Khi dựng gia phả họ Lê Văn (dòng họ của Tả quân Lê Văn Duyệt, Tả dinh Đô thống chế Lê Văn Phong) chúng tôi đã có những chuyến điền dã về 2 xã Long Hưng, Hòa Khánh (Tiền Giang) và thôn Bồ Đề, xã Đức Nhuận, H.Mộ Đức (Quảng Ngãi) là Tổ quán họ Lê để tìm hiểu lai lịch các ngôi mộ cổ, hiểu được sự thăng trầm cũng như những bi kịch mà lịch sử đã đè nặng lên họ tộc Lê Văn suốt mấy trăm năm.
Đức Tả quân Lê Văn Duyệt là bậc khai quốc công thần, là vị tướng giỏi phò chúa Nguyễn Ánh vạn dặm trường chinh từ khi chúa Nguyễn còn gian nan bôn tẩu cho đến lúc lên ngôi vua lấy hiệu là Gia Long.
Tả quân Lê Văn Duyệt giữ chức Tổng trấn Gia Định hai lần, lần thứ nhất trong những năm 1813-1816 và lần hai từ năm 1820 cho đến lúc qua đời. Sự phát triển vượt bậc về kinh tế, xã hội, văn hóa và quân sự của đất Gia Định trải dài từ Bình Thuận tới Cà Mau, Hà Tiên sách sử đã ghi nhận. Tài năng, công đức của Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt được người dân Nam Bộ hết lòng tôn kính. Ông mất năm 1832 nhưng chỉ hai năm sau thì "đất bằng dậy sóng".
Năm 1835, vụ nổi dậy chống lại triều đình của con nuôi Lê Văn Duyệt là Phó vệ úy Lê Văn Khôi kết thúc đẫm máu. Hàng ngàn sinh linh bị vua Minh Mạng ra lệnh xử chém, tạo nên ngôi mả Ngụy trên đất Phiên An. Lê Văn Duyệt dù đã chết cũng không tránh khỏi liên lụy. Sau khi các quan đại thần dâng biểu nghị án, vua Minh Mạng ra chỉ dụ:
"Tội Lê Văn Duyệt nhổ từng cái tóc mà kể cũng không hết, nói ra đau lòng, dù có bổ quan quách mà giết thây cũng là đáng tội. Song nghĩ hắn chết đã lâu, và đã truy đoạt quan tước, xương khô trong mả không bõ gia hình. Vậy cho Tổng đốc Gia Định đến chỗ mả hắn, san làm đất phẳng và khắc đá dựng bia ở trên khắc những chữ "Quyền yểm Lê Văn Duyệt phục pháp xử", để chính tội danh cho kẻ đã chết mà tỏ phép nước về đời sau, làm gương cho kẻ quyền gian muôn đời". Thế người nằm dưới mồ bị kết án 7 tội trảm, 2 tội xử giảo, 1 tội phát quân, cho san bằng và xiềng mộ.
Nhưng Tả quân Lê Văn Duyệt phạm tội gì mà mộ ông bị san bằng và cắm bia "sỉ nhục"; những phẩm hàm của ông, của thân sinh ông bị tước, bia mộ bị đục xóa, điền ruộng bị tịch thu, nhà thờ họ tộc tại làng Bồ Đề, H.Mộ Đức, Quảng Ngãi (Tổ quán họ Lê Văn) bị voi của quan quân Quảng Ngãi về tàn phá, và thảm kịch mấy mươi người là con cháu của ông bị xử trảm hàng loạt tại kinh thành Huế năm 1838?
Nguyên nhân vì: khi vua Gia Long lập di chiếu truyền ngôi báu, Lê Văn Duyệt đã phản đối việc vua bỏ dòng trưởng (của Hoàng tử Cảnh, chết năm 22 tuổi) để lập dòng thứ (Nguyễn Phúc Đảm tức vua Minh Mạng). Dù vua Gia Long không nghe theo nhưng Lê Văn Duyệt là vị khai quốc công thần hết sức tài giỏi và trung thành, nên vua vẫn tin cậy trao phó trách nhiệm phò tân quân (Minh Mạng). Do Lê Văn Duyệt có công dẹp giặc, an dân, mở mang đất nước giàu có, cường thịnh nhất là vùng Đồng Nai - Cửu Long (tức Gia Định, Nam Kỳ lục tỉnh)..., nên khi chính thức lên ngôi vua - dù không vừa lòng - Minh Mạng cũng phải đối xử cho đúng với công lao của ông. Nhưng sau khi Lê Văn Duyệt qua đời (1832), những người có trách nhiệm tại Gia Định như Bạch Xuân Nguyên, Nguyễn Văn Quế... đã đối xử bất công với những người thân tín của ông, khiến Lê Văn Khôi nổi loạn chiếm thành Gia Định. Lê Văn Duyệt tuy đã chết cũng bị đem ra xét xử và bị buộc vào tội "phản nghịch" như Lê Văn Khôi. Các quan muốn làm đẹp lòng vua, hùa nhau buộc tội Lê Văn Duyệt với những lời lẽ có vẻ cường điệu, vu khống như "Lê Văn Duyệt đã gọi mồ mả cha mẹ mình là "lăng", nói với người khác thì xưng là "cô", giải thích chức Tổng trấn như là Phó vương... toàn những tội phạm thượng, phản nghịch, bất trung phải bị chém đầu! (Lăng chỉ mồ mả của bậc đế vương; Mộ chỉ mồ mả của bề tôi; Cô gia hay Trẫm là tiếng vua tự xưng). Cũng như gán cho Lê Văn Duyệt là người "lạm dụng quyền thế" đã dùng quyền "tiền trảm, hậu tấu" để chém đầu Huỳnh Công Lý (cha một sủng phi của vua Minh Mạng) trước, rồi mới làm tờ trình về tội trạng gửi lên vua sau... Bi kịch họ Lê Văn quả thật hãi hùng!
Việc vua Minh Mạng xét xử Lê Văn Duyệt bất công đến nỗi chính con của ông là vua Thiệu Trị (1841, khi mới lên ngôi) đã ra lệnh đại xá cho Lê Văn Duyệt và cháu của Minh Mạng là vua Tự Đức (1848, khi mới lên ngôi) đã phục hồi quan tước, gia ơn cho con cháu các công thần nhà Nguyễn, trong đó có Tả quân Lê Văn Duyệt. Vua Tự Đức xem sớ cảm động ra chỉ dụ giải oan cho Tả quân và trả lại tước vị, phẩm hàm ngày trước đã ban cho ông và song thân ông. Quan làng Long Hưng, tỉnh Định Tường tìm ra Lê Văn Niên, con bà Lê Thị Hổ là cháu gọi Tả quân bằng cậu, trả lại 32 mẫu ruộng làm hương hỏa thờ phụng song thân Tả quân. Lại đón Lê Văn Thi là con cụ Lê Văn Dược, cháu nội Tả dinh Đô thống chế Lê Văn Phong, về cùng hương chức làng Bình Hòa xây nơi thờ tự Tả quân. Từ đó đến nay, Đền thờ Tả quân (lăng Ông) sau nhiều lần trùng tu và mở rộng, đã trở thành khu lăng mộ cổ kính và uy nghi tọa lạc ngay cạnh chợ Bà Chiểu, TP.HCM.
Chánh thất phu nhân của ông là bà Đỗ Thị Phẩn không bị kết tội. Sau ngày Tả quân qua đời, bà đã vào tu trong một ngôi chùa rồi mất ở đó, được an táng bên cạnh mộ Tả quân. Mộ song táng của Tả quân Lê Văn Duyệt và Chánh thất phu nhân Đỗ Thị Phẩn được đắp cao, xây lại đàng hoàng với tường thành kiên cố xung quanh. Trải qua hàng trăm năm, mưa nắng đã tạo nhiều vết rêu phong cổ kính trên khu mộ; nhưng bi kịch họ tộc Lê Văn vẫn không phai nhòa trong lòng người dân Gia Định.
Tả dinh Đô thống chế Lê Văn Phong là em ruột của Tả quân Lê Văn Duyệt. Ông theo anh mình phò chúa Nguyễn Ánh và lập được nhiều công trạng. Khi ông mất (1824), được tả quân đích thân xây lăng mộ. Gần 200 năm sau, chúng tôi mới tìm được nấm mộ cải táng nứt nẻ của vị võ tướng hiển hách này.
Tả quân Lê Văn Duyệt và em ruột Tả dinh Đô thống chế Lê Văn Phong là con của cụ Lê Văn Toại và bà Nguyễn Thị Lập. Ông Phong sinh tại làng Hòa Khánh, tỉnh Định Tường, năm Kỷ Sửu 1769. Ông theo anh mình phò chúa Nguyễn, đánh quân Tây Sơn, được phong đến chức Đô thống chế. Là người khỏe mạnh, giỏi võ, nhiều mưu lược, nên năm 1820, Lê Văn Phong được cử ra Bắc làm Phó tổng trấn Bắc thành.
Bài Tựa của gia phả họ Lê Văn, làng Bồ Đề, huyện Mộ Đức (Tổ quán họ Lê Văn) viết bằng chữ Hán, đề cập đến Lê Văn Duyệt và Lê Văn Phong như sau: Huynh Nam, đệ Bắc oai danh chấn/Tứ hiếu, thần trung tiết nghĩa cao. Dịch là: Anh trấn trong Nam, em trấn ngoài Bắc, lừng lẫy uy danh/Con tròn đạo hiếu, tôi vẹn lòng trung, nêu cao tiết nghĩa.
Lê Văn Phong có hai người vợ chính và các bà vợ lẽ. Ông có nhiều con, số chính thức ghi trong gia phả làng Bồ Đề là 27 nam, 4 nữ... Do Tả quân Lê Văn Duyệt không có con nên theo chỉ dụ của vua Gia Long, Lê Văn Duyệt lập con trưởng của Lê Văn Phong là Lê Văn Yến làm con thừa tự. Lê Văn Yến được vua gả con gái thứ mười là công chúa Ngọc Ngôn, trở thành phò mã đô úy.
Ở đất Bắc, ông Phong tự nghĩ mình ít học, khó giữ chức lớn nên xin được nghỉ. Vua Gia Long nhất quyết không chịu. Năm Minh Mạng thứ 4 (1824 - Giáp Thân), Lê Văn Phong về Huế dự chầu, sau đó về quê thăm gia đình, rồi bị bệnh qua đời, thọ 55 tuổi. Lê Văn Duyệt đứng ra chỉ huy việc xây dựng lăng mộ cho em mình tại thôn Tân Sơn Nhứt, tổng Dương Hòa Thượng, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Từ đó đến nay đã 187 năm, lăng mộ của Tả dinh Đô thống chế Lê Văn Phong có tồn tại với thời gian? Sau ngày dòng họ Lê Văn bị tàn sát, liệu còn con cháu họ Lê Văn nào trông nom, giữ gìn lăng mộ?
Sách Gia Định Xưa của Huỳnh Minh xuất bản trước năm 1975, ghi: "Lăng Tả dinh Lê Văn Phong, tọa lạc tại phía hữu đại lộ Cách Mạng, trong phạm vi xã Tân Sơn Hòa. Tương truyền lăng này do Lê Tả quân đứng trông nom xây cất, nên lăng này kiên cố và hùng vĩ". Học giả Vương Hồng Sển trong sách Sài Gòn năm xưa (trang 190 - NXB TP.HCM, 1997) viết: "Lăng Lê Văn Phong, sinh tiền tặng "Ông Tả Dinh" là em của Lê Tả quân. Mất trước tả quân, nên mộ phần kiên cố hùng vĩ, bởi do tả quân đứng trông nom xây cất. Chúng tôi mới tìm được trước ở trong hoa viên nhà ông quản lý Đông Pháp ngân hàng, sau vì đổi chủ nên mất tích. Bây giờ lọt vào đất quân sự, muốn vào phải xin phép... Nay ở về phía hữu đường Ngô Đình Khôi, khuất trong xa, phải cố tìm mới ra mối".
Căn cứ vào hai nguồn tư liệu trên, chúng tôi tìm kiếm dấu tích lăng mộ của Tả dinh Đô thống chế Lê Văn Phong "bên hữu đại lộ Cách Mạng", tức đường Nguyễn Văn Trỗi ngày nay, xưa kia có tên là đường Macmahon hay đường Ngô Đình Khôi. Với chi tiết "lọt vào khu đất quân sự", chúng tôi hiểu là khu vực sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 ngày nay.
Trong ngày giỗ kỵ Tả quân Lê Văn Duyệt mùng 1.8 năm Canh Dần, tại Lăng Đức Tả quân, chúng tôi gặp anh Đỗ Thủ Khoa (Việt kiều tại Mỹ), đã từng chứng kiến việc bốc mộ Lê Văn Phong. Chúng tôi ghi được các thông tin từ anh Khoa như sau: Lăng mộ hư hại nhiều và nằm cạnh văn phòng của tướng Đặng Văn Quang. Cần phá khu lăng và bốc mộ để mở rộng sân chào cờ và làm nơi đáp máy bay trực thăng. Lúc bốc mộ, cơ giới trục lên một cỗ quan tài lớn với nắp tròn cao như mâm xôi, hai đầu dưới nhỏ, đoạn giữa có cái Minh Tinh, gọi là "Tam gia triều nhũ" còn mới nguyên dù đã chôn cất hàng trăm năm. Ngoài di hài với trang phục triều đình, còn những di vật chôn theo như mão, áo, bao đai thắt lưng và cả đôi hia quan võ của ngài. Những di vật đó đã đem nhập vào viện bảo tàng. Còn di hài, anh Khoa nghe nói đưa về phía bên trái, cách khu lăng mộ cũ vài cây số. Thời gian đó là năm 1961, cách nay 50 năm.
Tháng 4.2011, Ban Quý tế Lăng Đức Tả quân đã tìm ra vị trí ngôi mộ cải táng của Lê Văn Phong, ở phía sau vách khu mộ Hoài Quốc công Võ Tánh, nằm trong đất quân sự, cổng 2 doanh trại quân đội, số 17 đường Hồ Văn Huê, P.9, Q.Phú Nhuận.
Ngôi mộ và bia mộ cải táng dưới chân mộ khắc chữ Việt: "Việt Nam Đại thần Lê Văn Phong chi mộ. Cải táng ngày 27.10 Tân Sửu (tức 4.12.1961)". Ở bình phong hậu đầu cũng có gắn bia đá hoa cương xám ghi: "Từ trần tháng 9 năm Giáp Thân 1824 Minh Mạng thứ 5. Linh vị, tiểu sử thờ tại Hưng Quốc Tự". Buồn thay, ngôi mộ xây bằng gạch xi măng nứt nẻ nằm trong miếng đất nhỏ bé, rác tràn ngập - lại là nơi lưu giữ hài cốt của vị đại thần Tả dinh Đô thống chế Lê Văn Phong.
Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tại TP.HCM hiện còn lưu giữ một số di vật tùy táng bằng kim loại đính trên mão, đai và trâm cài tóc của Lê Văn Phong, được lấy từ đợt cải táng, đưa về từ năm 1961.
Hậu duệ họ Lê Văn tại Tây Ninh, Củ Chi với ông tổ là Lê Văn Dược (con của Lê Văn Phong) hàng chục năm qua đã cất công tìm kiếm dấu tích khu lăng mộ tổ nhưng không có duyên tìm gặp. Nay, các ông Lê Minh Thành, Lê Tấn An và bà Lê Thị Bân (nguyên Bí thư Tỉnh ủy Tây Ninh) là con cháu đời thứ năm đã tìm về thắp hương cho ngài và bàn bạc với Bộ Tư lệnh Quân khu 7 cho cải táng về khu mộ họ tộc tại ấp Tháp, xã Thái Mỹ, huyện Củ Chi vào mùa Thanh Minh năm tới. Để vong linh ngài suốt trăm năm "thất lạc" sẽ về với cháu con, hương hoa ấm cúng...
Mới đây, người ta đã phát hiện ở chốn làng quê vùng sông nước Long Hưng, tỉnh Định Tường (nay thuộc tỉnh Tiền Giang) có hai ngôi mộ cổ, là mộ của ông Lê Văn Toại và bà Nguyễn Thị Lập - song thân của Đức Tả quân Lê Văn Duyệt và Tả dinh Đô Thống chế Lê Văn Phong.
Theo Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, năm 1781, trong một đêm mưa to gió lớn, trên đường trốn chạy sự truy đuổi của quân Tây Sơn; thuyền của Nguyễn Phúc Ánh bị chìm gần vàm Trà Lọt. Gia đình ông Lê Văn Toại phát hiện chèo xuồng ra cứu thoát và đưa về nhà tá túc. Thưởng công cứu giá, Nguyễn Phúc Ánh nhận con trai trưởng của ông Toại và bà Nguyễn Thị Lập là Lê Văn Duyệt (17 tuổi) vào quân ngũ, sau phong chức Cai cơ coi sóc nội binh.
Lê Văn Duyệt và em là Lê Văn Phong đã theo phò Nguyễn Phúc Ánh nam chinh bắc chiến, lập nhiều công lao. Sau ngày chúa Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi, anh em Lê Văn Duyệt - Lê Văn Phong được phong tước hàm và giữ những vị trí quan trọng trong triều đình nhà Nguyễn. Lê Văn Duyệt là Tổng trấn Gia Định thành, Lê Văn Phong là Hiệp trấn Bắc thành.
Năm 1804, năm Gia Long thứ 3, nhân Đức Tả quân Lê Văn Duyệt được phong tước hàm, ông Lê Văn Toại có ra kinh thành Huế chầu vua Gia Long, được vua phong hàm "Vũ Huân tướng quân chưởng cơ hầu" và ban khăn áo.
Năm Minh Mạng nguyên niên (1820), ông Lê Văn Toại qua đời, vua Minh Mạng ban tặng chức Thống chế hàm Chánh nhị phẩm, tên thụy là Cung Tỉnh. Mộ ông Lê Văn Toại ở thôn Thạnh Hòa, làng Long Hưng, tỉnh Định Tường, được Đức Tả quân Lê Văn Duyệt lập và dựng bia tháng hai năm Tân Tỵ (1821), chữ khắc trên bia: Hiển khảo Vũ Huân Tướng Quân Khâm sai Chưởng cơ tặng Thống chế Lê hầu chi mộ.
Vợ ông Lê Văn Toại là bà Nguyễn Thị Lập qua đời năm 1813. Đức Tả quân dựng bia năm Giáp Tuất 1814, chữ khắc trên bia: Hiển tỷ Khâm sai Chương cơ Lê hầu Chánh thất Nguyễn phu nhơn chi mộ. Năm Minh Mạng 8 (1827), ông Lê Văn Toại được truy tặng Tráng võ tướng quân Trụ quốc Đô thống. Bà Nguyễn Thị Lập được gia tặng Tráng võ Tướng quân Trụ quốc Đô Thống Lê công Chánh thất, Nhứt phẩm phu nhơn, thụy là Trinh Thuận.
Cùng với hai ngôi mộ thân sinh Đức Tả quân trên nền gạch cao, xung quanh có nhiều ngôi mộ hợp thành một khu mộ rộng hơn ngàn mét vuông, chia làm hai vùng và thành nơi thờ cúng ông Lê Văn Toại, bà Nguyễn Thị Lập của con cháu họ Lê tại Long Hưng.
Mộ vọng Đức Tả quân với bình phong Bạch Hổ - Ảnh: D.H.P
Sau ngày Đức Tả quân Lê Văn Duyệt tạ thế (1832), một ngôi mộ vọng Đức Tả quân có bình phong đắp hình Bạch Hổ, được dân làng lập phía trước mộ bà Nguyễn Thị Lập cách vài mươi thước, để tưởng nhớ và tri ân một hậu duệ họ Lê kiệt xuất, một danh nhân của đất Định Tường (Tiền Giang ngày nay).
Thế nhưng, vụ án Lê Văn Khôi chống lại triều đình (1833-1835) và chỉ dụ vua Minh Mạng buộc tội họ Lê Văn đã xóa đi tất cả công lao, phẩm hàm vua ban cho thân sinh Đức Tả quân; khiến con cháu họ Lê tại làng Long Hưng phải dắt nhau trốn khỏi quê nhà, thay tên đổi họ tránh họa tru di. Tất cả ruộng đất của họ tộc Lê Văn bị tịch thu sung vào công điền.
Theo thời gian, hai ngôi mộ thân sinh Đức Tả quân với mộ bia bị quan làng đục bỏ phẩm hàm vua ban, đã nhuộm sắc rêu phong. Các ngôi mộ đá nằm trong khu mộ cũng trở nên hoang phế. Lối đi đầy cỏ dại. Cây cảnh hoang tàn. Vắng lặng.
Đến đời vua Tự Đức (1849), nhờ các vị quan triều đình dâng sớ tấu xin mà án oan của họ Lê Văn mới được giải, con cháu không còn bị truy sát, ông bà tổ tiên lại được phục hồi tước hàm vua ban. Quan tỉnh Định Tường vâng mệnh vua, tìm được ông Lê Văn Niên (con bà Lê Thị Hổ, em gái út của Đức Tả quân), giao lại 32 mẫu ruộng để làm hương hỏa phụng thờ thân sinh Đức Tả quân. Lại tìm ra ông Lê Văn Thi (cháu nội Tả dinh Đô Thống chế Lê Văn Phong) đưa về Gia Định cùng làng xã xây dựng nơi thờ tự Đức Tả quân, sau nhiều lần trùng tu nay là Lăng Đức Thượng công tại quận Bình Thạnh, TP.HCM.
Họ tộc Lê Văn tại làng Long Hưng chịu kiếp nạn 13 năm, sau khi án oan được giải, có người trở về dựng miếu thờ họ tộc, hương khói tổ tiên, mả mồ ấm lại. Số đông con cháu họ Lê bỏ trốn trước đây đã không về lại Long Hưng vì án tru di là nỗi ám ảnh kinh hoàng.
Trong thời Pháp thuộc, một lần nữa con cháu họ Lê Văn trên đất Long Hưng phải rời quê quán ra đi. Rồi chiến tranh, loạn lạc triền miên, khu mộ họ Lê Văn làng Long Hưng rừng cây che khuất, ít người lui tới, chìm vào lãng quên.
Phải đến sau ngày chiến tranh kết thúc, dân chúng trong vùng trở về phát hoang, tìm được dấu tích khu mộ xưa, đã trình báo chính quyền rồi lập nhà thờ tre lá khói hương cầu Đức Tả quân, cầu "ông Cố, bà Cố" cho được an cư lạc nghiệp trên vùng đất trải nhiều binh biến. Hai ngôi mộ cổ rêu phong còn đó, hai tấm bia đá xanh bị đục phá còn đó, lưu lại đời sau dấu tích một thời của họ tộc Lê Văn vừa hiển vinh vừa bi tráng.
Tưởng nhớ Đức Tả quân Lê Văn Duyệt và song thân của ngài, dân làng Long Hưng và bá tánh thập phương góp công sức, tiền bạc dựng nhà thờ mới, tu bổ và mở rộng diện tích khu thờ tự rộng gần một mẫu. Diện tích nhà thờ thân sinh Đức Tả quân nằm gọn trong diện tích đất ruộng hương hỏa 32 mẫu trước đây được quan tỉnh Định Tường trả lại. Nhưng 31 mẫu đất còn lại nay là đất ruộng, vườn cây, ao cá của người dân trong vùng.
Hậu duệ họ Lê Văn ở làng Long Hưng nay chẳng còn ai!
Năm 2006, nhà nghiên cứu Lý Việt Dũng (TP.HCM) đã tìm về khu mộ nhà thờ thân sinh Đức Tả quân tại làng Long Hưng, dò đọc bia ký trên mộ cụ Lê Văn Toại và cụ bà Nguyễn Thị Lập, truy được nhiều chữ bị đục bỏ trước đây, đã làm hai tấm bia đá xanh cùng kích cỡ, cùng nét hoa văn, khắc chữ mạ vàng trên bia dựng cạnh bên mộ ông, mộ bà.
Diệp Hồng Phương
Thanh Niên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét