độc đáo nhất trong cả nước. Khi đóng, bộ cánh cửa trở thành một bức phù điêu hoàn chỉnh hình 4 con rồng chầu nguyệt, rộng 2,47m, cao 2,25 mét, thể hiện tính nghệ thuật cao của điêu khắc Việt Nam thế kỷ XVII (bộ cánh cửa thật hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Bộ cánh cửa hiện tại ở chùa Keo là bản sao phục chế).
Gác chuông chùa Keo làm theo kiểu chồng diêm cổ các, 3 tầng 12 mái với kết cấu gần 100 đàn đầu voi, làm nên vẻ trầm mặc, thâm nghiêm và uy linh chốn linh thiêng. Đây là công trình nghệ thuật có vẻ đẹp lộng lẫy, là viên ngọc quý trong gia tài kiến trúc Việt Nam.
 |
Tháp Chuông
|
Toà Giá roi chỉ riêng có ở Chùa Keo (theo các nghiên cứu, chưa thấy chùa nào khác có Toà Giá roi); những con sơn nội sơn ngoại cũng đặc biệt, được chạm trổ đa dạng, phong phú các con vật linh, không chỉ có tác dụng đỡ đầu bẩy hay xà mà còn là yếu tố thẩm mỹ ấn tượng... Thậm chí, 42 con sơn do 42 người thợ làm theo nhiều phong cách khác nhau đến giờ vẫn còn nguyên 42 con. Chùa vẫn lưu giữ Nhang án cung tiến từ năm 1632, được đánh giá là một trong những Nhang án cổ xưa nhất Việt Nam hiện còn...
Theo ông Bùi Văn Thương, Trưởng Ban Quản lý di tích này thì Toà Giá roi chỉ riêng có ở Chùa Keo - Thái Bình mới có; 42 con sơn ở đây không chỉ có tác dụng như đỡ đầu bảy mà mỗi con sơn là một tác phẩm mỹ nghệ tinh xảo, thể hiện sự lành nghề của đội ngũ thợ thủ công lành nghề thời ấy.
Đặc biệt, gác chuông Chùa Keo làm theo kiểu chồng diêm cổ các, 3 tầng 12 mái với kết cấu gần 100 đàn đầu voi, làm nên vẻ trầm mặc, thâm nghiêm và uy linh chốn linh thiêng. Tháng 12-2007, tháp chuông Chùa Keo được Kỷ lục Guinness VN xác lập là tháp chuông bằng gỗ cao nhất Việt Nam.
Năm 2004, chùa Keo được Nhà nước hỗ trợ 19 tỉ đồng. Số tiền này cùng với công đức thập phương cũng chỉ đủ để sửa chữa khu vực trong chùa và nội thất. Hiện nay, hàng năm chùa Keo thu khoảng trên 2 tỉ đồng công đức của khách thập phương. Các khoản thu, chi này luôn được công khai minh bạch, do vậy, mỗi năm một ít, chùa Keo đang dần hoàn thiện các công trình phụ trợ bằng nguồn xã hội hóa.
Theo sử sách, ngôi chùa có tên chữ là Thần Quang Tự này thờ Không Lộ Thiền Sư, được xây dựng từ năm 1061, thời Lý thế kỉ 11 phía ngoài đê sông Hồng. Năm 1611, qua trận lũ lớn, chùa bị cuốn trôi và được xây dựng lại vào năm 1632 sau 19 năm chuẩn bị, 28 tháng thi công.
Đến nay, qua gần 400 năm tồn tại, chùa Keo - Thái Bình đã trải qua nhiều lần trùng tu, tu bổ, tôn tạo nhưng vẫn giữ được bản sắc kiến trúc độc đáo từ thời Lê Trung Hưng thế kỷ 17.
Nét độc đáo của Chùa Keo là kiến trúc nội công, được xây dựng hoàn toàn bằng gỗ Lim, song điều đặc biệt hơn cả là hơn 100 gian chùa đều được dựng và kết nối với nhau bằng hệ thống các mộng, kèo vô cùng chuẩn xác và chắc chắn mà không hề xuất hiện bóng dáng của bất cứ một chiếc đinh nào.
Không phải ngẫu nhiên mà kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính từng nhìn nhận công tác trùng tu Chùa Keo là chuẩn mực, đạt tiêu chí "kích thước vàng".
Theo SGGP
|
.
Chùa Keo - Kiến trúc 400 năm tuổi còn vẹn nguyên
Chùa Keo ở tỉnh Thái Bình là một trong những ngôi chùa cổ ở Việt Nam được bảo tồn hầu như còn nguyên vẹn kiến trúc 400 năm tuổi.
Mùa xuân, trẩy hội Chùa Keo vừa được chiêm ngưỡng những kiến trúc Phật giáo tiêu biểu của triều Hậu Lê, vừa được đắm mình trong không gian tĩnh lặng, trong lành.
Xứng danh kiến trúc đặc biệt Quốc gia
Chùa có nguồn gốc từ một ngôi chùa có tên là Nghiêm Quang tự, do Thiền sư Dương Không Lộ (1016-1094) xây dựng ở ven sông Hồng năm 1061 dưới thời vua Lý Thánh Tông, tại hương Giao Thủy, phủ Hà Thanh (nay là huyện Giao Thủy, Nam Định). Đến năm 1167, đời vua Lý Anh Tông mới đổi thành Thần Quang tự. Vì Giao Thủy có tên Nôm là Keo, nên ngôi chùa được gọi là chùa Keo. Theo thời gian, nước sông Hồng xói mòn dần nền chùa và đến năm 1611, một trận lũ lớn đã cuốn trôi cả làng mạc lẫn ngôi chùa. Dân làng một nửa dời về Đông Nam hữu ngạn sông Hồng, về sau dựng nên chùa Keo - Hành Thiện (nay thuộc tỉnh Nam Định), một nửa vượt sông đến định cư ở phía Đông Bắc tả ngạn sông Hồng, về sau dựng nên chùa Keo – Thái Bình. Chùa ngoài thờ Phật, còn thờ Không Lộ - Lý Quốc Sư.
 |
Chùa Keo nổi tiếng là ngôi chùa cổ có kiến trúc đẹp, độc đáo bậc nhất cả nước. |
Chùa Keo nổi tiếng là ngôi chùa cổ có kiến trúc đẹp, độc đáo bậc nhất cả nước. Toàn bộ công trình đều làm bằng gỗ lim và được các nghệ nhân điêu khắc thời nhà Hậu Lê chạm khắc rất tinh xảo. Sự độc đáo không chỉ bởi ngôi chùa được kiến tạo bởi hàng trăm gian nhà với kích thước hoàn toàn khác nhau, ngôi chùa còn sở hữu một Gác chuông lớn bậc nhất, có kiến trúc độc đáo nhất cả nước. Nhìn từ trên xuống, mái của các tòa nhà có độ xòe rộng khác nhau, cao thấp chồng lên nhau như một lớp sóng cồn.
Không gian kiến trúc Chùa Keo được kiến trúc hiện đại coi như là một mẫu mực có tính truyền thống và tính thực dụng tiêu biểu cho kiến trúc thời hậu Lê. Mà ở đó, sự hài hòa giữa kiến trúc với môi trường được tuân thủ tuyệt đối. Nghệ thuật sử dụng cây xanh, vườn hoa, hồ nước. Những gỗ, gạch lát, tường xây dựng bằng ván bưng, mái ngói mũi hài; cùng với việc sử dụng hệ thống hồ ba mặt Chùa (phía trước hồ Nam, và hồ phía Đông, phía Tây) tạo cảm giác chiều cao thêm của công trình, vẻ lung linh, thoáng mát dễ chịu về mùa hè, ấm áp về mùa đông.
Trong quần thể công trình kiến trúc ở Chùa Keo, Gác chuông là công trình nổi bật bậc nhất với độ cao và kiến trúc độc đáo theo kiểu “chồng diêm cổ các” với ba tầng 12 mái (một số Gác chuông của các chùa cổ khác ở đồng bằng Bắc Bộ chỉ 2 tầng 8 mái), bộ mái kết cấu gần 100 đàn đầu voi là viên ngọc quý trong gia tài kiến trúc Việt Nam và bộ cánh cửa chạm rồng độc đáo cả nước. Bộ khung gác chuông làm bằng gỗ liên kết với nhau bằng mộng, nâng bổng 12 mái ngói với 12 đao loan uốn cong dáng vẻ thanh thoát, nhẹ nhàng. Gác chuông được dựng trên một nền gạch xây vuông vắn. Ở tầng một có treo một khánh đá cao 1,20 m. Tầng hai có quả chuông đồng lớn đúc năm 1686 cao 1,30m, đường kính 1m. Hai quả chuông nhỏ treo ở tầng ba và tầng thượng cao 0,62 m, đường kính 0,69 m đều được đúc năm 1796. Ngoài giá trị về mỹ thuật, Gác chuông chùa Keo là nơi luôn thu hút đông đảo khách tham quan và những người làm công tác nghiên cứu bởi còn lưu giữ được một số hiện vật quý như chuông đồng và khánh đá...
Mỗi năm hai mùa hội
Dân gian có câu ca dao về hội Chùa Keo: “Dù cho cha đánh mẹ treo/Em không bỏ hội chùa Keo hôm rằm”. Chùa Keo với giá trị kiến trúc đặc biệt đang được tỉnh Thái Bình coi là điểm nhấn thu hút khách du lịch. Mỗi năm hai mùa hội, nhiều năm trở lại đây, lễ hội Chùa Keo đã thu hút đông đảo du khách thập phương.
 |
Chùa Keo đang được coi là điểm nhấn thu hút khách du lịch của tỉnh Thái Bình. |
Lễ hội Xuân ở Chùa Keo được bắt đầu từ ngày mùng 4 Tết. Trong tiết trời đầu xuân thiêng liêng, sau nghi lễ dâng hương tại đền Thánh, lễ tế, rước kiệu theo đúng nghi thức truyền thống tưởng nhớ công đức của quốc sư Dương Không Lộ, du khách sẽ được hòa mình vào các cuộc thi dân gian mang đậm màu sắc của cư dân đồng bằng sông Hồng như chạy giải, kéo lửa thổi cơm thi, bắt vịt dưới hồ và thi chọi gà, bơi thuyền cò cốc ở ao chùa, múa ếch vồ, thi leo cầu ngô bắt vịt, những cuộc thi kèn, thi trống... Đặc biệt, tại hội chùa Keo, sau khi đã có những nghi lễ như mọi hội chùa khác, thì diễn ra trò chơi kéo nứa lấy lửa, nấu xôi, nấu chè và nấu cơm chay để mang cúng Thánh.
Hơn chín tháng sau, vào các ngày 13, 14, 15 tháng 9 âm lịch, chùa Keo lại mở hội mùa Thu. Đây là hội chính, kỷ niệm ngày Thiền sư Không Lộ (1016-1094), người sáng lập ngôi chùa, qua đời. Trong ngày hội, người dân trong vùng tổ chức lễ rước kiệu, hương án, long đình, thuyền rồng và tiểu đỉnh. Trong chùa thì có cuộc thi diễn xướng về đề tài lục cúng: hương, đăng, hoa, trà, quả, thực, thật sinh động.
Trải qua gần 400 năm tu bổ, tôn tạo, Chùa Keo vẫn giữ nguyên bản sắc kiến trúc độc đáo của mình. Với nhiều hiện vật độc đáo có một không hai như hàng trăm tượng các vị Pháp tăng và đồ tế thời Lê, du khách cũng có thể chiêm ngưỡng những đồ thờ quý giá tương truyền là đồ dùng của Thiền sư Không Lộ như bộ tràng hạt bằng ngà, một bình vôi to và ba vỏ ốc lóng lánh như dát vàng mà tương truyền rằng chính do Không Lộ nhặt được thuở còn làm nghề đánh cá và giữ làm chén uống nước trong những năm tháng tu hành. Có thể nói Chùa Keo là một bảo tàng nghệ thuật của thế kỷ XVII mà cha ông ta tạo tác, gìn giữ và truyền lại cho hôm nay và mai sau.
Theo Làng Việt
Giai thoại về vị thiền sư bí ẩn ở ngôi chùa nổi tiếng bậc nhất Việt Nam
Chùa Keo (Thái Bình) là một điểm dừng chân vô cùng thú vị đối với du khách yêu thích hành hương tâm linh. Nơi đây không chỉ lưu giữ nhiều di vật quý giá mà còn chứa đựng những điều huyền bí gắn liền với cuộc đời Thiền sư Không Lộ (1016-1094).
Ngôi chùa nổi tiếng bậc nhất Việt Nam
Theo sách Không Lộ Thiền sư ký ngữ lục, chùa ban đầu có tên là Nghiêm Quang, được Thiền sư Không Lộ xây dựng từ năm 1067 tại làng Giao Thủy (tên nôm là làng Keo) bên hữu ngạn sông Hồng. Sau khi Thiền sư Không Lộ qua đời, chùa Nghiêm Quang được đổi tên là Thần Quang Tự. Theo thời gian, nước sông Hồng xói mòn dần nền chùa và đến năm 1611, một trận lũ lớn đã cuốn trôi cả làng mạc lẫn ngôi chùa.
Dân làng Keo phải bỏ quê cha đất tổ ra đi: một nửa dời về đông nam hữu ngạn sông Hồng, về sau dựng lên chùa Keo - Hành Thiện (nay thuộc tỉnh Nam Định); một nửa vượt sông đến định cư ở phía đông bắc tả ngạn sông Hồng, về sau dựng lên chùa Keo - Thái Bình. Việc dựng chùa mới được bắt đầu từ năm 1630, hoàn thành năm 1632, chùa được dựng theo phong cách kiến trúc thời Lê và được trùng tu nhiều lần vào các thế kỷ 17, 18 và năm 1941.
Chùa có quy mô kiến trúc rộng lớn trên một khu đất khoảng 58.000m². Hiện nay toàn bộ kiến trúc chùa còn lại 17 công trình gồm 128 gian xây dựng theo kiểu "Nội công ngoại quốc". Từ cột cờ bằng gỗ chò thẳng tắp cao 25m ở ngoài cùng, đi qua một sân lát đá, khách sẽ đến tam quan ngoại, hồ sen, tam quan nội với bộ cánh cửa chạm rồng chầu (thế kỷ 16). Điện Phật được bài trí tôn nghiêm. Sau chùa thờ Phật có đền thờ Thiền sư Không Lộ, người khai sơn ngôi chùa vào thời Lý.
 |
Chùa Keo (Thái Bình) |
Theo sách “Trùng san Thần Quang tự Phật tổ bản hành thiền uyển ngữ lục tập yếu”, Thiền sư Không Lộ, đời thứ 9 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Sư họ Dương, không biết tên thật là gì, quê ở làng Hải Thanh. Gia đình thiền sư vốn làm nghề chài lưới, đến đời sư nặng khối tình nhân thế, ông bỏ đi theo đạo Phật. Từ một ngư phủ, ông theo Thiền sư Lôi Hà Trạch xuất gia cùng làm bạn với các Thiền sư Giác Hải và Từ Đạo Hạnh.
Tương truyền, sau khi đắc đạo, sư có thể bay lên không trung, hoặc đi trên mặt nước giống như Sư tổ Đạt Ma. Thiền sư đi vào rừng sâu, núi cao cọp thấy cũng phải cúi đầu, rồng gặp cũng phải nép phục. Những pháp thuật của Thiền sư không thể đo định được. Chẳng thế mà, như một người nhìn thấy trước tương lai, Thiền sư cùng với các Thiền sư khác đã nhìn nhận về sự ra đời của vương triều nhà Lý. Ông cũng là biểu tượng cho sự giác ngộ.
Đến thăm chùa, du khách có thể nhìn thấy những đồ thờ quý giá tương truyền là đồ dùng của Thiền sư Không Lộ như một bộ tràng hạt bằng ngà, một bình vôi to và ba vỏ ốc lóng lánh như dát vàng mà người ta kể lại rằng chính do Thiền sư Không Lộ nhặt được thuở còn làm nghề đánh cá và giữ làm chén uống nước trong những năm tháng tu hành. Chùa đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia.
Chùa Keo và các lễ hội
Lễ hội chùa Keo mùa năm nay diễn ra đến ngày 27/10 (tức 15/9 âm lịch). Vừa qua (ngày 22/10) tỉnh Thái Bình đã tổ chức khai hội Lễ hội chùa Keo mùa Thu và Khai chỉ mở cửa đền Thánh năm 2015. Đây là năm thứ ba di tích Quốc gia đặc biệt chùa Keo được Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch chọn là điểm Du lịch Quốc gia.
Theo Ban tổ chức, lễ hội chùa Keo năm nay không dùng Ngân sách nhà nước để tổ chức mà huy động nguồn kinh phí từ việc xã hội hóa. Bên cạnh đó, duy trì các sinh hoạt văn hóa truyền thống của cư dân nông nghiệp đồng bằng Bắc Bộ với vai trò chủ thể là người dân địa phương.
Đây là dịp để Thái Bình quảng bá du lịch, giới thiệu mảnh đất, con người địa phương với du khách gần, xa, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - văn hóa, xã hội của địa phương. Đồng thời, phục vụ nhu cầu tín ngưỡng tâm linh; nhu cầu tìm hiểu, tham quan du lịch và hưởng thụ các giá trị văn hóa, nghệ thuật kiến trúc điêu khắc độc đáo của di tích. Từ đó, xây dựng ý thức gìn giữ, bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa, truyền thống tốt đẹp của quê hương, đất nước.
Năm 2012, chùa Keo đã được công nhận di tích cấp quốc gia đặc biệt. Hằng năm, chùa Keo diễn ra hai kỳ hội: Hội xuân và Hội thu. Hội xuân diễn ra vào tháng Giêng (âm lịch) và Hội thu diễn ra vào tháng 9 (âm lịch). Mỗi kỳ khai hội thu hút hàng ngàn du khách thập phương trong và ngoài tỉnh về dự, tham quan, chiêm bái.
Lễ hội chùa Keo mùa Thu năm 2015 sẽ có nhiều nghi lễ đặc sắc, đậm chất văn hóa như: Nghi thức rước kiệu lễ xuống chùa ông Hộ của đoàn tùy giá; lễ Khai chỉ mở cửa Đền; hoạt động tế lễ Phật Thánh trong nội tự; đại lễ tuần bách nhật của Đức Thánh… Trong phần hội diễn ra nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, trò chơi dân gian như: múa trống hội, biểu diễn hát du thuyền giao duyên, thi kéo co, thi hát văn, đập niêu, bịt mắt đánh trống, thi chọi gà, thi leo cầu ngô bắt vịt…
Hiểu Khuê (tổng hợp)
Kiến trúc Chùa Keo .
(PGVN) Chùa Keo tên chữ là “Thần Quang Tự” thuộc địa phận xã Duy Nhất, huyện Vũ
Thư, tỉnh Thái Bình. Chùa Keo được công nhận Di tích lịch sử văn hóa
quốc gia vào ngày 28/4/1962 và đến ngày 27/9/2012 đón nhận Di tích Quốc
gia đặc biệt. Hãy cùng chiêm ngưỡng vẻ đẹp của chùa Keo.
Chùa Keo gồm 2 cụm kiến trúc: Chùa là nơi thờ Phật
và Đền thánh thờ đức Dương Không Lộ - Vị đại sư nhà Lý có công dựng
Chùa. Qua nhiều lần tu bổ, tôn tạo, Chùa Keo vẫn giữ nguyên bản sắc kiến
trúc độc đáo có từ thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 17). Chùa Keo xây dựng
thời đó gồm 21 công trình với 157 gian trên khu đất rộng 58.000 m2. Hiện toàn bộ Chùa Keo còn 17 công trình với 128 gian phân bố trên 2.022m2. Các công trình kiến trúc chính như: tam quan, chùa phật, điện thánh, gác chuông, hành lang và khu tăng xá, vườn tháp.
Toàn cảnh Chùa Keo
Công trình đầu tiên là bậc tam quan ngoại. Rẽ phải
hoặc trái theo con đường men theo hồ nước 2 bên tả, hữu gặp 2 cổng tò
vò, giữa là tam quan nội. Điều đáng quan tâm nhất là ở tam quan nội là
bộ cánh cửa gian trung quan – một kiệt tác chạm khắc gỗ thế kỷ 17.
Tháp chuông chùa Keo
Đường nét trạm trổ từ thời Lê Trung Hưng
Cột, cửa đều làm bằng gỗ
Khu đền Thánh được nối tiếp khu thờ Phật gồm tòa Giá
roi, tòa Thiêu Hương, tòa Phục Quốc và Thượng điện. Những công trình này
tạo thành một kết cấu kiểu chữ công. Sau cùng là gác chuông 3 tầng nguy
nga bề thế. Hai dãy hành lang đông, tây nối từ chùa Hộ đến gác chuông
thẳng bao bọc cả khu chùa làm thành “bốn mặt tường vây kín đáo” cho một
kiến trúc “tiền Phật, hậu Thần”.
Bia đá ghi lại những tư liệu quý về chùa
Chiếc am nhỏ trong sân
Khuôn viên chùa – nơi du khách có thể nghỉ ngơi, ngắm cảnh
Hoài Thu (Báo Thái Bình)
Ngôi chùa hơn 400 năm tuổi, một trong những công trình kiến trúc chùa đẹp nhất Việt Nam, sẽ là điểm dừng chân thú vị với du khách ghé thăm Thái Bình.
Chùa Keo thuộc xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình được khởi công cây dựng từ năm 1630 và hoàn thành vào năm 1632 theo phong cách kiến trúc thời Lê. Ảnh vnexpress.
Đây là một trong số ít những ngôi chùa cổ ở Việt Nam còn lưu giữ được hầu như nguyên vẹn kiến trúc xưa. Ảnh vnexpress.
Bước vào bên trong chùa là gian Tiền đường lợp mái ngói, được chống đỡ bằng những cột gỗ lim lớn rất chắc chắn. Trước mặt Tiền đường là thảm cỏ xanh mướt, với những hàng cau cảnh nhỏ bên cạnh. Hai bên hành lang là hai bia đá cổ, khắc ghi lịch sử xây dựng của chùa. Ảnh vnexpress.
Văn bia và địa bạ chùa Keo còn ghi lại diện tích toàn khu kiến trúc chùa rộng khoảng 58.000 m2, gồm nhiều ngôi nhà làm thành những cụm kiến trúc khác nhau. Hiện nay toàn bộ kiến trúc chùa còn lại 17 công trình gồm 128 gian xây dựng theo kiểu “Nội công ngoại quốc”. Ảnh vnexpress.
Hai bên là dãy hành lang dẫn tới các gian thờ. Dãy hành lang này cũng được lợp mái ngói và chống bằng cột gỗ lim, rất ấn tượng. Những con đường lát đá sẽ đưa bạn đến gian thờ Phật, Thánh, gian thờ Tổ và tháp chuông. Ảnh vnexpress.
Những gian nhà được xếp nối nhau, bên trên đỉnh chóp mái ngói là hoa văn cách điệu hình tượng “cá chép hóa rồng”. Ảnh vnexpress.
Gác chuông chùa Keo với bộ mái kết cấu gần 100 đàn đầu voi là viên ngọc quý trong gia tài kiến trúc Việt Nam. Bộ cánh cửa chạm rồng là bộ cửa độc đáo của cả nước. Chùa còn bảo lưu được hàng trăm tượng Pháp và đồ tế thời Lê. Có thể nói Chùa Keo là một bảo tàng nghệ thuật đầu thế kỷ XVII, với nhiều kiệt tác đặc sắc. Ảnh vnexpress.
Bên cạnh kiến trúc cổ, chùa Keo còn lưu giữ rất nhiều pho tượng lâu đời. Ảnh vnexpress.
Nguyên vật liệu chủ yếu dùng để xây chùa là gỗ, gạch ngói và đá. Trải qua bao thăng trầm, biến cố của thời gian, ngôi chùa vẫn toát lên vẻ cổ kính, vững chắc với thời gian. Ảnh vnexpress.
Trải qua 400 năm những hoa văn kiến trúc thời nhà Lê vẫn còn được bảo tồn. Với những giá trị lịch sử, văn hóa, chùa Keo được nhà nước xếp hạng là “Di tích Quốc gia đặc biệt”. Ảnh vnexpress.
Hằng năm vào ngày mùng 4 tháng giêng Âm lịch, nhân dân làng Keo lại mở hội xuân ngay ở ngôi chùa mang tên làng. Hơn chín tháng sau, vào các ngày 13, 14, 15 tháng 9 Âm lịch, chùa Keo lại mở hội mùa thu. Ảnh vnexpress.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét