Samuel Baron từng sang Đông Kinh (tên gọi của Hà Nội thời Lê - Trịnh). Ông có nhiều ghi chép tỉ mỉ về tình hình kinh tế, xã hội của VN trong thời gian lưu trú tại đây.
Họa hoằn lắm, đức vua mới du ngoạn; mỗi năm một lần, vào đầu tháng giêng, được ngày lành ngài xuất cung cho thần dân chiêm bái.
Hôm ấy, từ lúc giời chưa sáng, vua Lê, chúa Trịnh, thế tử các triều thần, đi riêng đến một ngôi đền làm ở phía nam kinh thành, có ba cửa vào.
Đến tám giờ thì súng thần công bắn một phát; chúa Trịnh, thế tử, chiếu lệ vào mừng vua; còn các quan theo lễ vào bái mạng. Nghi tiết lặng lẽ nhưng kính cẩn tôn nghiêm. Các quan vừa lễ xong thì súng liền bắn tiếng thứ hai: mọi người hộ giá vua đến cửa đền; ngài đập cửa thì quân canh hỏi ngài là ai. Ngài xưng là “vua” thì cửa mở. Ngài không vào, ngài đến gõ cửa thứ hai rồi cửa thứ ba. Cửa này mở thì chỉ có vua là được vào trong đền thôi. Trên kia đã nói ngài trai giới từ mấy hôm trước: vào đến ngài khấn và lễ.
Lễ xong thì ngài lên ngồi một chiếc ngai thếp vàng đặt trong sân đền. Đoạn người ta dâng ngài một cái cày có mắc trâu. Ngài cầm lấy bắp cày tỏ ý là ngài cũng dự vào việc cày bừa. Ngài giúp cho các nông gia gặp sự may mắn và có ý khuyên nhủ ai nấy đều nên chăm chỉ, cần mẫn, biết lo xa nhất là trong việc canh nông và như thế sẽ được giời đền công làm lụng khó nhọc.
Có người bảo hôm ấy có làm lễ dâng “bát” cho vua, nhưng có người lại bảo lễ ấy cử ngay vào hôm ngài đăng quang. Lễ như thế này: trên một án thư sơn son có đặt mấy cái bát trong đựng mấy ngự phẩm đã nấu chín rồi: bát thứ nhất đựng cơm trắng, bát thứ hai đựng cơm vàng và bát thứ ba đựng nước, bát thứ tư đựng rau xanh. Bát nào trên miệng cũng bịt giấy dán kín để không phân biệt được bát nào riêng ra bát nào. Đức vua chọn lấy bất cứ một cái bát nào: nếu được bát đựng cơm vàng thì thần dân mừng rỡ vì đó là điềm mưa thuận gió hòa; nếu là bát cơm trắng thì mùa màng cũng khá; nếu là nước lã thì gạo kém rồi; nếu vua chọn phải bát rau xanh thì dân mất mùa, đói kém, chết hại rất nhiều.
Lễ thế này là xong, súng bắn phát thứ ba, vua lên kiệu, có nhiều lọng che và được tám tên lính khiêng qua các phố về đền cùng, theo sau là các quan mặc áo thụng đi bộ. Dọc đường vua vứt tiền cho dân nghèo đói ở các làng vua ngự qua, hay bọn cùng khốn đứng xem loan giá.
Cách sau vua một ít là chúa Trịnh ngồi voi to, có nhiều ông hoàng trong phủ liêu hay bên tôn thất, có nhiều võ tướng và đại thần đi kèm ai cũng ăn mặc lộng lẫy, lại thêm có ba bốn nghìn kỵ binh, trăm rưởi hay một trăm thớt tượng đóng bành lộng lẫy, một vạn bộ binh mặc quân phục may bằng hàng thêu tay. Thành thử về nghi vệ chúa lấn hẳn vua. Chúa cùng về một đường với vua, nhưng khi đến chỗ rẽ thì chúa đi quặt về vương phủ và để vua Lê thẳng lối về cung.
Tế kỳ đảo
Tế kỳ đảo một năm một lần, nhất là khi nào có dịch. Người ta cho rằng có dịch tễ là tại các vong hồn những kẻ muốn bội phản nước nhà hay rắp tâm định mưu sát vua, chúa hoặc các tôn thần đã bị hành hình và muốn trả thù dương gian bằng cách phá hại đồ vật hay bạo động hiểm ác.
Muốn tránh những tai ương ấy, người ta mới nghĩ ra cách tế kỳ để ngăn ngừa lũ quỷ dữ và xua đuổi giống tà ma. Chúa sai mở lịch chọn ngày, thường thường cứ tế đúng vào hôm 25 tháng hai tây lịch. Đàn tràng đã sửa soạn xong thì chúa cùng các hoàng thân và các quan đi ra võ trường. Chúa cưỡi ngựa ngồi voi hay ngự trên một chiếc kiệu có bánh do mấy tên trai lực lưỡng đẩy; ngự kiệu, có tàn che. Đi hộ giá có đến một vạn sáu hay một vạn tám bộ binh, không kể vô số ngựa voi đóng yên, đóng bành cẩn thận.
Trên bãi cát đã dựng nhiều gian nhà tre và nhiều chiếc lều để che mưa nắng. Quân vệ binh của chúa Trịnh đều là những trai tráng lực lưỡng vạm vỡ, có vài người cao lớn ghê gớm cũng mặc áo và đội mũ một kiểu với các quan, nhưng vải thô hơn.
Riêng để hầu chúa có mười con ngựa và sáu con voi yên bành có nạm vàng toàn khối và đỏ ối khác xa những ngựa voi thường; cờ xí nhiều vô kể; trống, chiêng, phường bát âm, đủ các thứ dùng trong triều hay ra mặt trận cũng bầy liền cạnh đấy. Tất cả những bài trí này, giữa một đám người đến xem đông vô số làm cho bãi cát có vẻ huy hoàng và trọng đại. Sửa soạn xong thì ba tiếng trống thong thả đánh, tiếng trước cách tiếng sau khá lâu. Nghe hiệu trống chúa Trịnh từ võ trường đến chỗ lính xếp hàng và vào trong gian nhà đã dựng sẵn cho ngài.
Rồi đến ba tiếng chiêng cũng thong thả đánh như trống. Chúa bắt đầu, dâng lễ cho các quỷ ác và ma dữ. Cũng như trước khi hành hình ta cho phạm nhân ăn uống tử tế. Đoạn chúa mới đọc văn kể tội chúng đã gây bệnh hoạn trong xứ, đã làm ngựa voi ngài chết, tội trạng ấy cũng đủ làm cho chúng phải đuổi ra khỏi xứ.
Đoạn người ta bắn ba phát súng lớn; và mỗi loạt súng hỏa mai, súng tay để xua đuổi tà ma. Đến trưa thì ai nấy cũng ăn uống linh đình. Chiều tối thì chúa hồi cung, cũng theo nghi vệ lúc đi, rất sung sướng đã thắng được kẻ nghịch.
Vua Lê không bao giờ dự lễ này. Có lẽ vì chúa sợ rằng quân lính, có điều gì bất mãn với mình nhân lúc tụ họp đông nổi loạn phế mình để khôi phục lại quyền vua.
Samuel Baron
Nguyễn Trọng Phấn (dịch)
Trọng nghĩa tín trong thương mại
Một phiên chợ xưa ở miền Bắc do người Pháp chụp - Ảnh: Tư liệu
Thương nhân Pháp Jean Baptiste Tavernier (1605 - 1689) đã dành nhiều trang viết về thương mại, thổ sản và quân đội xứ Đàng Ngoài.
Nguồn lợi lớn từ tơ lụa, trầm hương
Những nguồn lợi lớn là tơ lụa và gỗ trầm hương bán cho dân Hà Lan và dân các nước khác. Trong tập du ký về Ấn Độ, tôi đã nói về tính chất gỗ này: thứ tốt và mỡ có thể bán một nghìn đồng một cân; thứ xấu không mỡ thì một cân giá có ba đồng thôi và chỉ có dùng để làm hộp nhỏ hay hột đeo cổ. Tất cả những dân Hồi Hồi, nhất là những dân để râu dài (Thổ Nhĩ Kỳ, Albania) rất mến chuộng gỗ trầm; khi có khách đến, họ mang lò hương ra, bẻ một chút trầm bỏ vào lò khói và hương trầm quyện lấy râu họ và họ giơ tay lên trời kêu Elhemed Illahh! Gỗ mỡ thì một chút nhỏ như hạt đậu và trước khi đốt đem nhúng vào nước cũng tỏa nhiều khói hơn một miếng trầm xấu to bằng nắm tay.
Năm 1642, khi John IV làm vua Bồ Đào Nha (từ năm 1640 - 1656) thì kiều dân Bồ Đào Nha sang Nhật Bản tìm đặng vật biếu: quý nhất là một cây gỗ trầm cao sáu thước và tròn hai thước, mua hết bốn vạn pardos, vào khoảng năm vạn bốn nghìn tiền ta. Khi qua Ba Tư tôi có thấy cây gỗ ấy ở trụ sở các cha Augustins đem từ Nhật về. Vì không đem về tiến vua Bồ Đào Nha được, họ định đem dâng vua Ba Tư, nhưng khi đi đường có bão, các hàng hóa bị ướt, cây trầm thấm nước biển, mọi thứ đều hư hỏng cả, cây trầm bị ẩm và mục mất một phần nên dù có đem sang Ispahan (Iran) cũng không dâng vua Ba Tư được nữa. Cố bề trên dòng Augustins có cưa cho tôi một miếng đem về Paris cho ông Brunier, là lương y của nguyên Quận vương d’Orléans.
Buôn bán với người Đàng Ngoài biết trọng tín nghĩa và thực thà, thích và lợi hơn với Hoa kiều sẵn lòng lừa ta nếu có thể được vì thật khó mà biết mánh khóe của họ để mà đề phòng. Riêng tôi đối với Hoa kiều trong thương trường luôn bị thiệt; khi họ buôn mà không có lợi thì họ gỡ ra bằng cách này: trong giao dịch họ có ba thứ tiền; tiền đúng phân lạng, tiền nhẹ hơn bốn phân, tiền nhẹ hơn tám phân. Nếu họ không muốn mua hàng của mình thì họ đem thứ tiền nhẹ nhất đã xén bớt cạnh đi để trả và như thế mình bắt buộc phải hủy giao kèo. Trên thế gian này không có bọn lái buôn nào tính khôn bằng; cái gì họ cũng mua, không từ chối thứ gì đi mua cả giày cũ, mình bán một chiếc, họ cũng mua không hỏi tại sao mình không bán chiếc kia. Người Đàng Ngoài thì buôn bán thực thà hơn nhiều và tôi rất vui thích được giao thiệp với họ. Tôi đã nói họ không có mỏ vàng, mỏ bạc và họ không đúc tiền, để buôn bán họ dùng những miếng vàng đem ở Tàu sang, có miếng giá bán ba trăm đồng tiền ta, có miếng sáu trăm đồng. Họ cũng tiêu thụ những thỏi bạc mua từ Nhật Bản sang; khi phải trả những số tiền nhỏ, họ cắt những thỏi này ra thành những miếng vụn đã sẵn có cân giống như cân La Mã để cân, hoặc họ trả bằng tiền ngoại quốc, nhất là tiền Tây Ban Nha. Vàng và bạc mua được ở Tàu hoặc Nhật sang là do số tơ, hương xạ và trầm hương họ bán ra rất nhiều.
Quân đội xứ đàng ngoài
Dưới đây là số lính mà chính mắt em tôi nom thấy năm 1643 - năm chúa Trịnh định cắt binh đánh chúa Nguyễn về việc dân Đàng Trong đã cướp mất mấy chiếc chiến thuyền, nhưng việc ấy lại yên vì chúa Nguyễn có sai sứ ra giảng hòa nên chúa Trịnh lại thôi.
Đạo quân sắp sửa lên đường lúc bấy giờ có tám nghìn ngựa, chín vạn bốn nghìn bộ binh, bảy trăm hai mươi hai con voi chiến và khiêng tải đồ đạc, ba trăm mười tám chiến thuyền, ghe dài hẹp, chạy bằng buồm và bơi chèo.
Đời lính thì vất vả và bất lợi lắm vì phải đi suốt đời, lại không được làm thêm nghề gì để nuôi vợ con. Những hôm không phải phiên canh thì họ lại phải đi theo chủ súy bất cứ đến đâu và mỗi tuần phải đi tập bắn cung hai lần, mỗi một đội có từ một trăm đến một trăm ba mươi người. Trong đội hai người bắn giỏi được thưởng; nhất thì hai tháng lương, nhì thì một tháng, trả bằng thóc. Còn ai bắn dở nhất thì phải phạt gác nhất bội nhị. Các vị đội trưởng đều chăm nom cho binh khí của lính luôn luôn được bóng và sạch như bạc: nếu khí giới han gỉ thì lần thứ nhất lính bị trừ tám ngày lương, lần thứ hai bị đòn phạt.
Lính thủy cũng bị đối đãi từa tựa như bộ binh. Vào những ngày nhất định, cũng phải lên chiến thuyền để tập chèo; vì các vua chúa ở đây thích xem những cuộc bơi thuyền chiến và các ngài đến ngự vài ngày tại một tòa nhà cất trên bờ sông. Đội nào thắng thì viên đội trưởng vui vẻ hết sức, được vua thưởng một con voi. Trong lúc chèo, vì cố sức cũng có người chết tay vẫn cầm bơi chèo; như thế thì vua ban thêm cho đội trưởng ba tháng lương, cho vợ con tên lính chết hai năm tiền công.
Số tiền chuẩn cấp ít ỏi lắm nhưng vợ những người lính này, lấy chồng từ ngày còn nhỏ, đã quen làm lụng như những người ở giai cấp dưới và đã học thêm được một nghề để gánh vác gia đình. Các đội trưởng còn phải tập cho voi chiến không sợ hỏa pháo; phải xây trên bờ sông bờ bể những gian nhà để kéo thuyền chiến lên và che cho khỏi mưa bão. Tướng sĩ mỗi tháng chỉ được nghỉ bốn ngày; hai ngày vào lúc thượng tuần, hai ngày vào trung tuần.
Cảnh thiết triều của vua Lê thế kỷ 17 - Tranh: T.L
Tang lễ của một vị vua nhà Lê đã được thương nhân Pháp Jean Baptiste Tavernier (1605 - 1689) ghi lại.
Tuy đức vua nhà Lê thời này không có uy quyền và tất cả thế lực đều vào tay chúa Trịnh, ngài vẫn được thần dân tôn trọng và triều đình vẫn được rực rỡ oai nghi. Ngày rằm và mùng một, các đình thần bận triều phục vào lễ vua. Chúa Trịnh trước kia cũng phải vào dự lễ bái vua, nhưng dần dần ngài đã biết cách xin miễn và cử một người khác đi thay! Vào chầu vua, quan phải bận phẩm phục màu tím, quân đi hầu cũng phải mặc áo đồng màu.
Mỗi năm vào dịp Tết Trung nguyên, vua ban thưởng cho các đình thần và con cháu các vị công thần vàng bạc; phóng xá cho tội nhân.
Bao giờ cũng vậy, cứ đến ba ngày cuối năm, bốn mươi quan đại thần đi bắt các quan cao thấp văn lẫn võ tuyên thệ lúc nào cũng trung thành với đức vua và nếu biết có cuộc âm mưu hại đến long thể, đến cuộc trị nguy của quốc gia thì phải đi tố cáo. Nếu kẻ đi báo đã làm quan thì đức vua có ban thưởng hay không là tùy ý, nếu là dân dã thì được thưởng năm mươi lạng vàng và năm trăm lạng bạc.
Đám tang nhà vua
Khi vua băng hà thì người ta đem ướp tử thi ngài ngay và đặt lên long sàng. Trong sáu mươi lăm ngày dân chúng được phép chiêm ngưỡng. Vẫn hầu hạ, dâng cơm như khi ngài còn sống; cơm cúng xong thì một nửa đem biếu các sư và một nửa đem bố thí cho người nghèo đói.
Khi ngài vừa tắt nghỉ thì chúa Trịnh báo tin ngay cho các quan đầu các đạo và định thời hạn để tang là bao lâu: thường thường thì quan võ và quan án ba năm; tôn thất sáu tháng; triều thần sáu tháng và dân sự ba tháng. Trong ba năm để tang vua, bỏ hết các cuộc vui trừ lễ đăng quang tân quân.
Những món ăn dâng vua mới đều đựng trong đĩa phủ sơn đen; vua cạo đầu và đội mũ gai. Các hoàng thân và bốn mươi quan đại thần cũng để tang như vậy đến khi nào rước linh cữu xuống thuyền đem đi an táng một nơi đã định mới thôi. Ba quả chuông đặt trên một ngọn tháp cũng đánh mãi đến khi linh cữu rước xuống thuyền.
Hôm tam nhật, các quan mới được vào làm ai điếu tiên vương và từ hôm thứ mười giở đi dân sự mới được vào chiêm bái. Trong thời hạn sáu mươi lăm ngày này, chúa Trịnh sửa soạn tang lễ; vì lễ càng rực rỡ bao nhiêu chúa càng được tiếng bấy nhiêu.
Từ cung ra đến bến đậu thuyền chở linh cữu, đi mất hai ngày đường và đường che vải tím là màu của vua. Nhưng cũng con đường này đám tang đi về mất những mười sáu ngày. Cứ cách một phần tư dặm lại có dựng một cái quán có chứa nước uống và dựng bếp để hút thuốc. Lúc vua mới trở về thì số vải nói trên được cuộn lại và đem về phân phát cho các nhà sư.
Đám tang đi theo thứ tự như sau: Hai người đi đầu là cấm binh vẫn canh gác cửa cung hai tay cầm hai cái chùy; chùy chứa đầy pháo bông; đi trước hô tên vua lên. Mười hai người đi sau là mười hai người đầu trong bọn thủy binh kéo linh xa trên có viết tên tiên vương. Rồi đến một đoàn mười hai con voi: bốn con đầu, có bốn người cưỡi tay cầm cờ của vua; bốn con sau có đóng bành; mỗi con mang sáu người vác súng hoặc cầm hỏa thương (? lance à feu), bốn con cuối mang bốn cái hòm; hai hòm đầu thì bịt kín mặt đàng trước và hai bên đều lồng kính; hai hòm sau thì có sáu mặt và bịt lưới thép hoặc cửa kính.
Tiếp vào đấy là một quan Đại tư mã cưỡi ngựa, theo sau có hai quan hầu cũng ngồi ngựa. Liền đấy có sáu cặp ngựa không người cưỡi, nhưng mỗi con có một quan vệ úy kèm giữ. Sáu con ngựa đầu yên cương rất quý giá, hàm thiếc và các vật dụng kim khí ở yên cương đều bằng vàng, yên thêu chỉ vàng; sáu con sau yên cương cũng nạm vàng.
Đoạn thứ năm là xe linh cữu vua có tám con hươu đã luyện thuần thục kéo; mỗi con có một quan vệ úy đi kèm giữ. Tân vương đi theo sau linh cữu, bận sa tanh trắng, đầu đội mũ rơm; các vương đệ cũng vậy. Chung quanh có phường bát âm. Sau các vương tử là các phi tần, công chúa bận sa tanh trắng, có các mệnh phụ thể nữ theo hầu bận màu tím. Chung quanh lại có phường bát âm. Rồi đến các thân vương mặc áo tím, mũ rơm; bốn quan tổng trấn vai vác gậy quàng một cái túi vàng là tiền các trấn đem về dâng liệu để tiêu dùng dưới hoàng tuyền.
Theo sau còn hai chiếc xe, mỗi xe tám ngựa kéo; trên mỗi xe có một hòm đầy vàng bạc và đồ quý giá để tiên đế đem sang chi dùng thế giới bên kia. Đi đoạn hậu là văn võ bách quan, một phần cưỡi ngựa, tùy theo chức phẩm.
Linh cữu ra đến bến Bồ Đề thì khiêng xuống thuyền có sáu quan thái giám đi hộ tống, chở đến chôn tại một nơi rất kín. Các quan thái giám phải thề là giữ kín không cho ai biết chỗ lăng vua; một lẽ vì sợ có kẻ đến đào trộm lấy bạc vàng gấm vóc chôn theo nhiều lắm, nói là để tiên đế dùng.
Jean Baptiste Tavernier (1605 - 1689) là một lữ khách và cũng là một thương nhân buôn ngọc người Pháp vào thế kỷ 17. Trong khoảng từ năm 1630 - 1668 ông đã thực hiện 6 cuộc hành trình đến Ba Tư và Ấn Độ. Vào năm 1675, Tavernier theo lệnh của vua Louis XIV - khách hàng quen của ông ta, đã cho xuất bản Les Six Voyages de Jean-Baptiste Tavernier (Sáu cuộc hành trình, 1676) .
Jean Baptiste Tavernier (1605 - 1689) là một lữ khách và cũng là thương nhân buôn ngọc người Pháp vào thế kỷ 17.
Ông cùng nhiều người phương Tây dành những trang viết về xứ Đàng Ngoài được Nguyễn Trọng Phấn dịch, đăng trong cuốn Xã hội VN từ thế kỷ 17.
Mở tiệc đăng quang và ban thưởng
Khi đức vua băng hà, các quan tôn ông hoàng nào, được vua chọn và nói cho biết, lên ngôi. Chúa Trịnh cùng các võ quan, nội các viện, các quan đô tổng binh, thừa chính sứ đến tư thất tân vương, dâng áo bào để ngài mặc, rồi rước vua Lê Thần Tông lên mình voi đến chính điện đã phủ vóc vàng và vóc bạc, tân vương ngự lên ngai, các quan đều phủ phục rồi đứng dậy cúi đầu (vái ngài), giơ hai bàn tay chắp liền lên trời và tuyên thệ trung thành với ngài. Vua Lê Thần Tông ban cho mỗi vị bốn lạng vàng và sáu lạng bạc, chúa Trịnh được hai mươi lạng vàng và bốn mươi lạng bạc. Quan đứng đầu nội các được mười lạng vàng và hai mươi lạng bạc.
Xong rồi thì bắn ba loạt thần công đặt chung quanh thành và ba loạt súng trường đặt trong một cánh đồng gần đấy (có ba vạn lính cả bộ lẫn kỵ).
Tân vương liền ngự kiệu; chúa Trịnh và quan tổng lý nội các cưỡi ngựa đi đầu tiến vào nội cung. Các vương phi, công chúa, các mệnh phụ đến lạy chào! Xong rồi các quan vào dự tiệc yến. Tiệc yến vãn đến tuồng hát, đốt pháo bông suốt đêm.
Sáng hôm sau, ba vạn lính hôm trước vẫn tề tựu ở chỗ cũ rất chỉnh tề, các võ quan đều về kinh đông đủ. Tân vương ngự kiệu mười sáu người khiêng, có chúa Trịnh và quan tổng lý nội các cưỡi ngựa đi dẫn đầu, ra khỏi cung, theo sau có nhiều võ quan đi bộ. Kèm với kiệu, có bọn con hát múa chung quanh, có phường bát âm thổi sáo, thổi kèn, đánh trống ầm ĩ, vang trời. Ra đến chỗ dàn binh, tân vương bước xuống kiệu và ngự lên trên một thớt voi trận đã dạn với tiếng súng và pháo thăng thiên. Tân vương ngự voi ra giữa ba quân và các võ tướng ra tuyên thệ. Ngài ban cho chủ tướng mỗi người một lạng vàng và hai lạng bạc; cho mỗi võ quan tùy thuộc một lạng bạc và nửa lạng vàng. Lính mỗi người được thưởng hai tháng lương. Nhận thưởng rồi thì quân lính bắn súng đoạn rút về trại đã dựng sẵn, ăn uống suốt một đêm. Đức vua cũng đến ngự tại một tòa lầu bằng gỗ sơn son thếp vàng dựng trong cánh đồng ấy. Ngài ngự đêm ở đấy, trước yến tiệc, sau xem pháo thăng thiên và con hát vui ca nhảy múa.
Hôm sau thì tân vương ngự voi về thành. Về đến cung, ngài ra ngự ngai và ban thưởng cho những thợ đã chế ra pháo bông, bọn ca vũ và tất cả những người đã tổ chức nên các cuộc vui tối hôm trước và đã làm cho ngày hội ấy được linh đình. Rồi ngài cho phép chúng dân và hai đại biểu phường buôn, phường thợ vào bệ kiến. Hai người đọc chúc từ, thay mặt dân sự Kẻ Chợ (Hà Nội) nguyện trung thành với ngài; vua ban thưởng cho phường buôn năm mươi lạng vàng và ba trăm lạng bạc, phường thợ hai mươi lạng vàng và một trăm lạng bạc. Dân sự ra về tha hồ mà mở tiệc ăn uống, mở hội chèo hát bỏ thêm tiền riêng ra để giải trí trong hơn một tuần.
Vua thăm người nghèo, giảm thuế
Vài bữa sau thì có các đoàn đại biểu các thôn xã ở xa đến kính mừng vua và tuyên bố trung thành với ngài; những tỉnh nào xưa nay vẫn một lòng với nhà Lê thì được xá thuế một năm; còn những nơi đã hưởng ứng với loạn thần chỉ được giảm có sáu tháng. Bọn tù nợ cũng được vua điều đình với chủ nợ và giảm cho có khi một nửa số tiền nợ.
Số súc vật bị đem giết để cúng tế nhiều vô kể. Số tiền vua phát ra để mua vải vóc dùng trong việc thờ cúng, để mặc cho các tượng thần, vải màu da cam để phát cho các sãi cũng hàng vạn. Ngài phát rất nhiều tấm vải xanh màu lục cho những kẻ nghèo khổ đã đến ở nhờ các chùa cũng như những người cùng khốn bên ta đến ở nhờ các dưỡng đường. Chính đức vua trong tuần thứ nhất này cũng đến chùa, sống kham khổ và đi thăm các người nghèo khổ trong các chùa khác và bố thí cho họ; hết tuần đầu ngài sai dựng một ngôi chùa tại một chỗ ngài đã chọn.
Đầu tuần thứ hai thì ngài cưỡi voi trận, có các võ quan ở triều và một vạn hai nghìn người lính đã tuyển lựa riêng đi hộ giá, ngự đến một cánh đồng rộng, tại đấy đã lập sẵn ba tòa lầu: một tòa cho vua, một tòa cho chúa và một tòa cho quan đứng đầu nội các và vô số nhà nhỏ cho các người tùy giá. Ba tòa lầu dựng bên bờ sông; trên mặt sông đã sắp sẵn nhiều thuyền sơn son thếp vàng rực rỡ; có một chiếc “thủy sư” vừa lớn vừa đẹp hơn cả. Bọn bơi thuyền đều ăn vận tử tế; vì bọn này đều là binh lính hoặc thường dân, được tự do chớ không như bên ta bọn chèo thuyền chiến là nô lệ hoặc chịu án khổ sai.
Trong bảy hôm vua ngự ở đây, ngài xem các cuộc thủy chiến, các cuộc bơi chải. Thuyền nào bơi hơn các thuyền khác thì được thưởng. Hết tuần thứ hai này, trước khi ngự về cung, tân vương ban cho thủy binh hai tháng lương, cũng như ngài đã ban cho bộ binh hai tháng lương hôm đăng quang.
Hết tuần ngài ngự về cung; tùy giá cũng theo thứ tự như lúc đi. Ngài ngự vào nội cung, chỉ có các quan mới đi theo, yến ẩm với các phi tần đến hết tháng. Đêm nào cũng đốt pháo bông trước các cung điện của các bà phi, các quan thị cũng nhập bọn với phường hát, phường múa để làm trò cho vui.
Những sản vật của xứ Bắc kỳ là một phần trong ghi chép của nhà truyền giáo người Ý G.F de Marini (1608 - 1682) về VN.
Người Đông Kinh (*) đã khôn ngoan, khéo léo từ khi người Bồ Đào Nha, Hà Lan và các nước lân cận đến buôn bán. Họ biết buôn không phải vì túng thiếu; nhưng vì lợi, vì tiền. Hơn nữa, họ cũng đủ lý trí để học rất mau những lề lối, những mánh khóe trong nghề buôn để khỏi bị phỉnh gạt.
Những nguồn lợi phong phú
Từ trước đến giờ, quốc vương không cho khai các mỏ vàng; ngài vừa mới cho phép khai một phần mỏ bạc ở tỉnh Cuicanghe (Cao Bằng). Cũng có vài mỏ bạc trong địa hạt Bắc trấn vừa mới đào nhưng khi nào đức vua cho phép mới được khai. Ngài giữ các mỏ kim ngân quý giá như vậy là tại ngài sợ ngoại quốc nghe thấy thì đến xin khai và chiếm mất, sợ thần dân tranh quyền làm chủ những mỏ ấy và nổi loạn chống lại ngài.
Sắt và chì thì tha hồ khai vì ngài không lo giữ gìn như vàng bạc. Ngoài các mỏ nên kể việc mò trai. Nhưng bây giờ không còn ai mò nữa vì các vua trước đã chiếm giữ lấy cả món lợi. Ai còn muốn hy sinh tính mệnh để làm việc khó nhọc ấy?... Về việc chài lưới tôi không thấy nơi nào sẵn cá như xứ Đông Kinh; ai ai cũng có lưới để bắt cá ăn tươi hay ướp muối.
Một nguồn lợi nữa thông thường hơn, khai thác không khó nhọc và nguy hiểm vì mọc sẵn trên đất là núi rừng, có nhiều thứ cây già hơn nghìn năm không mục nát được. Như gỗ lim (người Bồ Đào Nha gọi là Palo Ferro, nghĩa là cọc sắt để chỉ rõ tính cách gỗ nặng hơn cả gỗ mun vì chìm xuống nước mau hơn; sắc giống như sắt gỉ; cứng như sắt, đem búa đóng đanh tốt vào thì một người khỏe đến đâu dùng tay không cũng không nhổ lên được, dùng kim thường nhổ cũng còn khó nhọc). Gỗ lim kỵ với sắt: lim làm han và ăn sắt gỉ.
Ngoài ra còn nhiều thứ gỗ cũng tốt như lim: nhà vua không cho phép đẵn nên ta không đóng được tàu chiến đẹp bằng gỗ mun. Mun không được nhiều, và tốt như mun Mozambique. Quế, mọc ở phía nam xứ Đông Kinh, ở phía bắc xứ Đường Trong và ở phía nam xứ này chỗ tiếp với Chiêm Thành, không nhiều và tốt như quế Tích Lan. Nhưng quế nam đắt hơn và rất được người Nhật chuộng dùng, thế nên có nhiều người đi kiếm. Nhưng vua cấm ngặt ai không có phép thì không được bóc mà có phép cũng phải chở qua cung vua. Quế thơm nhưng (muốn lấy quế) phải xông vào rừng sâu đầy thú ác, nước độc khí thiêng. Thú dữ còn có bề chống giữ đề phòng; chớ nước độc khí thiêng dù có đem thuốc giải trừ rất hay, không chết ở dưới chân cây, về đến quê nhà cũng ốm liệt giường liệt chiếu.
Dùng kiếm thử sừng tê
Rừng còn có cọp, gấu, lang, hươu, hoẵng, thỏ, lợn lòi, voi khỉ và ít nhiều tê giác. Sừng tê giác rất được chuộng dùng ở Ấn Độ và các nước lân bang Trung Quốc. Sừng tê dùng để giải độc nên ai có của cũng cố tích trữ ở trong nhà, nhất là do tại các miền này, các dân thường có ác tục là bỏ thuốc độc hại lẫn nhau.
Cũng có kẻ nói quả quyết rằng nếu giẫm phải gai chỉ cần đem tán một ít sừng tê thành bột hòa vào với nước rồi dùng nước ấy rửa chỗ đau, thì không làm nhức buốt gì, cái gai cứ tự nhiên lòi ra rất dễ dàng và chẳng đau đớn. Các vị quan Tàu chức cao và lắm của lúc thết tiệc các bạn thân, chỉ rót rượu vào chén làm bằng sừng tê để tỏ ra rằng họ sang, để khỏi sợ say vì sừng tê có tính chất giải độc.
Cũng như ở nơi khác, dân Nam muốn thử xem sừng tê có tốt hay không, đem treo thanh kiếm bằng một sợi dây rồi cầm sừng tê để gần kiếm; nếu tay chuyển sừng đi mà kiếm quay theo thì sừng tốt, nếu kiếm đứng yên thì sừng không có giá trị gì cả. Cũng có kẻ không thử thế chỉ xem nếu trong giữa sừng có vân vàng mọc tỏa ra đến khắp ngoài rìa thì cho là sừng tốt. Nếu sừng vừa có vân vừa làm quay được thanh kiếm thì họ sẵn lòng bỏ ra mấy trăm đồng vàng mà chuốc...
Người Đông Kinh hơn người Trung Hoa là còn biết dùng sừng tê làm cán gươm, chuôi dao để phòng hơi độc của thuốc giải độc mà luôn luôn họ giắt trong người.
Họ cũng nuôi dê, bò, trâu, ngựa nhiều nhưng còm, bé như ngựa Ba Lan. Ngựa mua ở các xứ lân cận vào đẹp lớn tốt hơn nhưng đã bị thiến rồi; quốc chủ các nước này một là muốn giữ lợi, hai là sợ bán ngựa giống cho một nước một ngày kia có thể trở nên thù địch của mình, nên không muốn giống ngựa của mình có ở nước khác. Ngựa không bịt móng vì đất ở vùng quê không có đá không hại chân. Họ cũng không dùng đinh thúc ngựa nhưng cầm roi lông. Họ cho rằng cưỡi ngựa mà ngựa không có nhạc đeo, thì người cưỡi ngựa thành lố bịch, cưỡi như thế cũng không khác cưỡi bò. Nhưng trong lúc để tang vua hay các thân quyến của vua, ai cưỡi ngựa có nhạc thì sẽ bị phạt một món tiền to.
(*) Đông Kinh là tên của Hà Nội từ năm 1430 tới 1831. Đông Kinh được phương Tây nói trại là Tonkin, để chỉ miền Bắc VN thời đó
Giuliano Baldinotti (1591 - 1631), người Ý, sang Viễn Đông truyền giáo năm 1621. Ông là người Âu châu đến Bắc kỳ đầu tiên; được chúa Trịnh Tráng trọng đãi.
Trước khi mất, Baldinotti làm tờ trình và nhân đấy Alexandre de Rhodes được cử sang trông nom địa phận Bắc kỳ.
Nhân dịp mấy thương khách Bồ Đào Nha trù tính sang xứ Đông Kinh (Hà Nội) - hành trình mà chưa ai đi cả - các bề trên xét rằng nên phái tôi đi với thầy Giulio Piani, sang trông nom việc rửa tội và nhân thể xem dân xứ này có sẵn sàng chịu lời Chúa hay không?
Từ Ma Cao đến Hà Nội
Chúng tôi ở Áo Môn (Ma Cao) đi ngày 2.2.1626; mất 36 hôm, một vì dò hỏi đã không được kỹ càng, hai là vì bão... Ngày 7.3, chúng tôi mới đến Đông Kinh. Được tin Chúa (Le Roi) cử bốn thuyền chiến ra bể đón và hộ vệ chúng tôi suốt dọc sông để bọn Tàu Ô đã rình sẵn khỏi cướp bóc.
Đến nơi, tôi đi cùng thầy Giulio và tất cả các người Bồ Đào Nha vào bệ kiến, Chúa hoan hỉ tiếp chúng tôi, khoản đãi chúng tôi, cho ăn nhiều món khác nhau và hứa giúp mỗi khi chúng tôi cần việc gì. Khi chúng tôi kiếu từ, ngài ban cho viên thuyền trưởng và tôi nhiều y phục bản xứ rất quý giá rồi truyền lệnh cho chúng tôi được ở những nhà tốt nhất tại kinh đô.
Trong thời kỳ chúng tôi lưu tại Đông Kinh ngài hậu đãi chúng tôi, sai mang các thứ giải khát cho viên thuyền trưởng và tôi hoặc ban cho chúng tôi đủ thứ tặng phẩm mỗi khi chúng tôi vào triều kiến. Ngài thường cho đòi chúng tôi vào xem các cuộc vui như đấu voi, thí ngựa hoặc đua thuyền. Chúng tôi còn được mời xem tuồng hát và nhiều hội hè nhưng có vài nơi cần giữ phẩm cách, tôi không đến. Ngài ưu đãi chúng tôi như vậy, hình như vì muốn thông thương với người Bồ Đào Nha đã được tiếng đồn là đem nhiều nguồn lợi bằng tàu thuyền đến xứ này.
Trong khi ở Đông Kinh, tôi hết sức khuyên bảo người Bồ Đào Nha nên làm gương tốt cho dân trong xứ. Họ nghe theo tôi, nên Chúa đẹp lòng và sẵn có ý tốt với đạo chúng ta, muốn lưu tôi lại. Một vị “nội giám” và một pháp sư đã tâu ngài biết rằng tôi hiểu toán học, nên ngài sai một quan thị gọi tôi vào để giảng cho ngài rõ những gì thuộc về thiên văn.
Khi quan thị đến, tôi thưa rằng: “Bề trên sai tôi đi theo người Bồ Đào Nha lượt đi cũng như lượt về, tôi phải cai quản họ và hướng dẫn họ về việc đạo, tôi không có phép ở lại đây; nhưng khi về đến Áo Môn, tôi sẽ xin phép trở lại đây và sẽ ở đây vĩnh viễn. Được như thế tôi thỏa mãn lắm vì phận sự tôi ở Đông phương không phải là để thâu nhặt bạc vàng nhưng là để dạy cho họ cần đến những việc trời và nói cho họ hiểu đâu là vị Thượng đế chân chính đã tạo ra trời đất”.
Chúa rất hài lòng về những lời trình bày của tôi nên mấy hôm sau cho vị pháp sư trên kia vào chầu. Chúa ban yến cho tôi, hỏi tôi những câu hỏi về khối tròn, yêu cầu tôi sang năm lại sang, ban cho tôi một chỉ bài để được vào và ngụ khắp xứ, không phải chịu một điều khoản nào cả. Thái tử là người sẽ lên kế vị ngài cũng ban cho tôi một chỉ bài giống như thế và nhiều quà cáp của vương phi…
Bị kẻ xấu hãm hại
Việc lập giáo đường đang tiến hành thì một tên Maure có đạo Hồi đi nói xấu người Bồ Đào Nha và rêu rao lên rằng người Bồ Đào Nha làm do thám cho vua Đàng Trong là thù địch của vua Đàng Ngoài và viên thuyền trưởng Bồ Đào Nha đã nhận được một món tiền to về việc ấy. Bịa đặt ra như thế, tên Maure muốn trả thù mấy người Bồ Đào Nha có hiềm khích với hắn và muốn chiếm lấy của cải chúng tôi khi chúng tôi bị trục ra khỏi xứ như quân do thám hay như quân bất lương.
Chúng tôi có dâng biểu trần tình; lại được thêm một vị hoàng thân đã hiểu biết người Bồ Đào Nha ở nhiều nơi nói cho Chúa rõ, nên ngài không tin những điều đồn bậy. Nhưng không yên tâm, Chúa buộc chúng tôi thề sẽ không vào Đàng Trong và bao giờ cũng một lòng với ngài. Ngài cho đòi chúng tôi đến một ngôi chùa (pagode). Dân gian theo chúng tôi đông lắm.
Người ta đặt lên trên một chiếc hương án một bình đầy rượu và nước, lần lượt người ta lấy một chiếc xẻng và mũi một thanh mã tấu gõ vào bình. Đoạn người ta cắt tiết một con gà mái, rồi lấy mấy giọt huyết gà dập tắt lửa từ một tờ giấy có viết lời thề đem đốt trên hương án. Con gà mái bị chặt làm nhiều khúc. Lễ phát thệ ở trong chùa chỉ có thế, mọi người đứng vòng quanh hương án và không làm gì khác nữa. Song rồi họ chỉ vào chùa, chỉ vào bàn thờ và các cây nho thếp vàng dựng ở trên bàn thờ bảo chúng tôi thề sẽ theo đúng lời đã nguyện và uống rượu cúng…
Đoán biết trước việc sẽ xảy ra như thế nào, tôi lấy một bức tranh to vẽ Chúa, trải ra, tôi quỳ trước tranh nói không muốn gọi một vị Chúa nào khác ngoài Chúa cứu thế mà thề cả… Quan nội giám, đến dự lễ thay Chúa, không nghe theo lời tôi. Sau cùng tôi phải yêu cầu quan nội giám cho người về tâu Chúa rõ ý định của chúng tôi. Chúa minh mẫn nên hiểu chuyện và truyền cho chúng tôi cứ thề như người có đạo Cơ Đốc. Tôi nhìn vào hình Chúa mà thề rằng, nếu tôi sai lời trong sớ thì Chúa sẽ bắt tôi chết bằng nước, bằng lửa, bằng đao gươm và các thứ khổ hình khác. Thầy Giulio, viên thuyền trưởng và tất cả các người Bồ Đào Nha cùng thề như vậy. Lời thề của chúng tôi làm Chúa hết nghi ngờ, ban cho chúng tôi nhiều phẩm vật cùng đồ giải khát và cho phép chúng tôi nhổ neo. Ngài đã giữ chúng tôi lại thêm vài tháng chỉ vì ngài đã sợ chúng tôi vào nam.
Phạm nhân thời phong kiến chờ xét xử - tranh tư liệu
Một trong những nội dung mà nhà truyền giáo Ý G.F.de Marini (1608 - 1682) quan tâm quan sát và ghi chép đó là hình pháp.
Ngục hình và tử tội
Tại các tỉnh không có nhà ngục, trong nhà quan tỉnh vẫn có đủ dụng cụ để cầm giữ tra khảo: xiềng, xích, khóa tay và những dụng cụ bằng sắt khác nữa. Thông dụng nhất là gông. Gông làm bằng hai thanh gỗ to và dài như một cái thang, có hai miếng gỗ ngang nối thanh nọ với thanh kia, hai miếng gỗ ngang đặt như hai bậc thang kẹp đầu vào giữa không thể nào kéo ra được; phạm nhân phải đeo gông đến ngày tuyên án.
Ở Kẻ Chợ có nhiều ngục thất. Ngục hình thì làm dưới đất, không có cửa, chỉ có ánh sáng từ một ngọn nến viên cai ngục thắp cho và bắt tội nhân đến hạn phải trả tiền. Nếu người khốn nạn này không có tiền thì ngục tốt không ái ngại, đánh cho máu me đầm đìa, thừa sống thiếu chết, tội nhân không có ai để nói chuyện và than khổ bao giờ…
Chỉ có thân quyến mới được phép nói chuyện với tội nhân thôi. Họ đến báo cho tội nhân biết bản án tử hình và tụ họp lại để theo sau khi tội nhân được dẫn ra pháp trường. Ra đến nơi, tội nhân đã thấy có một bữa ăn sắp sẵn. Đến giờ hành hình, đao phủ thủ hoặc một tên lính nào đấy bảo hắn là đến lúc phải tuân vương mệnh; cứ ngồi sệp xuống đất chẳng xê xích đi đâu, hắn đưa tay cho người ta trói gập ra đằng sau. Xong rồi người ta búi tóc hắn lên đỉnh đầu và chẳng cần theo một nghi thức gì khác, đao phủ cầm đao đến gần và hạ thủ.
Các thân vương quý tộc không bị chém đầu như bọn thường dân. Lưu huyết là một điều nhục nhã đối với tôn tộc, người hoàng phái, quý phái. Vì thế nên các quốc thích chỉ bị người ta dùng một cái gậy bằng gỗ hoàng đàn dài ba thước, to vừa phải phang một gậy vào đầu cho chết, còn người quý phái nào bị tử hình thì chỉ bị thắt cổ hay treo cổ chết thôi - một lối chết danh giá nhất, ít nhục nhã nhất.
Bọn trộm cướp trước khi chết bị đem bêu ba ngày giữa một công viên cho công chúng sỉ vả, trên một chiếc xe bò dưới ánh nắng gay gắt của mặt trời, chẳng có gì che phủ cả. Hình phạt này nhục nhã nhất đối với tội nhân và rất có công hiệu đối với quần chúng.
Một quốc thích nào đã làm loạn hoặc xui dân làm loạn thì bị kẹp cổ vào hai chiếc gậy gỗ như vào giữa hai bậc thang, rồi những kẻ đứng ra hành hình bóp hết sức chặt làm cho phạm nhân nghẹt thở và chết. Muốn thử xem phạm nhân đã chết chưa, người ta đốt hai chiếc đèn, đem hai bàn chân kề sát vào ngọn lửa; nếu tội nhân hơi còn một chút cảm giác thì hai đao phủ kẹp cho đến khi người ấy chết hẳn không cử động được nữa.
Lính đào ngũ bị xẻo mũi; quan binh đào ngũ bị chặt thêm hai bàn chân. Bọn du côn hay sinh sự cãi nhau, đánh nhau bị chặt một, một nửa hay tất cả các ngón tay.
Hình phạt
Nhân dịp này tôi kể một câu chuyện mới xảy ra lúc tiên đế sinh ra đức vua đang tại vị thăng hà. Đức Kim thượng ban chiếu muốn rút nửa lương các võ quan và quân lính. Sự cải cách này không làm vừa ý một quan cận thần của tiên đế đứng vào hàng thứ hai các triều thần, được tiên đế biệt đãi vì tài năng và đức tính. Viên thái giám này phẫn nộ đến nỗi dám cầm xé tờ chiếu trước mặt nhiều người.
Nhiều viên cố vấn được cắt ra để xét tội khi quân. Họ một phần vì ghen ghét địa vị cao sang của viên thái giám nên quyết nghị xin chặt một tay viên thái giám. Thiếu quân muốn tha thứ; ban rằng từ lúc tiên đế thăng hà, hình án này là hình án đầu tiên, ngài không muốn trừng phạt một tín thần của tiên đế, một đại thần lương đống của ngài; hơn nữa tiên đế khuyên ngài trong mọi việc nên độ lượng quảng đại, khoan hồng hơn là nghiêm khắc. Nhưng các quan biết rõ ý vua nhất định xin thi hành bản án và tâu rằng nếu bắt đầu dung túng những kẻ khinh nhờn phép vua tức là một việc nguy hại đến thanh danh của ngài, khi dân chúng đã cảm mến ngài và tin rằng ngài là một vị vua công bình chính trực nhất. Hơn nữa, đem trừng phạt một vị đại thần càng làm vững chắc uy danh ngài. Sau cùng, đức vua cũng không chịu nhận rằng tội ấy đáng phạt, nhưng bảo các quan nể ngài, phạt rút nhẹ đi một nửa. Viên thái giám tưởng chuyện đến lúc này có thể đút lót các án quan, xin đưa cứ mỗi ngón tay là một trăm đồng vàng. Nhưng các quan trót đã xin vua nghiêm phạt lại muốn tỏ rằng mình không vị lợi, cứ y án…
Sát nhân phải giả tử. Kẻ giết người không những phải thường mạng lại còn phải nộp cho ngân khố số tiền thuế người chết phải đóng từ năm hai mươi đến năm sáu mươi: tội nhân không có thì họ hàng phải đóng thay; nếu hắn không có bà con, hoặc họ hàng thì làng mạc phải chịu. Cũng có khi vua giao kẻ sát nhân cho gia đình người bị giết để cho bọn này tự trả thù lấy bằng các thứ hình phạt cho hả cơn giận. Cách đây không lâu đã có người muốn báo thù cho một thân nhân bị chết đã chém bằng búa và băm kẻ sát nhân ra làm nhiều mảnh từ chân lên đến đầu, để hắn chết dần.
Những kẻ gian tham trộm cướp không bị tội chết vì thế nên bọn bất lương rất nhiều; nhưng khi có chứng cớ thì họ bị nghiêm phạt, quan cũng vậy. Những người bình sinh là người can đảm mà mắc tội tử hình thì chẳng những được vua tha tội chết cho mà còn được trọng dụng trong quân đội.
G.F.de Marini
Nguyễn Trọng Phấn (dịch)
Thủy quân Đàng Ngoài
Thủy quân Đàng Ngoài thế kỷ 17 đã được nhà truyền giáo người Ý G.F de Marini (1608 - 1682) ghi chép với những so sánh với thủy quân châu Âu.
Thi chèo
Bọn thuyền thủ bơi thường không có ghế ngồi, tay cầm chèo, mỗi bên mạn thuyền là hai mươi nhăm đến ba mươi người. Khác với thủy thủ Âu châu, họ quay mặt về phía mũi thuyền. Theo hiệu của người hoa tiêu, họ bơi có nhịp, rất đều, lúc nhanh, lúc chậm, theo tiếng gõ vào thanh gỗ đặt chéo trên một bệ cao đằng cuối thuyền là chỗ người hoa tiêu lên ngồi để hướng dẫn và điều khiển.
Cuốn sách ghi chép về VN và Lào của giáo sĩ G.F de Marini xuất bản bằng tiếng Pháp tại Paris năm 1666 - Ảnh: T.L
Vui nhất là khi ta thấy một chiếc thuyền bị đuối lại và bị các thuyền khác bỏ xa. Thôi thì tiếng kêu gào, lời chế nhạo, sự xấu hổ làm kích thích bọn trai bạn. Bọn này bỏ lối chèo lúc trước, nghiến răng, mắm môi, giậm chân xuống sàn thuyền thỉnh thoảng lại cổ vũ nhau, gập cong lưng, cúi mình có khi đầu chạm bàn tay cầm mái chèo; thu toàn lực, họ vội vàng đến nỗi người như sút đi chỉ còn lại một nửa, đầu mái chèo chỉ chạm sơ xuống nước, thuyền bay hơn là trôi đến gần những người khác rồi, họ đứng thẳng người lên, không bơi dữ dội như thế nữa, thở một chút để phòng lúc gần đến đích đã chọn họ còn hơi dấn lên trước nhất. Mà khi đã trông thấy, nhận thấy đích từ đằng xa rồi, thì hình như ngủ say sực tỉnh, họ đứng thẳng mắt trông đích, tay cầm chèo. Họ đặt tất cả hy vọng vào hai cánh tay, làm rung chuyển mái chèo thiếu chút nữa thì chèo gãy; chân tay rã rời, đầu nghẹo đi, cằm tựa lên một bên vai; giá mái chèo không làm bằng một thứ gỗ mềm và sai khiến được thì nhiều chiếc đã gãy rồi. Thuyền nào về đích đầu tiên, được thưởng và hoan hô vang giời.
Đức vua còn đến quán dịch có hai tầng này với các triều thần mỗi khi nước lụt, xem nước lên biến những cánh đồng rộng thành bể cả tai hại đến thế nào, ngài cho là một sự vui thích dị kỳ khi đứng trên lầu các này xem bao nhiêu dân đã sống bì bõm trong đồng nước...
Chèo chống giỏi, chinh chiến quen
Đức vua có hai nghìn chiến thuyền không kể vô số những thuyền con nữa. Tuy vậy thủy quân của ngài cũng không được bằng các hạm đội tàu bên Âu châu về súng ống. Và cái nào cũng phải sửa soạn ra khơi để phụng sự đức vua. Như thế ngài có thể lập được nhiều thủy đội mà không tốn kém lắm...
Trong một cuộc đi thăm, đức vua lên hành hương trên một ngôi đền (hay chùa) của một viên thái giám thân tín của ngài mới lập lên, tôi thấy suốt dọc sông chạy bên đường, trên một quãng dài trông như một rừng (cột buồm), một số thuyền đi hộ giá ngài nhiều đến nỗi đếm không xuể. Tôi đâm chán và mải ngắm một quang cảnh thích ý và vui mắt. Tôi giao việc đếm thuyền cho người khác. Những chiến thuyền này dài chừng ba mươi đến ba mươi nhăm thước và rộng chừng mười bốn, mười lăm thước. Không có gì trở ra hai bên sườn như thuyền chiến Âu châu, ở đằng đầu cũng không có mũi nhọn (để đâm thủng tàu bên địch). Bánh lái giống như bánh lái đò chở trên sông, ở cuối thuyền chớ không ở một bên mạn. Những thuyền to như thuyền rồng, mỗi bên mạn có hai mươi nhăm mái chèo; thuyền bè có mười tám hoặc hai mươi chiếc thôi. Mỗi mái một người chèo; thành ra thuyền thủ chỉ có từ năm đến sáu chục người vừa chèo chống giỏi lại vừa chinh chiến quen; đến dịp thì buông tay chèo, họ vớ súng lúc nào cũng để gần cạnh và họ biết cách dùng rất thắng lợi.
Nhiều thuyền không dùng còi. Những viên thuyền trưởng ngồi trên trong cái phòng hay một cái đài cao đặt ở đằng lái, một tay cầm một thanh gỗ gõ vào một thanh khác cầm ở tay kia lúc mau, lúc chậm để sai khiến sức nhanh chậm của thuyền, bọn thủy thủ bơi rất đúng với mệnh lệnh của thuyền tướng. Họ phải là bọn đồng tuổi đồng sức vóc, khéo léo và thạo việc; họ đi chân đất đóng một chiếc khố nhưng mặc áo may cùng một thứ vải với mũ.
Trên thuyền, chỗ sang trọng nhất ở đằng lái: đấy có một khoang thuyền rất xinh xắn và cân xứng với thuyền, bên ngoài có nét chạm trổ rất đẹp mạ vàng; bên trong có dát vàng, quét sơn tinh tế và phủ những bức thêu bằng lụa; dưới sàn giải chiếu cói mảnh; chung quanh khoang có bao lơn và nhiều cột nhỏ đặt như chung quanh một dãy hành lang; có một hai khẩu thần công đặt trên giá chứa được tám cân đạn.
Mũi thuyền và lái thuyền đều tròn, cất cao khỏi mặt nước chừng bốn năm thước có trạm nhiều hình, lá nổi, thếp vàng, sơn màu rất thanh nhã, đẹp mắt. Mạn thuyền là chỗ đặt bơi chèo cũng được trang điểm bằng những hình chạy thành hàng chung quanh thành.
Họ không dùng nhựa thông hoặc mỡ bò phết thuyền, nhưng dùng một thứ sơn thường pha giống như sáp Tây Ban Nha, khi nào ánh nắng vào, thuyền sáng nhoáng làm mắt bị chói. Những thuyền ngự có nhiều vàng dát, bên trong khoang có ít nhiều chỗ mạ vàng; tất cả các mái chèo của những chiếc thuyền này đều sơn vàng. Thuyền nào cũng có mui che, vỉ phủ lên trên để che ánh nắng gay gắt; có những thứ chiếu cói to đan rất khéo, chống lên nhiều con sào và buộc vào những sào ấy bằng dây tơ.
Những thuyền của các vương thân đại thần, thái giám cũng được trang hoàng ít nhiều tùy theo sự chủ nhân những chiếc thuyền này tiêu vào đấy nhiều hay ít. Thuyền cũng có cột và buồm nhưng tôi chỉ thấy họ dùng chèo thôi. Chính vậy bọn chân sào vì lòng tự ái không bao giờ bỏ tay chèo, tuy nhiều khi gió thuận, thổi từ đằng lái lên; họ không muốn đức vua và các thuyền rồng chịu nguy hiểm vì sức gió, chỉ khi nào họ thi bơi, họ mới giương buồm lên mà thôi.
Một số ghi chép dưới đây của nhà truyền giáo G.F.de Marini (1608 - 1682). Ông đã ở Bắc kỳ 14 năm, sau đó cho in cuốn sách về xứ sở này tại Paris năm 1666.
Nhà làm bằng gỗ và rơm
Nhà cửa của người Đàng Ngoài và lối họ xây dựng rất giản dị không được suy nghĩ kỹ càng và không theo một chủ ý gì cả. Bởi thế họ không cần nhờ đến các kiến trúc sư, đến các ông thợ cả vì theo tôi không cần tinh khôn lắm mới dựng được cho mình những cái nhà như thế. Làm gì có những sự chạm trổ tinh vi, những gian nhà đẹp như những lâu đài. Mọi vật đều làm bằng gỗ và rơm. Người dân dựng bốn cái cột hình tròn, được bào đục ít nhiều, lên trên những khối đá tròn và rộng nhiều hay ít dùng làm trụ đỡ vì không thể chôn chân cột xuống đất trừ phi cột ấy làm bằng một thứ gỗ rất hiếm và đắt không mục ngay ở dưới đất. Họ đặt lên trên bốn cái cột đó nhiều miếng gỗ khác; khi nào những người dân túng thiếu này muốn làm nhiều gian nhà, họ dựng thêm nhiều cột, vách, ván hay tre, trát bằng một thứ bột rất nhuyễn màu thiên thanh nhạt.
Nền bằng đất nện kỹ, mái lợp rơm hay rạ. Nhà làm cách xa nhau, xung quanh có hàng rào sậy, có vườn, có ao thả cá - món ăn thường của người nghèo. Giường đặt cách mặt đất chừng hai thước chỉ gồm có một lớp gỗ dài bốn thước lắp với bốn mảnh gỗ, trên đặt giát tre hay một lần lưới đan bằng dây; trên nữa trải chiếu; họ nằm ngủ chẳng có đệm, chẳng có chăn đắp.
Nhà những người giàu có, quan tư cũng ngang mực với đất; nên đến cửa thì ta bước vào nhà ngay. Những nhà này rộng, xây dựng có ngăn nắp và làm bằng vật liệu tốt hơn nhà của thường dân. Trước mặt nhà lối cửa vào có sân rộng nhiều hay ít đủ chứa những người đến nhờ vả hay kêu xin điều gì. Có hành lang lợp và làm theo hình bán nguyệt chạy quanh nhà. Những khung hình tò vò đặt lên những cột gỗ to rất tốt, đối nhau rất đều.
Cửa vào nhà thường dân thấp và bé để bọn trộm cướp khó mang đi những đồ vật chúng lấy được. Cửa ngõ nhà quan thì rộng hơn vì các ngài không sợ gì trộm cướp (chính chúng lại sợ các ngài) và có lính canh giữ luôn luôn. Tuy vậy những nhà quan cũng không có những tấm thảm hay những bức hàng quý giá; chỉ có những thứ chiếu nhỏ bằng cói rất đẹp; nhuộm màu khác nhau, trên có nhiều hình đẹp; của cải để cả vào thóc gạo, người nào có nhiều thưng gạo nhất được coi là giàu có nhất, thành thử khi ta nói ai có nhiều lúa thóc chính ta muốn bảo rằng người ấy rất giàu có, sung túc.
Trong xứ không có đường to, không có phố lát đá và chia ra từng đoạn như bên ta, nhưng nhà cửa cách nhau và rải rác khắp đồng ruộng như tôi đã nói ở trên. Một số đông nhà họp lại thành một làng trong có một nhà công cộng (đình).
Thành Hà Nội
Bây giờ ta sang chuyện hoàng thành để biết sự tráng lệ của kinh kỳ, dù các nước ngoài gọi vắn tắt là kinh đô (La Cour) vì vua thường đóng ở đấy. Dân bản xứ thì đặt tên là Kẻ Chợ, nghĩa là chợ, chợ phiên. Bởi vì, trong xứ có sản vật gì tốt, ngoại quốc có hàng gì đem vào bán, đều đưa đến đây cả, một tháng có hai phiên chợ to, vào ngày mùng một và mười lăm của tuần trăng. Kẻ Chợ chiếm một vùng đồng bằng rất đẹp và rất phì nhiêu, rộng hàng bao nhiêu dặm và đặt trên bờ một con sông phát nguyên từ Trung Quốc. Sông bọc lấy thành thị trong một khuỷu rộng nên việc buôn bán được dễ dàng; thuyền bè luôn đi lại được trên sông; sông còn chia ra nhiều ngành, nhiều sông đào rất có ích cho việc chuyên chở các hàng hóa và làm thuận tiện việc buôn bán các tỉnh ngoài với đô thị.
Người Âu châu nào đến thăm kinh thành (hay Kẻ Chợ tùy theo lối gọi của mỗi người), sẽ thấy nhà cửa ở đấy không phải là những đầu đề để ta ca ngợi, bởi vì nhà cửa cũng không khác nhà cửa những vùng khác trong nước; muốn làm những nhà đẹp hơn, phải tiêu tốn hơn vì đào sâu 2, 3 thước đã thấy nước rồi, muốn tiện lợi mỗi nhà đào một ao nhỏ thả cá, có nước dùng để giặt quần áo, tắm rửa, tưới rau.
Nhà nào cao lắm thì có tầng gác thứ nhất, nhưng trên làm nhiều chỗ cao, phòng khi nước lụt thì rút lên ở. Phố xá không lát đá. Dân gian thiếu chút nữa thì tồng ngồng và bao giờ cũng đi chân không như ở khắp trong xứ. Tuy có chỗ bẩn thỉu và đáng xấu hổ, ta cũng nên công nhận rằng thành này có nhiều chỗ rực rỡ lộng lẫy.
Thành phố có 72 phường phố, mỗi phường rộng bằng một thành phố trung bình bên Ý Đại Lợi ta. 72 phường đầy những thợ cùng người buôn, muốn tránh sự hỗn độn và giúp ta tìm ngay được thức ta cần dùng, ở cửa mỗi phường có một tấm biển đề rõ thứ hàng, tốt hay xấu thành ra ít khi có người (cả người ngoại quốc) bị nhầm về giá hàng, về phẩm hàng tốt hay xấu, về lượng hàng bán đủ hay thiếu. Trên kia tôi đã nói là người ta chở đến đây tất cả các thứ sản vật trong xứ, của ngoại quốc, chở đến nhiều hơn bất cứ nơi nào trong nước. Vì lẽ ấy nên đức vua muốn các hàng hóa ngoại quốc đều ghé lại xứ, và ngài chỉ ưng rằng các tàu bè Trung Hoa, Nhật Bản, Cao Miên (Campuchia - PV), Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Phi Luật Tân (Philippines - PV), Hà Lan và các nước khác ở Đông phương muốn vào trong xứ phải ngược sông (Nhị Hà), không được đậu bến nào ngoài bến Kẻ Chợ.
Tranh vẽ người Đàng Trong thế kỷ 18 - Ảnh: Tư liệu
Cristoforo Borri (1585 - 1632) là một cố đạo người Ý sang Trung kỳ vào khoảng 1618. Về Roma, năm 1631, ông cho xuất bản quyển sách in đầu tiên của châu Âu nói về Trung kỳ của VN.
Về các ông lương y và phép chữa bệnh, tôi phải nói rằng ở Trung kỳ có rất nhiều lương y người Bồ Đào Nha và bản xứ; thường có những bệnh rất lạ, không có thuốc chữa đối với y sĩ Âu châu, thì ở đây các ông lang đã biết rõ căn chứng rồi và chữa được rất dễ dàng. Đã nhiều lần các y sĩ Bồ Đào Nha đã bỏ mặc người bệnh rồi tưởng thế là đi đứt, thì khi với đến ông lang An Nam bệnh khỏi rất nhanh.
Những y sĩ bản xứ
Phương pháp của các y sĩ An Nam là khi bước vào buồng con bệnh, họ đứng lại một lúc để cho hết sự xúc động trong khi đi đường. Đoạn họ bắt mạch rất chủ ý và cẩn thận; xong rồi họ nói rõ căn bệnh cho người ốm biết; nếu bệnh không còn chữa được, cứu được nữa thì họ nói thật; tôi không có thuốc để chữa, tỏ cho con bệnh rõ là không thể nào qua khỏi được; nếu họ đoán rằng nhờ thuốc họ mà người ốm lành mạnh được, họ sẽ bảo cho ta biết là họ có thuốc chữa ta và bao nhiêu lâu thì ta đi đứng được. Xong rồi thì họ tính tiền công, tùy theo bệnh nặng hay nhẹ. Cũng có khi, họ làm giấy cam kết với gia chủ. Đoạn họ kê đơn và bốc thuốc lấy, không nhờ đến bọn chế thuốc, một là để giữ kín, hết sức kín các đơn thuốc của họ, hai là họ không dám tin và nhờ người khác bốc thuốc thay họ. Nếu đúng hạn khỏi, bệnh nhân phải giả công cho thầy; nếu không khỏi thì thầy uổng công và mất tiền thuốc.
Không như thuốc ta làm cho người uống ghê tởm, “bụng mềm và dãn ra”, thuốc nam dễ uống như nước cháo và rất bổ, uống vào không cần phải ăn cơm (?). Nên một ngày người ốm uống mấy lần như ta uống nước xuýt. Đã không trái với lẽ tự nhiên, thuốc lại còn bồi bổ những bộ phận trong người, làm tiêu các khí độc, mà không hành người ốm.
Vào chỗ này có một chuyện đáng kể: Một người Bồ Đào Nha ốm, nhờ các lương y Âu châu chữa mãi không khỏi; người ta đành bỏ mặc anh ta chết đấy không đến thăm nom nữa; sau vời một ông lang bản xứ đến; ông này cam đoan chữa khỏi cho anh ta trong một kỳ hạn nhất định, nhưng căn dặn anh ta là trong lúc để ông chữa, anh ta phải kiêng khem, sự đi lại với đàn bà cấm ngặt; nếu anh ta trái lời thì không có thuốc nào chữa nữa; phải cữ đàn bà mới sống được. Hai bên đồng ý làm giao kèo và ông lang nói chắc ba mươi ngày thì khỏi. Bệnh nhân uống thuốc, vài ngày thấy khỏe khoắn và không còn sợ cái việc mà ông lang đã cấm ngặt anh ta. Chuyện đến đấy thì ông lang lại thăm anh ta, thấy mạch khác, bảo anh ta sửa soạn việc ma chay đi vì ông không còn hy vọng gì nữa và hết phương để cứu sống rồi; bảo anh ta đừng quên giả tiền công đã hẹn trong giao kèo vì anh ta chết không phải lỗi tự ông ta. Việc đem đến cửa quan, án ra bắt người bệnh cùng ông lang; và án tuyên rồi thì anh Bồ Đào Nha kia hấp hối.
Lá cỏ thần kỳ
Người Trung kỳ còn biết chích huyết nữa; nhưng họ hà tiện máu người ốm hơn ta và họ không dùng những dao chích thông thường đâu: họ có những lông ngỗng trong có lắm “kim” bằng sứ rất sắc có cái to cái nhỏ, hình răng cưa.
Khi phải mở một ống hồi huyết quản nào, họ đặt lên trên ống ấy một chiếc lông ngỗng lớn vừa bằng bề ngang huyết quản, chiếc “kim” vào nông hay sâu đúng với ý muốn. Phải phục họ là sau khi lấy đủ máu rồi, họ chẳng cần đến băng bó, vải thấm và dây buộc gì cả, chỉ đem nước bọt nhấm đầu ngón tay cái rồi đem ấn lên chỗ lỗ thủng, họ làm cho thịt giở lại nguyên chỗ, máu ngừng chảy và vết thương chóng lành. Tôi cho vì họ dùng chiếc “kim” sứ có răng nên mạch máu chóng hàn miệng và đập được ngay.
Người Trung kỳ không thiếu những tay giải phẫu. Tôi chỉ muốn đem cách họ đã chữa tôi và một người bạn ra làm thí dụ.
Từ một chỗ rất cao, tôi bị ngã xuống, dạ dày đập vào một khối đá; tôi thổ huyết và ngực bị tổn thương. Uống thuốc tây chẳng đỡ chút nào. Lúc đó có một ông lang chuyên nghề giải phẫu đến cho tôi một ít cỏ, giống như cỏ mercuriale của ta (hỏa diễm thái), một phần ông ta đem giã và đắp lên dạ dày tôi; một phần đem sắc lấy nước cho tôi uống; và một phần bảo tôi ăn sống. Vài ngày sau, tôi hoàn toàn khỏi. Muốn tự thí nghiệm lấy, tôi bắt một con gà con đem bẻ chân nó gãy thành nhiều đoạn rồi đem cỏ ấy đắp lên những chỗ gãy vài bữa thì con gà nguyên lành.
Một thầy dòng bạn tôi bị bọ cạp đốt - nọc bọ cạp có thể làm chết người ở xứ này - cổ họng sưng bạnh ra và chúng tôi đã nghĩ đến phép sức dầu thánh cho thầy ta thì bỗng có một ông lang ngoại khoa đến, thổi một hồ cơm với nước lã thường. Xong rồi ông ta đặt nồi cơm xuống dưới hai chân thầy dòng, lấy chăn chùm kín thầy ta để hơi cơm và khói nóng không mất đi đâu được. Hơi bốc lên đến chỗ bị thương, thì thầy dòng thấy bớt đau, cổ hết sưng và người khỏe mạnh như không bao giờ bị bệnh cả.
Còn có nhiều việc tương tự như thế, nhưng thuốc dùng ngay tại xứ ấy công hiệu hơn là đem về đây. Riêng tôi, tôi đem về một thùng nhỏ đại hoàng (rhubarbe), lúc xuống tàu còn tốt vào bực nhất nhưng sau hai năm đi đường lúc về đến Âu châu thì đại hoàng biến thể đến nỗi tôi không nhận ra được nữa. Thế mới biết các dược thảo đem từ bên ấy về đây mất hết cả linh nghiệm.
Với bút danh Thiện Chân, trên Tạp chí Thanh Nghị, từ số 2 năm 1941 đến số cuối cùng năm 1945, dịch giả Nguyễn Trọng Phấn (1900 - 1996), vốn là cán bộ khoa học của Viện Viễn Đông bác cổ của Pháp tại VN, đã tuyển dịch và giới thiệu những tài liệu về xã hội VN từ thế kỷ XVII do các giáo sĩ phương Tây từng đến VN dưới triều đại vua Lê - chúa Trịnh - chúa Nguyễn ghi chép lại. Các tài liệu này vừa được tập hợp trong cuốn sách Xã hội VN từ thế kỷ XVII (NXB Tổng hợp TP.HCM). Thanh Niên xin trích giới thiệu với độc giả.
Điều làm cho vua xứ Bắc có thế lực khiến các vua lân cận khiếp sợ, là số dân đông vô kể ở bảy trấn dưới quyền vua cai trị, cứ xem số người thường ở Kẻ Chợ là nơi vua lập triều đình thì đủ biết.
Đi ngả nào cũng thấy vướng
Tuy rằng kinh kỳ dài hơn sáu nghìn bộ (1 bộ = 2,125 m, 6.000 bộ = 12,75 km - PV) ngang cũng chừng bấy nhiêu, phố xá rộng rãi, mười hay mười hai cỗ ngựa có thể ung dung đi ngang nhau được, thế mà mỗi tháng hai kỳ - vào rằm, mùng một là ngày dân nghỉ lễ - ta thấy trong tỉnh đông người qua lại khắp mọi phố đến nỗi đi ngả nào cũng thấy vướng. Thành thử người nào cũng bị xô đẩy, bị cản, bắt buộc mất nhiều thì giờ mà chả đi được mấy bước đường.
Do đấy và căn cứ vào vài điều phỏng đoán khác, người ta thường ước dân số kinh kỳ được một triệu người.
Người Bắc có tục ăn trầu là thứ có lợi cho sức khỏe và có vị ngon, bao giờ họ cũng giắt vào thắt lưng một giỏ con hay một bao đầy trầu cau, ra đường gặp bạn bè thì mở ra, rồi sau khi đã chào nhau rất lễ phép, mọi người nhận lấy một miếng trầu têm sẵn của người kia mà ăn. Vì thế trong tỉnh kẻ nào hơi khá giả thì sai đầy tớ sửa sắm thứ quà nhỏ ấy, đem biếu lẫn nhau để tỏ tình thân mật; còn thường dân không có kẻ hầu têm sẵn ở nhà thì đã có tới năm vạn hàng bán trầu lẻ rải rác khắp kinh thành.
Bìa sách Xã hội Việt Nam từ thế kỷ XVII
Nhìn áo lính biết lòng trung thành
Tôi không thấy có gì đáng khen và lạ bằng sự quân lính xứ Bắc đông như thế, đặt dưới quyền lắm tướng như thế, hay hội họp canh gác, xếp hàng ngũ hoặc ở điện nhà vua hoặc ở vùng thôn quê luôn như thế, mà cả giữa những bữa khao nhà vua và các tướng ban cho họ vui cũng không bao giờ ai thấy họ cãi nhau, nói khích nhau, chửi bới khinh miệt nhau mà cũng không bao giờ ai nghe thấy nói đến sự họ đâm chém nhau.
...Tuy ta có thể cho sự điềm đạm ấy là do ở bản tính họ vốn lành, nhưng cũng phải nhận là một phần lớn do ở sự họ tôn kính và sùng bái vua và tướng. Họ gọi vua là thiên tử và sùng bái vua như một đấng thiêng liêng tự trên trời xuống để cai trị họ. Sự sùng bái ấy là căn bản cái tục họ theo hằng năm như sau đây.
Vào quãng tháng sáu nguyệt lịch - thường thường vào tháng tám của ta - vua ban một đạo dụ truyền cho quân tướng đúng ngày đến tuyên thệ tỏ lòng trung thành với vua... Ở các ngả đường chính trong kinh thành người ta thiết lập những hương án bày biện trang hoàng vẫn để thờ thần: Ở chính giữa hương án, đã biên nhời thề bằng chữ to, họ đứng dưới chân hương án cũng nom rõ; hứa sẽ trung với vua và nếu sai lời thì phải trăm nghìn thứ tai nạn... Muốn tránh sự hỗn độn vì lính đến thề rất nhiều và lễ tuyên thệ nội trong một ngày xong, người ta đặt rất nhiều hương án, mỗi hương án dành riêng cho mấy tướng và mấy đội lính, có một quan văn được cử ra thay vua để làm chủ lễ và để sau khi đã tuyên thệ rồi thì phát cho mỗi tên lính một mảnh giấy chứng nhận rằng họ đã thề và đã được nhận vào làm lính nhà vua.
Ai nói tiếng to, rõ ràng, quả quyết thì được chữ minh nghĩa là rõ. Ai nói nhỏ, giọng đục phải chữ bất minh nghĩa không rõ. Còn lại nói giọng vừa phải thì được chữ thuận nghĩa là thường. Những mảnh giấy ấy không phải là vô giá đâu: vì mỗi người lính, đợi lễ tất, đem giấy về cho chủ tướng (ông này thề xong là về ngay) thì được chủ tướng phát cho một chiếc áo vua ban. Ai có chữ minh thì được hạng áo tốt và dài; ai có chữ thuận thì được áo ngắn hơn bằng vải thường; ai phải chữ bất minh thì áo vải xấu và ngắn nữa. Thành ra suốt một năm, người ta trông áo mà biết được người lính nào trung nghĩa, tận tâm và được yêu quý trong hàng ngũ của nhà vua.
Nhà truyền giáo dòng Tên người Pháp Alexandre de Rhodes (1591 - 1660) tới Trung kỳ năm 1624. Tháng 3.1627 ông được cử ra lập giáo đoàn tại Bắc kỳ; tháng 5.1630 thì bị chúa Trịnh Tráng đuổi ra khỏi xứ Bắc. Alexandre de Rhodes quay về Trung kỳ rồi sang Áo Môn (Ma Cao - Trung Quốc), đầu tháng 2.1639 lại trở về Trung kỳ. Nhưng mấy năm sau chúa Nguyễn Phúc Lan cấm đạo thì Alexandre de Rhodes bị bắt và bị kết án tử hình, nhưng không bị chém mà chỉ bị trục xuất ra khỏi xứ (tháng 7.1645). Vào năm 1651, ông cho in cuốn Từ điển Việt - Bồ - La dựa trên các ký tự tiếng Việt của những giáo sĩ người Bồ Đào Nha và Ý trước đó. Có thể coi đây là sự kiện đánh dấu sự ra đời của chữ Quốc ngữ.
Ảnh minh họa phủ chúa Trịnh do Samuel Baron vẽ năm 1685 - Ảnh: T.L
Chúa Trịnh Tạc (1606 - 1682) và Trịnh Căn (1633 - 1709) được Samuel Baron mô tả nhiều trong thời gian ông lưu lại Đông Kinh (tên gọi của Hà Nội thời Lê - Trịnh).
Lập thế tử
Chúa bây giờ là chúa thứ tư họ Trịnh, kể từ lúc (Trịnh Tùng - PV) diệt nhà Mạc và bắt đầu xây dựng nền tảng quyền hành cho con cháu bây giờ. Chúa (Định vương Trịnh Căn - PV) năm nay năm mươi ba tuổi, tạng yếu nhưng cai trị tài. Chúa kế nghiệp cha (là Tây vương Trịnh Tạc - PV) năm 1682 nhưng trước năm ấy chúa đã được tham dự vào việc cai trị nước Nam rồi. Chúa sinh được ba con trai và ba con gái. Con trai cả (Trịnh Vịnh - PV) và con trai út (Trịnh Lan - PV) mất rồi; người thứ hai (Trịnh Bách - PV), đúng vào năm ông nội (Trịnh Tạc) mất (1682) thì mắc chứng điên, nhưng bây giờ khỏi rồi, và được phong làm thế tử.
Thế tử có phủ riêng cũng lộng lẫy như vương phủ, có quan văn, có quan võ, có quân hầu nhất nhất như bên phủ chúa, chỉ có khác một điều là người trong phủ thế tử phải nhường bước cho người bên phủ chúa. Khi chúa mất, thế tử lên thay lấy người của mình vào làm thủ tục, chỉ đặc biệt giữ lại ít người thông minh và từng trải đã giúp việc tiên chúa.
Nếu chúa Trịnh kết hôn thì bà chính phi được mệnh danh là “Quốc mẫu” vì bao giờ bà cũng trong dòng dõi nhà vua và được coi sóc các bà thứ. Chỉ lập Quốc mẫu vào những năm cuối cùng khi nào chúa không còn hy vọng sinh con nữa; các bà thứ thì nhiều lắm vì có khi trước năm mười tám tuổi các chúa đã lấy vợ rồi, không hạn chế, ba trăm, năm trăm tùy theo sở thích của các chúa.
Trong sự chọn lựa các bà thứ, các nàng hầu thì sắc đẹp không được chú trọng bằng tài múa, hát, chơi âm nhạc hoặc khéo biết cách làm vui lòng chúa. Người nào sinh con trai đầu tiên trước cả các người khác, được coi như là bà chính thê từ ngày con mình được nhận làm thế tử và được trìu mến hơn bà chính phi, được tôn trọng cũng gần bằng bà chính phi. Các bà khác, ai sinh con gửi chúa, được gọi là đức bà, con trai (trừ thế tử) là đức ông, con gái là bà chúa. Các anh em trai, chị em gái của chúa cũng được tôn gọi như thế; nhưng con cháu các ông, các bà thì không, chỉ trừ con cháu của người con trai trưởng.
Chắc chắn là chúa cho con cháu dư lương bổng chi dùng nhưng chỉ trích tiền kho cấp cho anh em ngài vừa đủ hay thiếu tùy theo ý ngài. Cháu chắt càng xa càng được ít, đến đời thứ tư hay thứ năm thì đừng trông đợi gì nữa cả.
Hình vẽ chúa Trịnh Căn trong Trịnh gia chính phả
Dùng độc dược giết em trai
Như đã nói trên, tôi chỉ biết có mỗi một chuyện một chúa Trịnh lãnh đạm mà giết em: ấy là tiên chúa Tây vương Trịnh Tạc đối với em là Trịnh Toàn (Ninh quận công Trịnh Toàn là con út chúa Trịnh Tráng).
Trịnh Toàn, em thứ của Trịnh Tạc, là một quận vương dũng cảm; tính hào phóng, độ lượng, lịch lãm, nên được dân yêu và quân mến như cha đẻ; hành binh vừa khôn ngoan, can đảm thắng Nam quan của chúa Nguyễn nhiều trận nên được quân địch khiếp phục và tôn gọi là “Thần tướng Bắc hà”. Uy danh mỗi ngày một tăng ngoài cõi và trong triều làm cho ông anh ghen tức.
Chúa Tây vương, rõ lòng em như thế, có ý muốn can ngăn, nói cho Trịnh Toàn hiểu rằng nhất nhất Toàn đều theo lệnh anh và Toàn thắng trận được do tài cai trị khôn ngoan và sáng suốt của chúa. Trịnh Toàn chối và thề không có ý làm điều gì hại cho anh, nếu quân, dân có xui ông tiếm vị thì chẳng những ông không nghe, ông còn nghiêm phạt những mưu sĩ (gian ác) ấy.
Lời tuyên ngôn ấy làm cho Trịnh Tạc yên lòng bề ngoài. Mấy năm sau, Tây vương cho triệu Toàn bấy giờ đang trấn đất Nghệ An về. Toàn tuân lệnh về đến phủ liêu thì bị xiềng và giam vào một gian ngục gần cung điện. Ninh quận công bị giữ như thế mấy năm; tội ông chắc không lấy gì làm nặng lắm và không có chứng cớ để hành hình ông.
Nhưng vào khoảng năm 1672, có hơn bốn vạn quân tụ tập ở Kẻ Chợ. Quân kéo đến cửa phủ nhưng vốn tự nhiên sợ hãi chúa không dám vào, không có khí giới, họ chỉ có tay không và lưỡi để điều trần, ồn ào, hỗn độn thóa mạ chúa đã vô tình với quân dân, lại hào phóng với các bà phi, cho phép các bà này phung phí tiền kho để binh sĩ túng thiếu và khổ sở gần chết, họ gán cho chúa đã cố ý triệt họ bằng những phương tiện cực nhọc và đau đớn; đói khát và rách bẩn. Họ kể công cán họ trong quân đội và dọa sẽ làm những điều quá độ nếu chúa không tăng lương và không ban thưởng tiền cho họ.
Trong tình thế cấp bách ấy, chúa Trịnh họp bàn với các quan. Còn bọn loạn quân bàn bạc nên bầu lấy một chủ tướng để dìu dắt và giữ kỷ luật cho họ. Họ đề xướng Ninh quận công và đồng thanh bầu ông; giá trời không tối thì họ đã kéo đến ngục tìm quận công, nên họ đợi đến hôm sau.
Chúa Trịnh dò biết ý định của họ, tự tay chế thuốc độc cho quận công và đến tảng sáng sai một viên thái giám tin cẩn bưng sang ngục rồi truyền lệnh cho quận công uống. Trông thấy quận công thì tên thái giám quỳ lạy bốn lạy, thuật lại lệnh của chúa và dâng lên quận công thứ tặng vật của vương huynh. Quận công thấy thuốc độc thì hiểu ý. Ta không rõ công đã nói những điều gì, chỉ biết công hướng về phủ chúa quỳ lạy bốn lạy, uống độc dược và vài giờ sau mất.
Đấy là hồi cuối cùng đời Ninh quận công mà đức hạnh bị coi như tội ác, lòng cảm phục của quan quân đã làm cho chết sớm, chết oan.
Những nghi thức khi vua thiết triều được Samuel Baron ghi lại lúc ông lưu trú tại Đông Kinh (tên gọi Hà Nội thời Lê - Trịnh) vào thế kỷ 17.
Vua Lê thiết triều những hôm mồng năm và rằm mỗi tháng nguyệt lịch để các quan bận áo tím hoặc lam, đội mão vải vào bái vọng. Chúa Trịnh cũng bận triều phục ngồi cách chỗ các quan khá xa, tại một chỗ ai cũng ngó thấy ngài rõ, có quân thị vệ mang binh khí đứng hầu trong sân điện. Các quan có sớ tấu dâng lên chúa thì quỳ xuống trình, đã có bọn quan thị đến lấy dâng lên, chúa có truyền điều gì thì cũng lại truyền cho bọn quan thị để bọn này truyền xuống...
Những việc quan trọng đã giao cho xét trước bên điện vua, lúc ấy mới đem để chúa duyệt. Vì chúa ít sang chầu, có khi một tháng không được một lần, nên vua Lê ủy các quan triều phải sang bên phủ chúa để trình những việc đã xét bên điện vua và để chúa cũng quyết định như vua. Chúa rất khoan hồng đối với các quan, có lòng thương, có phạm lỗi thì phạt tiền giáng chức, thuyên chức hay phát vãng, chỉ tàn sát khi họ phản bội thôi.
Ai có xin điều gì hộ thân quyến hay bằng hữu mắc tội thì đến trước mặt chúa bỏ mão ra, quỳ lạy bốn lạy rồi mới nói. Chừng tám giờ thì chúa bãi chầu, các quan về cả chỉ trừ viên trưởng vệ và các nội thị. Bọn nội thị này hồi còn trẻ làm các việc ti tiện, được quyền cùng với nữ tì vào ra trong cung thất các bà phi. Họ là một tai họa của nhân gian, ăn bám vào chúa, làm hư chúa nhưng là tay gián điệp cho chúa. Họ chừng bốn, năm trăm người, kiêu căng hãnh diện, làm lắm chuyện phi lý nên có kẻ sợ, ghét và thù. Chúa tin họ lắm, bàn cả việc nước và việc riêng với họ. Tuyển vào phủ chúa được bảy tám năm làm những việc hèn hạ rồi họ được bổ dần dần vào những chức cai trị, được cầm giữ một trấn, làm thiệt cho các võ quan và các cống sĩ.
Phủ liêu ở chính giữa Kẻ Chợ. Phủ rộng lắm, chung quanh có tường. Trong phủ và ngoài phủ có nhiều nhà thấp nhỏ cho quan ở. Đó là những nhà xây phía trong phủ có hai tầng và nhiều cửa. Cửa to và đồ sộ, bằng gỗ lim cũng như trong cung điện vua, nhưng tư thất và phòng các bà phi đều to tát, sơn son, thếp vàng. Trước phủ có chuồng voi, chuồng ngựa; phía sau phủ có vườn, cây, đường đi, lầu nhỏ, ao thả cá để chúa họa hoằn có ra câu hay giải trí, tuy chúa ít vi hành lắm.
Vài quan thị có kỳ tài, trong số đó có ba ông già Tu Lea (chưa kiếm ra tên thật của mấy vị này), Ta Fae Bay và How Fac Tack. Các ông này tính tình phong nhã làm cho người nước ngoài yêu mến xứ này.
Ông How Fac Tack, trấn giữ phố Hiến, một trấn to nhất trong xứ; thống lĩnh thủy quân và đứng đầu về ngoại giao; ông dùng binh giỏi, cai trị khéo, xử kiện công bằng; ông đáng khâm phục, đáng làm thẹn người nào khi đã làm chức lớn mà không biết giữ lòng cao khiết, tự trọng.
Ông Tu Lea có tiếng là thông minh, được thiên hạ chú ý vì ông lên rất nhanh và chết rất bi thảm. Chuyện ông như thế này: Lúc họ Trịnh mới lên cầm quyền, chúa Trịnh ước mong được một người có tài lương đống để ủy thác cho một phần nhiệm vụ. Một đêm chúa nằm mộng thần nhân báo là hôm sau sẽ gặp được hiền thần. Đến sáng hôm sau thì ông già Tu Lea có việc vào chầu và khuôn mặt, cử chỉ, dáng dấp đều giống hệt người trong mộng. Chúa cho vời ông lên và nhận thấy ông khôn khéo, am hiểu những bí mật nghề cai trị. Chúa thu dùng ông ngay và chẳng bao lâu danh vọng ông chẳng kém gì chúa, có khi hơn nữa vì ông nói được nhiều người nghe, người xu phụng, người sợ. Tôi không hiểu vì sao, một đêm ông vô ra phủ chúa, vì ông có ý muốn truất chúa để lên thay (?) hoặc vì chúa có lòng ngờ, mà ông bị bốn con ngựa phanh thây, thân thể tứ chi bị băm vằm rồi đốt ra tro vứt xuống sông.
Tuyên thệ trung thành
Mỗi năm vào cuối tháng chạp các quan văn võ đều tuyên thệ lòng trung thành với vua Lê - chúa Trịnh, không giấu một cuộc phản bội, một cuộc âm mưu nào, nếu trái lời xin chịu hình phạt.
Các quan cũng bắt vợ con và tôi tớ thề với mình như thế. Ai tố cáo ra một vụ làm phản được những 30 đồng và được bổ vào một chức nhỏ. Một năm gọi lính một lần. Ai cao lớn thì xung vào quân thị vệ của chúa; những người vừa được tuyển vào các ngạch tùy sự cần dùng. Học trò và những người có nghề nghiệp thì được miễn. Tôi không biết lính đào ngũ phải tội gì; vì theo tôi ở đây không có tội giảo nhưng có tội trảm cho thường nhân; thân thích vua mới bị thắt cổ.
Họ không tin dùng người ngoại quốc, cho rằng không giỏi bằng họ. Nhưng khi ở Xiêm về, tôi được hỏi về tình hình xứ này và xứ Đàng Trong. Họ hỏi tôi xem thuyền có chở được quân lính đi biển không, tôi thưa rằng có. Chúa hỏi tôi nếu chúa giao cho tôi hai ba trăm quân để đánh Nam Hà thì tôi có chịu không? Tôi trả lời vốn dĩ là thương gia nên không có tài cầm quân và không giúp chúa về việc ấy được. Từ chối như thế rất tiện cho tôi lúc ấy nhưng rất hại cho tôi sau này khi bị người Tàu vu cáo.
Thanh đô vương Trịnh Tráng nắm quyền cai trị từ năm 1623 đến 1657. Chúa là người có quan hệ tốt đẹp với người phương Tây
Khi chúa Trịnh Tráng qua đời, giáo sĩ F.G.De Marini có mặt tại Thăng Long đã ghi chép rất tỉ mỉ tang lễ của chúa.
Thanh đô vương Trịnh Tráng mất hôm 26 tháng 5 dương lịch năm 1657, thọ 82 tuổi và cầm quyền bính được 37 năm. Được tin phụ vương mất, thế tử là Tạc (Tây vương) và các vương tử em ngài liền thay đồ tang và sang ngay vương phủ.
Trong chính điện ngày thường vẫn cử hành những lễ lớn, thi hài Thanh đô vương đặt trên một cái giá bằng gỗ thơm và quý, giống hình cái ngai bình nhật ngài vẫn ngự, kiểu rất hoa mỹ tráng lệ; giá lót dạ vàng, hai đầu không buông thõng xuống đất nhưng kéo lên che kín cả thi thể ngài. Thế tử và các vương đệ, vương điệt, người thân thích của Trịnh phủ, ăn mặc sô gai, đầu đội một vòng chạc gai, quỳ lễ khóc bên cạnh giá, nhắc lại những công ơn mà lúc sống ngài ban cho mọi người. Vương phi bận áo tang màu trắng và mình phủ một tấm mạng gai; lễ thế phát cử hành theo lệnh của vương phi. Nghi lễ hôm đầu, chỉ có thế.
Sáng hôm 28 mặt giời vừa mọc, thế tử cùng các vương tử và các vương thân, vẫn mặc tang phục ngày hôm trước sang vương phủ để rước linh cữu chúa từ đại điện sang một gian điện khác. Linh cữu đặt trên một chiếc bàn thếp vàng, bàn phủ đầy hoa thơm; hương thơm của hoa lẫn với hương thoi đốt làm sực nức gian phòng đầy ánh sáng của bao nhiêu đèn bạch lạp. Các hiếu chủ chờ đến đầu giờ thứ hăm ba (giờ Tý) - đã được các nhà chiêm tinh học chọn và cho là tốt - bắt đầu rước linh cữu vào tỉnh Thanh Hóa, nơi nhà chúa phát tích và đã được chọn làm lăng tẩm của Trịnh gia.
Ba vị đại thần cao vào bậc nhất được cử ra để hộ tống linh cữu trong bốn ngày đường; ba quan khâm mạng, trước khi nhận vinh dự mà (tiên) chúa ban cho, hứa trước các triều quan sẽ hết sức làm để tỏ lòng tôn kính tiên chúa, để khỏi phụ lòng hiếu kính của tân chúa và các vương đệ ngài; để cho tang lễ, nếu không xứng được với công nghiệp của tiên chúa thì cũng tỏ rõ được sự tận tâm, lòng kính cẩn và ý tôn trọng của họ đối với một bậc chúa có nhân từ và độ lượng. Ba ông ấy còn tuyên thệ là hết sức giữ kín không cho ai biết chỗ họ phải đem an táng tiên chúa. Lễ tuyên thệ vừa xong thì một hồi trống rung để báo hiệu đám tang bắt đầu đi. Đám dài lắm gần một dặm đường từ vương phủ ra đến sông. Cấm binh đi đầu, người nào cũng mặc một chiếc áo chùng bằng vải tốt màu lam sẫm, đầu đội mũ cùng một thứ vải, cùng một thứ màu với áo. Một vạn rưỡi lính, vác súng hoặc cầm kích đứng thành hàng hai, bên dọc đường - đường rất rộng - như hàng rào để giữ trật tự vì dân gian đi xem đông lắm. Một cơ lính mặc áo trắng tay cầm gậy sơn đến đóng các đầu phố không cho người qua lại chỉ trừ những vị có quyền hành thôi.
Trong đám rước trước nhất ta thấy ở trong vương phủ ra, một cái cột đường kính đo được sáu gang và cao sáu mươi gang, trên đỉnh có đặt ba quả cầu. Thân cột phủ một lần lụa quý, có chữ vàng chữ bạc, thuật sự nghiệp của Thanh đô vương.
Sau chiếc cột ấy, có một chiếc xe nữa gần toàn bằng vàng, trên có đắp hình nổi một thành thị có tường xây bốn xung quanh có nhiều đường rộng và pháo đài vây bọc. Rồi đến một cái xe thứ ba trên đặt một chiếc ngai vừa đẹp và sang vừa đắt tiền và lộng lẫy bằng vàng và bằng ngà; trên ngai đặt vương miện của tiên chúa. Các bảo vật trên đây đều để hở cho dân chúng xem. Phường bát âm có nhiều nhạc khí không hát, nhưng hòa theo lời than vãn và tiếng thở dài của tang quyến và những người thương khóc Thanh đô vương. Sau phường bát âm là các quan và các thân vương, mặc áo tang màu trắng thô, cứng, may bằng vỏ và lá cây bọn dân quê nghèo vẫn thường dùng.
Bọn thái giám và các võ quan cao thấp của chúa được đi gần nhà táng phủ trên áo quan và có người khiêng cho đến lúc hạ huyệt. Các quan và các thân vương khác đi liền trước “đòn”. Thế tử và các vương đệ đi sau “đòn” vẫn mặc thứ quần áo tôi đã tả trên kia, đi chân đất, đầu đeo tóc giả và cắm râu giả, màu trắng, tay chống gậy, đi lom khom như các cụ già cao niên, yếu ớt khổ sở và không có người nương tựa, hình như để tỏ rằng tiên chúa mất đi tức là họ mất hết cả hy vọng và họ không nhờ cậy được vào ai nữa. Số những đàn ông các quan, người nhà của chúa, đi đưa đám không dưới một nghìn; các công chúa, phu nhân trong vương phủ vào số tám chín trăm người. Cuối cùng là bốn nghìn thân binh mang khí giới. Ra đến bờ sông thì mọi người đứng lại nghỉ.
Thuyền rồng của chúa đã bỏ neo sẵn và được trần thiết long trọng hơn mọi ngày; áo quan mang xuống thuyền thì một loạt súng thần công và súng trường bắn. Mui thuyền lợp bằng vải dệt bằng vàng, sàn thuyền phủ thảm Ba Tư đắt tiền và quý giá; bọn phu thuyền mặc những thứ hàng dị kỳ và lộng lẫy. Hai chiếc thuyền khác, từ mũi đến lái, thếp vàng cả bên trong lẫn bên ngoài ghé sát vào bờ để chở chiếc thứ nhất cảnh thành thị đắp nổi; chiếc thứ hai, cái nhà táng.
Sửa soạn xong thì có hiệu cho thuyền nhổ neo. Đợi cho thuyền đi đến chỗ khuỷu sông khuất đi, thế tử và các vương đệ mới trở về phủ.
Dân gian phải để tang chúa 27 bữa, trong thời kỳ này không ai được mở tiệc ăn uống, cưới xin hay kiện tụng. Nhà chúa còn ban lệnh trong hạn ba năm không được vào đám hội hè gì long trọng cấm ngặt đờn ca, múa hát, diễn kịch hoặc cuộc vui tương tự.
F.G.De Marini
Nguyễn Trọng Phấn (dịch)
Thi cử và tuyển chọn nhân tài thời Lê - Trịnh
Từng sang Đông Kinh (tên gọi của Hà Nội dưới thời Lê - Trịnh), Samuel Baron đã ghi chép tỉ mỉ về chế độ thi cử và tuyển lựa nhân tài thời kỳ này.
Thí sinh viết bài trong lều tại kỳ thi Hương ở Nam Định năm 1897, ảnh do người Pháp chụp - Ảnh: T.L
Muốn làm một công việc gì hay được một chức phẩm gì ai cũng phải qua ba khoa thi: khoa sinh đồ học lực như tú tài bên Âu châu ta; khoa hương cống tựa như cử nhân, và khoa tiến sĩ tựa như bác học bên ta. Trong số các ông tiến sĩ, sẽ lựa chọn lấy một ông trạng nguyên.
Việc tuyển lựa các nho sĩ này được tổ chức rất công bằng.
Khoa thi sinh đồ như thế này: cứ ba năm một kỳ, vua Lê và chúa Trịnh cử cho mỗi tỉnh hai ba ông tiến sĩ, vài huyện quan đã đỗ hương cống ra chấm thi: thí sinh tỉnh nào thi riêng trong tỉnh ấy, khảo quan nhận được lệnh phải đến ngay nơi mình chấm và trong khi đi đường không được phép nói chuyện với thí sinh hay nhận quà biếu. Đến nơi các ngài vào ngay trường thi và ở trong những gian nhà tre lợp rạ. Trường thi cũng có rào tre, ở giữa có một quãng trống dựng đài. Các ông tiến sĩ ở biệt lập với các huyện quan và trong một khoa thi hai bên không được giao tiếp với nhau. Các cửa đều có người canh và ai ra vào đều bị khám xét rất ngặt, cấm không được mang giấy má sách vở, ai trái lệnh sẽ bị nghiêm phạt và mất chức.
Hôm khai khoa, tất cả thí sinh đều phải đến trường thi. Đã có một võ quan chỉ cho họ 5 châm ngôn ngắn viết đại từ và ai cũng phải chép lấy. Xong rồi, thí sinh bị xét xem có mang giấy má gian lận không rồi họ ra sân trường thi, người nọ cách người kia khá xa; từng quãng lại có người canh để không ai được thông đồng với thí sinh.
Phải ngồi viết cho xong bài trước lúc tối và bài không được dài quá hai mươi bốn trang. Thí sinh nộp kèm với quyển thi một tờ khai tên mình, tên cha ông, tên làng. Các quan tiến sĩ sẽ thảo tờ này riêng ra sau khi đã ghi cho thí sinh một con số lên quyển văn và tờ lý lịch. Quyển thì giao cho các huyện quan giám khảo; các tờ lý lịch, giao cho một võ quan khác coi giữ.
Các bài hỏng phải loại ra; các bài khá được đem trình các ông tiến sĩ. Các ông này xem lại và loại một lượt nữa, cho nên trong số bốn năm nghìn sĩ tử, có chừng một nghìn người đỗ bài đầu. Ai hỏng thì về vì không được thi khoa này nữa. Chấm bài thứ nhất mất tám hoặc mười ngày.
Bài thứ hai có ba đầu đề và không được làm quá 12 trang; có chừng 500 người được vào.
Bài thứ ba có hai đầu đề và không được làm quá tám trang nhưng khó hơn hai kỳ đầu nhiều; còn lại 300 người đỗ; ấy là các ông sinh đồ. Các ông này được ghi tên vào sổ, được trừ nửa phần sưu và được hưởng vài quyền lợi nhỏ nữa.
Muốn đỗ hương cống thì phải thi ba kỳ đầu như các ông sinh đồ, cùng một nơi, cùng có các ông giám khảo trên và phải thi một kỳ thứ tư nữa: khó hơn, ngặt hơn và không được nói với ai trong khi thi. Các ông hương cống các khoa trước ở các nơi có trường thi phải tề tựu cả ở kinh trong suốt kỳ thi (để khỏi gà bài?); nhà nước cử mật thám ở lẫn với các ông và ngày nào cũng kiểm điểm xem các ông có đủ mặt không. Còn tỉnh nào không có kỳ thi thì các quan tỉnh cũng phải coi sóc các ông hương cống cũ.
Thi có bảy bài chọn trong kinh sách; các bài hỏng bị loại; các bài khá đem trình các ông tiến sĩ. Nếu được đỗ thì lễ xướng danh rất long trọng. Quyền lợi các ông hương cống lớn hơn quyền lợi ông sinh đồ; các ông được vào yết kiến vua và được ngài ban cho một nghìn đồng tiền (giá tất cả một dollar) và một tấm vải callicot noir may một cái áo đáng giá ba dollar.
Khoa thi tiến sĩ cứ bốn năm một lần ở kinh, trong một gian điện riêng, có cửa bằng đá vân, ngày xưa lộng lẫy lắm nhưng bây giờ trông rất điêu tàn. Các ông hương cống có học và tài vào bậc nhất mới được phép dự thi và ứng thi nhiều, chỉ có ít người đỗ. Chính vua, các ông hoàng, các văn thân có tiếng trong nước và các đại thần đứng ra chấm. Thi cũng như sinh đồ và hương cống, nhưng câu hỏi nhiều hơn, khó hơn, quan trọng và hiểm hóc về những chương khó nhất trong luân lý, chính trị, luật hộ, thi ca và tu từ học; thi viết làm bốn kỳ trong khoảng hai mươi ngày; ai qua được thì đỗ tiến sĩ. Công việc không dễ dàng gì vì phải nhớ hết số chữ của bốn quyển trong số chín quyển Tứ thư, Ngũ kinh; nhớ từng chữ và thuộc lòng thì mới có thể đỗ được. Mỗi người thi trong một gian lều tre lợp vải (?); trước khi vào phải khám xét cẩn thận; ngồi từ sáng đến chiều với bút, mực, giấy; có hai ông tiến sĩ ngồi lọng cách xa họ để trông nom. Thi bốn kỳ thì hai ngày đầu quan trọng nhất có vua Lê và chúa Trịnh ra chứng kiến; các ngày sau có các quan Thượng thư thôi. Các ông tiến sĩ mới được bạn bè, dân sự và các ông tiến sĩ cũ hoan hô và ngợi khen, vua thưởng cho mỗi ông một thoi bạc (giá chừng mười bốn dollar) và một tấm lụa; lại được ăn lộc mấy làng tùy theo lượng vua và tài mình; về làng còn được dân làng khao vọng trong mấy ngày. Các ông tiến sĩ sau này được tuyển đi làm quan, được cử đi sứ Tàu và có quyền dùng y phục Tàu cùng với phẩm phục mình.
Các hương cống thi hỏng còn có thể thi tiến sĩ nữa; nếu không thì họ có thể vào ngạch tư pháp hay trông nom một làng.
Các sinh đồ hoặc các người không muốn học nữa cũng có thể tìm một việc làm, nếu học có tiền trong dinh quan tỉnh, trong tòa án hoặc nho lại; không cần tài biện bác chỉ cần chữ tốt văn hay thôi.
Samuel Baron Nguyễn Trọng Phấn (dịch)
Thành Hà Nội thế kỷ 17
Thành Hà Nội xưa qua ống kính người Pháp - Ảnh: T.L
Nhà truyền giáo Ý G.F.de Marini (1608 - 1682) đã có những mô tả tỉ mỉ thành Hà Nội xưa khi sang Đông Dương.
Bây giờ ta sang chuyện hoàng thành để biết sự tráng lệ của kinh kỳ. Các nước ngoài gọi vắn tắt nơi này là kinh đô (La Cour) vì vua thường đóng ở đấy. Dân bản xứ thì đặt tên là Kẻ Chợ nghĩa là chợ, chợ phiên. Trong xứ có sản vật gì tốt, ngoại quốc có hàng gì đem vào bán, đều đưa đến đây cả, một tháng có hai phiên chợ to, vào ngày mồng một và mười lăm của tuần trăng. Kẻ Chợ chiếm một vùng đồng bằng rất đẹp và phì nhiêu, rộng hàng bao nhiêu dặm, đặt trên bờ một con sông phát nguyên từ Trung Quốc.
Người Âu châu nào đến thăm kinh thành (hay Kẻ Chợ tùy theo lối gọi của mỗi người) sẽ thấy nhà cửa ở đấy không phải là những đầu đề để ta ca ngợi, bởi vì nhà cửa không khác nhà cửa những vùng khác trong nước. Muốn làm những nhà đẹp hơn, phải tiêu tốn hơn vì đào sâu 2, 3 thước đã thấy nước rồi, muốn tiện lợi thì mỗi nhà đào một cái ao thả cá, không hại sức khỏe, có nước để giặt quần áo, tắm rửa, tưới rau; cá câu để ăn tuy số ao ít hơn các miền khác. Nhà nào cao lắm thì có tầng gác thứ nhất, nhưng trên làm nhiều chỗ cao, phòng khi nước lụt thì rút lên ở. Phố xá không lát đá. Dân gian thiếu chút nữa thì tồng ngồng và bao giờ cũng đi chân không như ở khắp trong xứ. Tuy có chỗ bẩn thỉu và đáng xấu hổ, ta cũng nên công nhận rằng thành này có nhiều chỗ rực rỡ lộng lẫy. Thành phố có 72 phường phố, mỗi phường rộng bằng một thành phố trung bình bên Ý Đại Lợi ta, 72 phường đầy những thợ cùng người buôn, muốn tránh sự hỗn độn và giúp ta tìm ngay được thức ta cần dùng. Ở cửa mỗi phường có một tấm biển đề rõ thức hàng, tốt hay xấu thành ra ít khi có người (cả người ngoại quốc) bị nhầm về giá hàng, về phẩm hàng tốt hay xấu, về lượng hàng bán đủ hay thiếu.
Trên kia tôi đã nói là người ta chở đến đây tất cả các thứ sản vật trong xứ, của ngoại quốc, chở đến nhiều hơn bất cứ nơi nào trong nước. Vì lẽ ấy nên đức vua muốn các hàng hóa ngoại quốc đều ghé lại xứ, và ngài chỉ ưng rằng các tàu bè Trung Hoa, Nhật Bản, Cao Miên, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Phi Luật Tân, Hòa Lan và các nước khác ở Đông phương muốn vào trong xứ phải ngược sông (Nhị Hà), không được đậu bến nào ngoài bến Kẻ Chợ.
Hoàng cung
Nếu từ Kẻ Chợ sang hoàng cung thì ta sẽ thấy không phải chỉ có một cung điện đâu mà là một thành phố rất mỹ lệ và khang trang tuy kiến trúc điêu khắc thảm, dệt hay đồ đạc không có gì đặc sắc. Nhưng có lính canh gác, các sĩ quan, các chức nghiệp cư dân tất cả các nước đến tụ họp ở đây. Nơi này trật tự, có công viên, voi ngựa, binh khí, đạn dược tích trữ ở đây, làm cho hoàng thành có vẻ dị kỳ và quá sức ta diễn tả.
Tuy cung thất bằng gỗ nhưng có dát vàng và có những bức tranh thêu, những tấm chiếu rất mảnh, có nhiều hình và nhuộm nhiều màu tựa như những bức thảm đắt tiền. Ta còn thấy xây trên những bức tường dày lạ lùng một cung thất là chỗ vua ở, người ta đồn của người Tàu xây hồi còn cai trị xứ này.
Nhưng để cho khỏi ra ngoài chuyện hoàng cung, ta sẽ không khó nhọc mà biết rằng cung ấy làm trên một rừng cột to và chắc, cao một tầng thôi và có thang leo lên. Cột nhà thì đẹp đẽ và trau chuốt hơn các nhà khác. Để dựng cung, người ta đã gọi những tay kiến trúc rất thiện nghệ và những thợ cả cực lành nghề vì chỉ những người này mới được phép đặt tay vào và chăm nom các công việc của nhà vua. Còn dân gian và phu phen không bao giờ được dùng vào những việc này. Cung điện còn lại đến ngày nay xây trên một chỗ đất cao; và nếu người Đàng Ngoài muốn xây một cung nữa thì họ sẽ chọn chỗ nào có địa thế tiện lợi nhất vừa để cai trị được khắp vùng vừa để tránh lụt cho dễ.
Các gian điện rất rộng rãi; hành lang rộng và đi hun hút mãi, có những sân rộng tiện dụng cho bọn thị thần và các vũ nữ. Trong cung có nhiều viện là chỗ ở của các cung phi, các bà hoàng bị coi giữ rất nghiêm ngặt. Viện có gian đẹp gian xấu, người đẹp và có tài sắc thì được ở những gian đẹp nhất và lộng lẫy nhất nhưng tất cả các viện đều thấp hơn cung vua. Các quan thị cũng ở trong khu này; các triều thần cũng vậy, các vị này đông lắm. Số các cung nhân không nhất định, ước chừng năm trăm người nhưng người nào đứng sau số một trăm bị coi như cung nữ, hoàng hậu đứng trên tất cả bọn cung nhân và rất được tôn trọng. Có bao nhiêu cung phi thì có bấy nhiêu quan thị để coi sóc hành vi của họ và không rời mắt khỏi họ lúc nào. Vua rất trọng đãi các quan thị, ban cho bọn họ những quyền cao, nói cho họ biết những chuyện rất can hệ và giao phó cả tính mệnh cho họ. Bọn “tiểu đồng” (pages) cũng đông lắm và có một viên quản lý trông nom dạy bảo; nhờ ơn chúa, mấy đứa tớ và thầy này bây giờ thành kẻ ngoan đạo hơn, nhưng không được phép ra vào cung viện các bà phi.
Trong cung thành còn có một đạo quân hơn năm vạn người đóng trại để hộ vệ vua tùy lúc cần đến, có hơn năm trăm voi nuôi dùng vào việc chiến trận hay để phô trương, phải luyện tập luôn cho voi để cần thì giải trí. Ngoài ra, còn có vô số bọn nô bộc để làm những việc ti tiện trong cung, không kể những người có quyền chỉ huy hay đốc suất lại còn đông hơn nữa.
Việc ông Karel Hartsinck, thương đoàn trưởng của tàu buôn Hà Lan Grol được chúa Trịnh nhận làm dưỡng tử (con nuôi) đã được ghi chép trong nhật ký hàng hải của tàu.
Mồng 9 tháng năm: Chúng tôi dâng lên chúa một tờ sớ để nài cho được tự do buôn bán với dân gian; chúng tôi cũng tâu để chúa hay rằng chúng tôi sắp rời khỏi xứ này.
Chiều nay, vào quãng bốn giờ, chúng tôi được vào bệ kiến. Có nhiều lính mang khí giới. Chúng tôi đứng ở xa mà chào chúa ngự trong một hành lang (có lẽ là một gian điện, đằng trước có nhiều cột, ngai chúa đặt trong cùng điện). Chúng tôi được vời ngồi vào những chiếc chiếu trong một gian khác; ngồi đây thì không thể thấy long nhan được; chúng tôi được ban yến và dùng cơm. Có năm sáu người hòa nhạc cho chúng tôi nghe; một người nhào lộn và biểu diễn nhiều môn thể dục.
Bà Ouru-san (là người Nhật Bản) đi lăng xăng từ chỗ chúng tôi ngồi vào điện, rồi lại từ điện ra; sau cùng cũng dẫn được ông Hartsinck một mình vào triều kiến chúa Trịnh.
Sau khi đã làm lễ chào, ông được lệnh ngồi cách chúa mười ba bước, chúa ban khen ông đã đến đây; hỏi ông tính nết người Hòa Lan, quyền hành của quận vương xứ ta, của vua Tây Ban Nha; ông đối đáp tự nhiên làm chúa đẹp lòng. Sau chúa lại hỏi có phải thương hội ta đổi 150 hạt trai cho chúa Nguyễn để lấy Cù lao Chàm? Ông Hartsinck cải chính lời nói xằng ấy và bảo rằng người Bồ Đào Nha chỉ đặt điều nói bậy; vì hội đã đặt ra nhiều nguyên tắc và huấn lệnh, không bao giờ chúng tôi làm trái cả. Thương hội không muốn có thêm đất đai, chỉ lo mở mang việc buôn bán vào những chốn nhất định thôi.
Câu chuyện thành tự nhiên, thân mật, chúng tôi có lo đến chuyện thuyền buôn Hòa Lan và Bồ Đào Nha gặp nhau trên mặt sông trong xứ; nhưng chúa có nói không bao giờ chúa lại chịu để cho có cuộc tranh chiến ấy trong bờ cõi chúa; còn đánh nhau ngoài khơi thì tha hồ, chúa mặc không can dự. Ông Hartsinck rất cảm ơn chúa về lệ này và có xin chúa cho phép buôn bán tự do với dân chúng; chúa ưng thuận.
Sau cùng chúa có truyền cho ông Hartsinck rõ ràng sáu hôm nữa thì có thể bàn nhiều chuyện to tát; ý chúa muốn vời ông Hartsinck vào chầu để nhận ông làm dưỡng tử và để tiện thể định giá tơ cho chúng tôi mua.
Triều kiến xong thì chúng tôi lui ra, báo tin cho các ông cai bộ. Bây giờ mới biết chỗ dụng tâm của người Bồ Đào Nha làm cho chúa Trịnh nghi chúng tôi không phải là không công hiệu, vì không có lời sàm tấu, thì sao chỉ có một mình ông Hartsinck vào triều kiến thôi, vào chân tay không, không được mang khí giới; cũng vì có lời sàm tấu, nên bọn chúng tôi chờ mãi mới được vào trong triều.
Ngày 11 tháng năm: Viên thuyền chủ của chúng tôi biên thư lên nói rằng mua mọi thức cần dùng hằng ngày cho thuyền và các bạn khó khăn quá. Thế tử gửi cho chúng tôi một con bê và 12 lọ cau.
Chiếc Galiote Bồ Đào Nha bữa nay ra đến bể; chiếc mành và chiếc Nava ra đến trước chín ngày.
Ngày 15 tháng năm, các ông Hartsinck, Vincent Romeyn và Mathys ten Broecke vào chầu có bà Ouru-san theo làm thông ngôn. Đến nơi, chúng tôi làm lễ chào, đoạn người ta dắt chúng tôi vào một gian điện, điện này gần lăng tiên chúa và tổ mẫu của chúa. Chúng tôi lạy chào hai lăng ấy, giữa lúc ấy thì có 8, 9 mụ đàn bà mặc quần áo đến nhảy múa một lối riêng gần chỗ lăng. Họ múa xong, thì chúng tôi trở lại điện chúa. Nhưng chỉ một mình ông Hartsinck được vào bệ kiến thôi.
Chúa hỏi ông thỉnh cầu điều gì thì ông nói: “Những lệnh chúa đã truyền ra không được quan liêu tuân theo, nên xin chúa định cho một giá phải chăng để chúng tôi mua tơ, nhân thuyền chúng tôi chỉ đem có ít vốn đến thôi, chúng tôi mong chóng được về rồi chở bạc đầy thuyền đến mua tơ”.
Chúa hứa từ mai sẽ báo cho nhân dân được buôn bán tự do với người Hòa Lan.
Chúng tôi bái tạ chúa xong thì chúa nhận ông Hartsinck làm dưỡng tử; các quan cai bộ đặt cho ông tên là Heyng Thorgh (nghĩa là có độ lượng?). Chúa truyền ban cho ông Hartsinck một lá cờ để chuyến sau sang thì vào thăm các ông cai bộ được dễ dàng và ngược sông khỏi bị ngăn trở.
Chúng tôi xin phép tải ra ngoài 1, 2 thuyền gạo khi nào thương hội cần đến. Chúa trả lời rằng chúa không ngăn cấm.
Ngày 17 tháng năm: Chúa triệu chúng tôi vào. Đến trưa thì chúng tôi đi với bà Ouru-san vào phủ, có tải theo hai mươi hòm bạc.
Chiều đến, chúa ngự ra điện, ăn yến và xem các vũ nữ ăn mặc xinh đẹp múa. Chúng tôi lại xin chúa cho phép - như chúa đã hứa - vào nhà dân gian để mua tơ cũng như người Nhật Bản. Chúa lại trả lời với bà Ouru-san theo điệu cũ: “Chúa có cấm dân gian bán và có định giá tơ của dân và các quan cai bộ bán bao giờ đâu”. Chúa cho rằng người Hòa Lan ít kiên nhẫn, và còn nhiều thì giờ để mua tơ mà ngày nào dân cũng chở tơ mới quay được đến, chừng năm sáu hôm nữa số tơ đó sẽ nhiều vô số. Chúa cho rằng chúng tôi đáng lý ra phải vừa lòng rồi. Và chuyện tơ hãy xếp lại để bàn khi khác.
Mãi sau này chúng tôi mới biết rõ kết quả của những sự phỉnh phờ ấy - hễ không cho làm quan cai bộ trưởng vừa ý, thì chẳng mua bán gì được cả; họ đã có ý định bán tơ giá thật cao cho chúng tôi thì ắt chúng tôi phải mua cao; họ nói thẳng ý định ấy ra, ít nhiều lần cho chúng tôi biết.
Nguyễn Trọng Phấn (dịch)
Tết Nguyên đán ở Đàng Ngoài
Tranh mô tả các hoạt động ngày tết ở Đàng Ngoài do Samuel Baron vẽ - Ảnh: T.L
Mười lăm hôm trước khi hết năm, có phiên chợ miễn thuế mở khắp trong xứ, ai cũng được phép đem hàng tốt hạng nhất ra bày bán.
Quý tộc, dân dã, giàu nghèo mỗi người theo sức mình cũng muốn tiêu tiền; hàng đem đến tuy có đắt, người mua tuy có nghèo nhưng không ai là không muốn nhân dịp đầu năm trang hoàng bằng một vật gì mới và lạ. Vì suốt năm không có phiên chợ nào đẹp và lắm tiền như thế nên cuộc tụ hội của dân chúng (đông) quá sức tưởng tượng.
Lệ đi lễ và cách đem biếu quà cáp của người dưới đối với người trên hôm đầu năm có từ ngày xưa thì bây giờ bắt buộc và có một đạo luật rất nghiêm khắc chế định nên không ai có thể bỏ đi được. Các quan tùy theo phẩm trật của mình (có nhiều người lại tùy theo phẩm trật mình muốn đạt) mỗi năm gửi phẩm vật quý giá về dâng vua... Hạ quan gửi tặng vật về biếu thượng quan; học trò tết thầy, con cháu biếu gia trưởng, và như thế người dưới biếu người mà mình nhận là người đứng ngay hàng trên mình. Vì lễ vật nhận được rất nhiều và đủ các thứ, nên các quan có tục vào những ngày tất niên đem thết bà con và thân hữu một phần to; còn lại thì cho lính tráng, đầy tớ để cho ai cũng có cảm tưởng là được dự vào tết và mọi người được vui mừng sung sướng.
Chiều hôm ba mươi tết, mọi người đều trồng trước nhà một cây khô, hoặc một cái sào trên ngọn buộc một cái giỏ bé chung quanh có viền giấy mã, lóng lánh như kim tuyến (cây nêu ngày tết - PV), có ý nghĩa là tiêu trừ tà ma ra xa chỗ nhà ở cũng như cắm bồ nhìn (bù nhìn) trên ruộng gai hay những đất mới vãi hột để đuổi chim chóc. Nếu không có cái vật đáng sợ này trấn áp ở trước cửa thì thế nào ma quỷ cũng xông vào nhà để gieo tai vạ suốt năm, thảng hoặc có ai quên không trồng cây này thì mọi người sẽ chỉ trỏ người ấy và sẽ bàn tán ầm ĩ lên rằng nhà người ấy có ma.
Sau lúc giao thừa là lúc năm mới bắt đầu thì không ai được phép đóng cửa, ngõ vì ông bà ông vải hôm ấy về, họ phải sắp sẵn giường chiếu, họ cho rằng các cụ đi đường mệt lắm và cần phải nghỉ ngơi chút ít. Họ rất chăm nom đến các cụ, sợ rằng các cụ không thích nằm lại muốn ngồi, họ giải lên sàn nhà lau chùi rất sạch sẽ một chiếc chiếu hẹp; họ lại sắp sẵn một đôi guốc hoặc một đôi dép đế to bên cạnh một be nước để gần cửa vào để các cụ rửa chân (người Bắc kỳ thường đi đất, không có ao để rửa chân, thì ở bậc cửa có be nước họ dùng rửa chân, giữ chân sạch sẽ và trơn tru mãi đến lúc lên giường). Họ còn thêm vào hai cây mía để ông bà ông vải có thiếu sức thì dùng để chống mà đi... Cúng ông bà ông vải xong thì trong ba hôm tết họ không quét nhà, dù nhà bẩn thỉu và đầy rác rưởi...
Tết Hoàng thành
Nhưng muốn xem một quang cảnh đẹp đẽ nhất thì phải vào hoàng thành. Sáng sớm mồng một, khắp bốn góc thành phố và các vùng lân cận, ta nghe thấy ba cỗ thần công bắn báo hiệu. Đức vua, thấy hiệu súng cởi bỏ y phục cũ, tắm nước lạnh, tắm xong bận hoàng bào mới và rực rỡ ra thiết triều tại đại điện, các đại thần đã túc trực sẵn, các hoàng tử vào tung hô trước; tiếp đến các văn quan rồi mới đến các võ thần, các đình thần triều bái xong đức vua lui vào cung để nhận lễ của hoàng hậu, các bà phi, các cung tần và các thị nữ. Hoàng hậu quỳ lễ trước rồi mới đến các người kia theo thứ bậc của mình, lễ cử hành từ lúc chưa rạng đông. Chúa Trịnh cũng cử một viên quan sang triều bái và chúc tụng vua.
Trong lúc ấy thì quân hầu sửa soạn cuộc du xuân của vua. Lúc rạng đông, vua ngự ra khỏi cung, bận bộ hoàng bào rất lộng lẫy, ngồi trên kiệu có năm mươi người khiêng, mọi người đều chú ý đến ngài lúc bấy giờ là hình thể và tiêu biểu của sự cao cả. Ngài ngồi vừa khiêm tốn vừa nghiêm trang, đầu không cử động, mắt không liếc ngang lúc nào cũng như chăm chú đến một vật đặc biệt.
Trong lúc vua xuất hành thì chúa đi tế trời với bộ hạ thân tín, các quân hộ vệ và các phu thần ở giữa một cánh đồng rộng. Trong khi hành lễ thì chúa tay dâng một chén rượu rất kính cẩn và cúi mình vái dài; xong rồi ngài uống chén rượu đó... Các quan đọc sớ xin giời lúc hạn thì cho mưa và khắp trong bốn mùa lúc nào họ cũng được gió hòa mưa thuận. Chúa cũng khấn và khấn xong, cũng vái một vái dài.
Tế trời xong, muốn khỏi thất lễ với đất, chúa cầm một cái cày rất đẹp, mạ vàng, cày mấy luống và cầu xin đất ban ơn cho mọi người làm cho mùa màng được tốt đẹp.
Nếu hôm ấy mưa, họ cho là điềm tốt, không kêu rên rằng bị ướt, trái lại họ vui mừng và người nào được đẫm mưa nhiều nhất tin rằng đó là tin báo trước cho họ biết năm ấy ruộng, vườn được mùa và thâu nhiều hoa lợi; nếu lúc vua xuất hành mà mưa thì toàn thể dân chúng vui mừng và hoan hô đấng quân thượng. Đức vua có bị mưa ướt cũng vui mừng vì cho đấy là điềm tốt bảo ngài còn được ở ngôi cửu ngũ (dài lâu).
Bắt đầu từ đàn bà thì tôi phải thú rằng tôi vẫn cho áo họ là giản tiện nhất và họ không chịu để hở một phần thân thể nào cả, trong những dạo oi nực nhất cũng vậy. Họ mặc năm sáu thứ vải mỏng, màu khác nhau, cái nọ phủ lên cái kia. Cái thứ nhất dài sát đất và họ lê một cách trang trọng, đoan chính và uy nghiêm đến nỗi ta không thấy đầu bàn chân của họ. Rồi đến cái thứ hai, ngắn hơn cái thứ nhất bốn năm ngón tay; cái thứ ba ngắn hơn cái thứ hai, và cứ tiếp tục thế, cái sau phải cân xứng với cái trước. Thành ra các màu đều thấy rõ, tuy khác nhau. Ấy là thứ y phục mà đàn bà mặc từ thắt lưng xuống dưới, còn thân trên thì họ phủ bằng một loại vải giống như bàn cờ, màu sắc khác nhau; trên lại choàng một cái khăn quàng rất nhẹ mỏng trông qua còn rõ các màu sặc sỡ kia, hàm ý một xuân sắc đẹp vui, kiều diễm nhưng vẫn trang trọng và khiêm nhường.
Đàn bà để tóc xõa và tỏa lên vai, mọc dài có khi chạm đất; vì tóc càng dài càng được coi là đẹp. Đầu đội nón vành to che lấp cả mặt đi, làm người đàn bà không nhìn quá ba bốn bước ra đằng trước. Những nón ấy, tùy theo địa vị của người đội, còn thêu lụa hay vàng. Sự lễ phép bắt buộc người đàn bà, khi gặp ai mà muốn chào, chỉ phải đỡ cao nón lên để người ta thấy mặt.
Đàn ông không quần cụt và quấn cả một tấm vải, trên lại mặc thêm năm sáu cái áo (dây lưng?) dài và rộng, bằng lụa mỏng và nhiều màu, có tay to và rộng như tay áo của các cha dòng Saint Benoist; những áo này từ thắt lưng xuống đều rách và cắt vòng theo nhiều chấm lốm đốm. Thành ra khi đi chơi phố phường, họ đem khoe hết các màu sắc hỗn tạp ấy; giá có ngọn gió nhẹ thổi vào làm mớ áo ấy bốc lên và bay tỏa ra, thì người ta có thể nói họ là những con công đang xòe đuôi và phô trương hết các màu lông của chúng.
Đàn ông cũng nuôi tóc dài, chấm gót như đàn bà và cũng có nón. Ít người có râu, nhưng ai có thì không cắt đi bao giờ, y như người Trung Quốc cũng như họ nuôi móng tay dài; những nhà quyền quý không cắt móng tay bao giờ mà giữ móng tay để tỏ ra rằng họ cao quý cũng như để phân biệt với bọn cùng dân và các thợ thuyền không thể để móng tay dài vì vướng trong khi làm lụng...
Các văn nhân và các văn quan ăn mặc đứng đắn, ít lòe loẹt; trên các áo dài khác họ mặc một tấm áo dài bằng vải Damas đen. Họ lại còn có một thứ khăn tế đeo ở cổ, một thứ khăn tế bằng lụa xanh da giời khoác ở tay. Họ có chiếc mũ giống như mũ tế của các giám mục.
Cả đàn ông lẫn đàn bà tay cầm quạt, giống như quạt Âu châu, cầm để cho có vẻ hơn là vì lẽ gì khác. Trái với người Âu châu ta có tang thì bận đồ đen, họ lại bận đồ trắng. Chào ai, họ không để lộ đầu vì họ cho thế là vô phép và họ đồng ý với người Trung Quốc, coi sự để đầu trần không hợp với người có danh giá và rất bất kính nên muốn chiều tính họ. Các cố dòng ta đã xin được phép đức thánh Giáo hoàng Paul V của chúng ta khi làm lễ Misa ở các xứ này vẫn được đội mũ.
Sau hết, người Trung kỳ không có quần nịt, không có giày; muốn cho gan bàn chân khỏi bị thương tổn bất quá họ chỉ dùng một miếng đế giày bằng da, có mấy cái khuy hay mấy cái dải lụa giữ lại và buộc lên trên chân, thay cho dép, vì họ không nghĩ rằng đi chân không là trái lễ nữa (như để đầu trần). Dù mang giày hay đi chân đất, họ cũng không ngại khi chân vô ý hay cố ý vấy bùn, vì trong mỗi nhà ở bực cửa đã có sẵn một bể nước sạch để rửa chân; còn ai có dép thì khi vào nhà, bỏ ở cửa - khi ra mới lấy lại - vì trong nhà, nền đã trải chiếu rồi không còn lo bẩn chân nữa.
Đã biết rõ rằng người Trung kỳ không cố chấp về hành vi của mình nên các giáo sĩ của ta ở các xứ này không phải lo đổi kiểu áo. Áo này cũng giống kiểu áo chung cho toàn cõi Ấn Độ các vị ấy mặc một áo tu bằng những bông mỏng, kêu là Ehingon, thường có màu xanh da trời, và đi ra chỗ đông không mặc áo dài nào khác và không có áo quàng.
Tuy vậy họ không đi giày, kiểu Âu châu và kiểu bản xứ; vì thứ trên thì không thể có được, ở đây không ai biết làm; còn kiểu dưới thì họ không dùng được vì rất bất tiện cho những người không dùng quen, làm chân đau đớn tại các khuy làm dép hẹp lại nhưng lại làm choãi những ngón chân ra, ngón nọ cách ngón kia xa quá. Vì vậy họ thích đi chân không, lúc đầu bị đau bụng luôn luôn vừa tại đất ẩm thấp, vừa tại chưa quen. Thật ra ít lâu tự nhiên cũng quen đi và chân cứng làm cho người ta không thấy khó gì cả, dù có phải đi trên những đường đầy đá hay giẫm lên gai góc nữa. Riêng tôi, tôi quen đi nên khi trở về Ma Cao, tôi phải khó nhọc mới đi được giày lúc bây giờ sao mà nặng và bận chân tôi thế.
Trong nhật ký hàng hải của tàu buôn Hà Lan Grol đến Đông Dương vào thế kỷ 17 ghi rõ chuyện Karel Hartsinck có cuộc mua bán với chúa Trịnh.
Mồng 2 tháng sáu: Chúng tôi cho đò chở 14 người Hòa Lan (Hà Lan) ra tàu. Chúa sai một viên cai bạ trẻ đến hỏi ông Hartsinck xem có phải:
- Chúa Nguyễn đã nhượng lại cho chúng tôi Cù Lao Chàm; và chúa Nguyễn đã đem 17.000 lạng bạc mua 150 hạt ngọc của chúng tôi không?
Chúng tôi trả lời: Không, những chuyện ấy là do người Bồ Đào Nha bịa đặt ra cả.
- Có phải chúa Nguyễn đã lấy tiền của chúng tôi không?
Chúng tôi trả lời rằng có. Năm 1633, chúa Nguyễn cướp hết cả súng, tiền trên chiếc “Yacht” De Kemphaan đắm ở gần Cù Lao Chàm. Sau chúa Nguyễn còn tịch thu hết cả chỗ bạc do bọn thủy thủ chiếc “Yacht” Grootenbrock đắm ở đảo Paracelses, đã cứu được thủy thủ đoàn và đem vào xứ Đàng Trong.
- Thương hội có còn đòi chúa Nguyễn chỗ bạc ấy nữa không?
Chúng tôi trả lời còn.
- Thương hội có sẵn lòng giúp chúa Trịnh đánh nhau với chúa Nguyễn không?
Chúng tôi trả lời: Việc này phải do ông toàn quyền của thương hội quyết định.
- Nếu chúa Trịnh thắng được chúa Nguyễn thì hội có còn đòi chỗ tiền ấy nữa không?
Chúng tôi trả lời: Vẫn còn.
Mồng 3 tháng sáu: Chúa Trịnh bảo chúng tôi nộp hai hòm bạc rồi sẽ có tơ; tơ thứ hạng xấu.
Mồng 4 tháng sáu: Chiếc Galiore Bồ Đào Nha, rời Kẻ Chợ (tên gọi khác của Thăng Long - Hà Nội xưa - PV) bữa mồng 1 tháng năm, bị đắm trong vùng Hải Nam 350 tạ tơ mất cả, nhưng thủy thủ thoát chết, các giáo sĩ lên bộ đi Áo Môn (Macao).
Từ mồng 5 đến mồng 8 tháng sáu: Mấy điều lặt vặt về việc buôn bán.
Mồng 9 tháng sáu: Chúa lại triệu ông Hartsinck vào phủ, hỏi lại những câu hỏi đã thuật trên kia và ông Hartsinck cũng trả lời như trước.
Mồng 10 tháng sáu: Chúa lại dạm bán tơ nhưng theo những điều kiện mà chúng tôi không thể nhận. Chúng tôi được biết rằng chúa là một người ác và không đáng tin cậy. Người ta nghi rằng chúa vừa mới đánh thuốc độc em ruột. Dân chúng sợ chúa lắm.
Ngày 11 tháng sáu: Chúa Trịnh nhờ mấy người làm môi giới để lấy ba hòm bạc; chúa dọa sẽ bắt giam, nếu chúa không lấy được bạc. Muốn chiều lòng chúa, họ gom góp được nghìn lạng và các quan cai bộ cũng thêm được nghìn lạng nữa, còn thiếu bao nhiêu thì họ yêu cầu ông Hartsinck góp vào. Thoạt tiên, chúng tôi không chịu và nhắc lại sự thiệt thòi. Chúa đã lấy mất 20 hòm bạc và trả bằng tơ xấu, giá đắt lòi con ngươi; hai ông cai bộ cũng lấy 10 hòm bạc và cũng trả tơ xấu. Tàu đến 40 hòm bạc thì đã mất 30 hòm rồi, phải để dành 10 hòm cuối mà mua tơ của dân sự chớ. Vả chăng, chúa vẫn còn nợ chúng tôi và chúng tôi không hy vọng lấy lại chỗ tiền thiếu ấy mà không khỏi bị thắt nghẹt. Điều đình mãi, chúng tôi phải để chúa vay số bạc, lãi 2 phân một tháng gốc và lãi sang năm sẽ trả, khi chúng tôi trở lại Đàng Ngoài. Chúng tôi đã tính phác sơ rằng dùng tiền như thế sẽ được lãi 50, 60 phân nếu sang năm chúa trả chúng tôi. Nhưng chúng tôi ngờ vực sự thành thực của chúa… lắm.
Hôm nay, chúa ban yến cho mấy quan cai bộ để dò hỏi họ luôn thể xem ý kiến họ đối với chúng tôi ra sao? Họ trả lời tốt lắm; đồng thanh cho rằng người Hòa Lan đáng tin hơn người Trung Hoa, người Bồ Đào Nha và các dân tộc khác đã qua đây. Họ còn thuật lại những lời tâu ấy cho chúng tôi nghe; nhưng chúng tôi đã thừa biết rằng họ nói thế để mua chuộc cảm tình chúng tôi, chớ thật ra họ vẫn cấm dân sự buôn bán với chúng tôi, và họ giữ lấy tất cả số tơ trong xứ để bán lại rõ thật đắt.
Ngày 12 tháng sáu: Chúng tôi viết thư cho ông thuyền trưởng bảo ông gửi 1.200 lạng bạc.
Ngày 13 tháng sáu: Chúng tôi cố vận động để được yết kiến chúa hoặc các ông cai bộ. Nhưng không ăn thua. Một quan cai bộ trẻ đến thăm chúng tôi; chúng tôi bằng lòng giao cho ông 2 hòm bạc và cho giả cứ 1 fackaer (đơn vị đo lường trọng lượng của Hà Lan thời đó) bạc là 20 fackaer tơ. Ông ta hứa với chúng tôi nhiều điều lắm: năm nay chỉ có tơ xấu, nhưng sang năm tơ sẽ tốt hơn. Ông ta cho chúng tôi xem lệnh kỳ và ấn tín của vua. Ông phàn nàn về sự thất tín của… những người trung gian cần thiết trong sự giao dịch với dân sự. Ông khuyên sang năm chúng tôi nên đem thông ngôn ở Đàng Trong ra hoặc nơi khác đến.
Ngày 13 - 28 tháng sáu: Hàng khuân hết lên thuyền lớn rồi. Chúng tôi giao thêm một hòm bạc cho chúa.
Ngày 29 tháng sáu: Chúng tôi vào phủ từ biệt chúa. Chúa giao cho chúng tôi một bức thư cho ông toàn quyền của thương hội và ông trưởng hội ở Nhật Bản. Chúa giao cho chúng tôi một lá lệnh kỳ và một con dấu. Chúa lại yêu cầu hội giúp cho việc đánh bại chúa Nguyễn. Chúa hứa hẹn với chúng tôi nhiều lắm. Chúng tôi lại yêu cầu chúa tha những người Hòa Lan ra. Chúa bảo đã tha họ rồi.
Viên đốc công và người coi súng bị 30 người có khí giới đánh bị thương hôm nay.
Ngày 30 tháng sáu: Chúng tôi vào thưa quan cai bộ sự hành hung hôm qua; hình như chính quan cai bộ sai bọn thủ hạ của mình làm bậy. Ông chối nói không biết bọn hung đồ ấy và hứa sẽ nghiêm trị nếu bắt được chúng.
Người ta khuyên chúng tôi chớ làm đơn trình chúa vì không ăn thua gì đâu và lại làm chậm cuộc về của chúng tôi thôi.
Mồng 1 tháng bảy: Chúa giao tặng vật biếu ông toàn quyền và ông trưởng hội bên Nhật Bản.
Mồng 2 tháng bảy:
Ông Hartsinck rời khỏi xứ Đàng Ngoài.
Mồng 3, 5 tháng bảy: Đi đò xuôi sông và xuống đến thuyền lớn.
Mồng 6 tháng bảy:
Viên đốc công bị mổ. Tính mệnh ông nguy kịch lắm.
Mồng 7 tháng bảy:
Giương buồm.
Mồng 7 tháng tám: Sau 32 ngày thì hôm nay chúng tôi vào bến Hirado (Nhật Bản). Dọc đường, không có gì đáng kể.
Tập hàng hải nhật ký (journal de bord) của chiếc thuyền buôn Hòa Lan (Hà Lan) mang tên Grol từng đến VN vào năm 1637 mô tả việc người nước ngoài yết kiến chúa Trịnh.
Ngày 18 tháng tư. Các phái viên tới bờ sông mời thuyền trưởng của chúng tôi lên nghe tuyên đọc tờ chỉ của vua. Hai ông Hartsinck và Vincent Romeyn lên bờ, các phái viên mở chỉ ra đọc rồi giảng chỉ, đại ý như thế này: Việc người Hòa Lan đến Đàng Ngoài làm cho vua rất đẹp ý. Ngài có cử phái viên để dẫn người Hòa Lan và hàng hóa đến kinh kỳ, lần này thì không theo lệ khám xét thuyền nhưng ngài muốn có một bản kê khai thực đúng các đồ vật hàng hóa trong thuyền.
Sau đó các phái viên mới xuống thuyền, đem theo nhiều binh lính, chúng tôi đoán có lẽ tại người Bồ Đào Nha đồn bậy về chúng tôi, nên họ mới đề phòng. Nói chuyện với các phái viên, chúng tôi mới tường duyên cớ và có biện bạch để bào chữa cho mình, có kể được chính phủ Nhật biệt đãi, còn người Bồ Đào Nha thì bị cầm giữ trong một hòn đảo nhỏ. Chúng tôi nói muốn sau này đem những thuyền to sang đây buôn bán. Đôi bên từ biệt nhau rất thân thiện. Hàng hóa dỡ xuống đò.
Ngày 19 tháng tư. 9 giờ sáng; 10 chiếc đò chở các phái viên và hàng hóa của thương hội kéo buồm chạy. Mặt trời lặn thì đến sông Luộc (Cona-Lacq), chúng tôi áp mạn.
Ngày 21 tháng 4. 1 giờ trưa, gặp thuyền các giáo sĩ Bồ Đào Nha, thêm chiếc Galiote, có một chiến thuyền của vua đi kèm. Chiếc thuyền Bồ Đào Nha chở 620 tạ tơ, đến xứ Đàng Ngoài từ tháng một tây năm ngoái, còn chiếc Galiote thì đến sau một tháng. Chúng tôi tiếc rằng chiếc Waterlooze Werve không thể sang đây được, trái với ý định của chúng tôi, nếu có nó đi tuần ở ngoài bể thì thế nào hai chiếc kia cũng bị nó bắt.
Ngày 22 tháng tư. Mãi tối mới đến Kẻ chợ (tên gọi khác của Thăng Long - Hà Nội xưa - PV). Chúng tôi có hứa sẽ biếu quan (đứng đầu các phái viên) và ông Cai bạ nhiều thứ đẹp nếu hai ông giúp cho chúng tôi buôn bán được lợi ở đây. Hai ông có xin chúng tôi cho hai hòm bạc rồi các ông sẽ đổi tơ cho, theo như lệ xưa nay với tất cả thương khách các nước kể cả người Nhật Bản. Tuy chúng tôi không muốn, nhưng sau cũng cho họ hai hòm nhưng buộc phải trả chúng tôi bằng số tơ nặng gấp 17 lần.
Ngày 23 tháng tư. Quan phái viên trưởng và quan Cai bạ vào chầu trong phủ chúa. Hai giờ chiều, tất cả các đò đều ghé bến Kẻ chợ. Các quan trong phủ đòi 30 hòm bạc, sau sẽ có tơ trao cho, chúng tôi không nghe nhưng sau phải chịu mất 20 hòm. Họ coi bạc và hàng một cách “suồng sã” quá, như của ăn cắp vậy.
Buổi chiều, các ông Hartsinck, Vincent Romeyn, các người phụ tá, người làm, tất cả là 17 người, đi theo quan phái viên trưởng và quan Cai bạ vào phủ. Trước khi vào, chúng tôi phải bỏ gươm ra. Người ta bảo chúng tôi lễ, chúng tôi chào theo lối Hòa Lan, tuy chẳng thấy chúa đâu cả, trong phủ không nom thấy ngài và chẳng có quan đại thần nào. Chúng tôi ngồi xuống chiếu chung quanh có nhiều quân lính mang khí giới. Các tặng vật đem vào điện, không được trịnh trọng và lễ nghi cho lắm. Họ cho chúng tôi ăn và uống theo lối trong xứ.
Chúng tôi sai hai viên phụ tá Mathys ten Broecke và Pieter Huysmans vào phủ mở các hòm bạc và hàng hóa để chúa lựa chọn. Lúc chúng tôi ăn xong, chúa phái hai viên Cai bạ còn trẻ đến hỏi chúng tôi về vị trí nước Hòa Lan ở phương nam hay phương bắc. Chúng tôi đáp: “Ở 52 độ thuộc bắc vĩ, nước Hòa Lan sản xuất hổ phách, dạ len, tơ, lụa, nhung, sa tanh, dạ kim tuyến, dạ ngân tuyến cùng nhiều hàng khác nữa”.
Ăn xong chúng tôi đứng lên và chào một lần nữa, tuy chẳng thấy chúa hoặc một quan to nào cả. Chúng tôi cáo từ, rất bực tức về cách họ tiếp đãi và cách họ lôi vứt hàng hóa. Tối đến, chúa sai khiêng trả lại những hòm và hàng hóa còn lại chúa không dùng sang nơi chúng tôi đóng, kèm thêm 5 vạn tiền đồng, mấy lọ cá thối và mấy lọ cau. Đêm nay, chúng tôi ngủ cả dưới đò.
Ngày 25 tháng tư. Chúng tôi được vào phủ chầu chúa, nhưng không được thấy long nhan. Nhưng (lúc trước) đã được gặp chúa ngự kiệu, xa giá ở dọc đường. Chúa tuổi đã cao, có ba, bốn nghìn quân lính đi tùy giá. Người ta đồn ngài có đến 60 bà phi và 84 người con. Hôm sau bọn Bồ Đào Nha được vào yết kiến chúa và lại nhắc lại những điều họ thường vu cáo chúng tôi.
Ngày 26 tháng tư. Trong cuộc giao thiệp với triều đình Đàng Ngoài, chúng tôi được một người đàn bà Nhật, bà Ouroussa giúp đỡ rất nhiều; bà lại còn làm thông ngôn cho chúng tôi. Bà đã đảm nhận lấy việc bênh vực chúng tôi trước mặt chúa Trịnh chống với lời vu cáo của bọn Bồ Đào Nha. Bà có cho chúng tôi biết rằng chúa Trịnh không để vào tai những lời sàm tấu của người Bồ Đào Nha và tại phủ liêu, người ta không hề tin rằng người Hòa Lan chúng ta có những dự định sằng bậy để đến Đàng Ngoài.
Ngày 27 tháng tư. Chúng tôi trở lên bộ, một số lớn bạc còn lại trong thuyền.
Ngày 28 tháng tư. Chúng tôi được tin rằng chín người Hòa Lan, vài người khách trú (Trung Quốc) bị quan trấn hải tước hết trọng pháo, súng ống, đạn dược; giữ chiếc thuyền lại mười ngày, xong rồi thả cho đi, chỉ bắt giam viên hoa tiêu và hai người Hòa Lan vào ngục; còn bọn khách trú trốn thoát hết. Chúng tôi làm sớ dâng lên chúa Trịnh để xin tha cho những người Hòa Lan bị cầm tù; chúng tôi cam đoan sẽ trả hết số tiền quan trấn hải chắc đã chi phí về việc bắt giữ cho họ; chúng tôi xin chúa trả lại cả những súng, đạn cho chúng tôi.
Trong số 13 của tạp chí Excursions et Reconnaissances xuất bản tại Sài Gòn vào năm 1882, ông A.J.C Geerts, cố vấn Bộ Nội vụ ở Đông Kinh, có dịch ra chữ Pháp tập hàng hải nhật ký (journal de bord) của chiếc thuyền buôn Hòa Lan (Hà Lan) mang tên Grol từng đến VN vào năm 1637. Tập nhật ký đã cho thấy phương thức giao thương giữa VN với người phương Tây hồi thế kỷ 17.
Chiếc Grol được viên Giám đốc chi nhánh Ấn Độ Hòa Lan thương hội (Compagnie orientale des Indes néerlandaisee) ở Bình Hộ đảo (Hirado) là ông Koeckebacker cử đi mở đầu cuộc thông thương giữa Hòa Lan và Bắc kỳ. Sau đó Ấn Độ Hòa Lan thương hội mới lập một chi điếm ở Phố Hiến (Hưng Yên).
Ngày 31 tháng giêng tây. - Ngày 31 tháng giêng năm 1637, chiếc Grol rời đảo Bình Hộ (Hirado, Nhật Bản) để sang Đàng Ngoài. Trên thuyền có viên thương đoàn trưởng Karel Hartsinck đứng đầu phái bộ thương mại; ông Vincent Romeyn, người Hòa Lan, trú ngụ ở Trường Kỳ (Nagasaki) không làm cho Ấn Độ Hòa Lan thương hội, một mình đứng buôn bán riêng và trong việc bán buôn thường giao thiệp với lão Melebior Santovoort, là người Hòa Lan đã đến Nhật Bản từ ngày 19 tháng tư năm 1660. Giám đốc chi nhánh của thương hội ở Bình Hộ đảo là ông Nicolaas Keockebacker đã nhờ ông Vincent Romeyn đi chuyến này và đem tri thức và sự từng trải ra giúp thương hội; để đền công ông, hội cho phép ông mua (ở Nhật Bản) chừng hai nghìn rưỡi nén tiền hàng và hội chở không chỗ hàng ấy sang Đàng Ngoài cho ông.
Ông giám đốc của hội ở Nhật Bản có giao cho ông Karel Hartsinck một bức thư để dâng lên quốc vương xứ Đàng Ngoài và ông còn dự định phái một thương thuyền thứ hai là chiếc Waterlooze Werve từ Nhật Bản sang Đàng Ngoài nữa.
Ngày 5 tháng ba. - Bữa 5 tháng ba thì chúng tôi vào vịnh Hàn (Turon, Turan, Tourane, Cửa Hàn).
Ngày 13 tháng ba (1637) chúng tôi rời bến Quinam (Quảng Nam), ông Ducker có trao cho ông Hartsinck tờ báo cáo (mémoire) sau này về xứ Đàng Ngoài:
“Xứ Đàng Ngoài và xứ Đàng Trong đang chiến tranh; tuy hai chúa thâm thù nhau nhưng nhân dân hai xứ vẫn được thông thương buôn bán. Vậy trong khi đậu lại trong xứ Đàng Ngoài chúng mình vẫn có dịp giao thiệp với chi điếm ở Quinam.
Vào tháng một năm 1636, giá tơ rất hạ ở Đàng Ngoài và chỉ có 45 lạng một tạ. Nhưng vì có ba chiếc mành Bồ Đào Nha đến hai chuyến, một chuyến vào cuối tháng một năm 1636 và một chuyến vào ngày 15 tháng hai 1637, nên giá tơ lại lên 60 lạng một tạ rồi. Chúa Trịnh đã thâu nhận số tiền bốn vạn lạng của người Bồ Đào Nha đem đến và hứa sẽ tìm đủ số tơ cho họ. Trong số bốn vạn lạng nói trên có ba mươi hòm tiền bạc Nhật Bản tiếng Hòa Lan gọi là Schuitjes hoặc Schuitgeld.
Chúa Nguyễn và Chúa Trịnh vốn là thân thích. Ta nên nhân dịp chiếc Grol thăm xứ Đàng Ngoài để dò hỏi một cách kín đáo xem chúa Trịnh có thể giúp lấy lại số 2 vạn 3 nghìn 5 trăm 80 reales (đơn vị tiền tệ Tây Ban Nha) do chiếc thuyền Grooten Brock chở; số tiền ấy khi thuyền đắm đã cứu được nhưng lại bị dân xứ Quinam chiếm giữ rất trái phép. Việc này cần phải điều đình khéo léo và kín đáo mới được, không nên nói thẳng cho Chúa Trịnh hoặc một vị đại thần nào biết, vì ở triều đình Thăng Long có tin tức gì thì trong Thuận Hóa đã được mật báo rồi. Và nếu Chúa Nguyễn biết chuyện chúng mình vận động, thì tất cả các quan chức trong chi điếm của chúng ta ở Quinam sẽ lâm nguy hết sức và lúc đó cái xứ tàn nhẫn ấy sẽ gây ra một bi kịch thực”.
Ngày 18 tháng ba. - Thời tiết và gió ngược nên chúng tôi lại phải quay mũi lại và bỏ neo gần Cửa Hàn. Sáng nay chúng tôi thấy chiếc Rurop của ta ra khỏi vịnh Hàn.
Ngày 23 tháng ba. - Hôm nay lại giương buồm ra Đàng Ngoài.
Mồng hai tháng tư. - Hôm nay mồng hai tháng tư, viên phụ tá và người thông ngôn của chúng ta trở về thuyền với viên quan coi thuyền chiến và hai người thư ký; tuy vậy họ vẫn còn giữ lại một người lính Hòa Lan tên là Wolf và một người dân bản xứ. Hai ông Eems (phụ tá) và Strick (thông ngôn) đã được đối đãi tử tế; người ta căn vặn hai ông xem người Hòa Lan đến làm gì, tự ý đến hay bị phong ba đánh dạt vào; hai ông giả nhời rằng: “Chúng tôi ở Nhật Bản lại; được nghe đại danh của vua chúa, nhân bên Nhật lại có chiếu cấm dân Nhật không được sang Đàng Ngoài buôn bán nữa nên ông quản lĩnh chi hội của Thương hội Hòa Lan ở bên ấy có phái một chiếc thuyền buôn sang để thân giao và buôn bán với xứ Đàng Ngoài. Hai ông lại có xin các quan cho phép chúng tôi được ngược sông và chở theo cả hàng hóa sớm ngày nào hay ngày ấy”.
Quan trấn hải thấy tặng vật của chúng tôi do viên phụ tá mang đến ít ỏi quá, trước hết khước từ, ý chừng cho rằng không xứng đáng với chức vụ của ông; nhưng sau cũng nhận, lấy cớ rằng chúng tôi là khách lạ ở phương xa mới đến chưa hiểu rõ phong tục ở đây. Ông lại thể tất quá lòng mong mỏi của chúng tôi; ông bảo chúng tôi ứng cho ông năm hòm bạc để ông mua tơ và quế giúp chúng tôi. Viên phụ tá có trả lời rằng không có quyền riêng để trả lời ông về chuyện đó. Sau rồi quan (trấn hải) lại bảo rằng ông Hartsinck là trưởng đoàn thương mại của chúng tôi nên đến công đường ông để bàn về việc ấy.
Họ rất thông minh và có trí nhớ rất tốt, có lẽ không dân tộc nào hơn được; họ học rất dễ và dễ nhớ những điều mà người ta dạy họ.
Phụ nữ Bắc kỳ ngày xưa - Ảnh: T.L
Bản tính họ tốt, nhũn nhặn; miễn là ta tỏ tình yêu mến họ là họ đem lòng tốt trao cho ta một nụ cười, một lời nói tử tế, một sự giúp đỡ cỏn con và chút ít chứng cớ của lòng ta đối với họ là hoàn toàn thu phục được họ ngay. Họ thăm nom và chiêu đãi những người ngoại quốc, ước ao được xem những vật kỳ lạ và khi đã được xem rồi đòi xin cho kỳ được. Dáng điệu họ lễ phép; lời nói lại ôn tồn; nên khi muốn tỏ lòng biết ơn ai đã giúp đỡ, họ tỏ vẻ vui mừng và hết sức trả ơn, dù công việc có khó khăn nguy hiểm đến đâu cũng mặc.
Họ say mê việc buôn bán, luôn luôn bàn về việc bán, mua. Trong các thành thị và các làng, người (Đàng Ngoài) sống giản dị và lương thiện; những chuyện tầm bậy của những kẻ dại dột thiếu hạnh kiểm không thể làm lu mờ những bà mặc y phục giản dị cốt ý gìn giữ danh tiết hơn cả những đàn bà Âu châu và Đông phương. Có lẽ ta có thể trách họ để hở chân đi đất nhưng phong tục ở đây như thế, hai nữa là đất đồng bằng mềm, dễ đi không có đá.
Trừ mặt và hai bàn tay để hở, họ bận một cái áo rộng, gần giống kiểu áo thầy tu, trên cổ rất hẹp, dài từ trên vai xuống hai bàn chân; đầu đội nón không đeo mạng; vành nón rất rộng tựa như dù che nắng làm bằng là một thứ cây mọc trong xứ, tờ nọ xếp lên tờ kia rất khéo và khâu liền với nhau bằng một thứ dây lấy ở một cây thân gai như cây sậy. Nón bán khá đắt nhưng không có gì nhẹ hơn, tiện hơn để che nắng, hơn cả dù vì dù còn phải cầm tay chớ nón đã có quai rất đẹp buộc từ hai bên thanh xuống cằm để cho nón khỏi rơi dù có gió mạnh.
Thường thường họ mặc áo mỏng vì quanh năm nóng bức trừ vài ngày rét buốt thôi. Họ không có lệ đánh phấn nhưng họ nhuộm răng hết sức đen (đàn ông cũng vậy) vì răng càng đen càng quý. Ngày xưa hồi còn nội thuộc nước Tàu, đàn ông và đàn bà còn bới tóc ngược, chải có thứ tự và bện bằng lông đuôi ngựa, trên chùm chiếc mão; nhưng từ ngày họ được tự do, muốn tỏ rằng họ đã thoát ly và khác ý kiến với người Trung Quốc, họ để tóc dài, phủ xuống vai, không chải. Tóc càng đen, không buộc, dài và để hỗn độn bao nhiêu lại càng được chuộng. Những đào kép hát, hát bội thường để tóc như vậy, nhất là đào hát.
Đào nương rất nhiều và tập hát rất cẩn thận tuy không bao giờ họ hát hết bài. Ca nhạc thường réo rắt ban đêm và các ca nương thường làm bọn đàn ông mất ngủ… Người Âu châu nào biết và hiểu tiếng, lại được tường âm nhạc bản xứ chắc sẽ thích lời nói, giọng ca, điệu hát hơn là bọn nữ nhạc của bên ta. Muốn được tiếng là tốt giọng và hát hay, họ giữ gìn giọng hát cẩn thận đến nỗi đã hẹn hát với ai, trong thời kỳ luyện tập, họ kiêng kỵ không đi lại với chồng hay nhân ngãi, nhịn không ăn thịt vì sợ thịt làm sai, hỏng mất tiếng. Nhưng họ rất chuộng một thứ ếch, thịt ăn làm trong được giọng.
Họ kiếm được rất lắm tiền chỉ nhờ về nghề hát. Nếu được đức vua nghe thấy giọng ca và nếu họ làm được ngài vừa ý thì họ sẽ được tuyển vào đội nữ nhạc của vua. Nếu họ có nhan sắc, ngoài giọng hát hay, họ sẽ được tuyển vào cung; nếu họ sinh được con giai thì chẳng những họ sẽ được kính trọng hơn, được thêm bổng lộc mà cậu con lại có hy vọng được lên làm vua, như những ông hoàng khác…
Đàn ông không tốn tiền quần áo. Bọn dân dã suốt năm đi đất và dùng một miếng vải che chỗ mà lễ nhượng bắt họ phải giấu kín. Mùa hè dài. Suốt năm nóng (trừ vài ngày gió bấc thổi hết sức lạnh) nên họ hết sức đảm sự may mặc. Tuy vậy quần áo họ vẫn có vẻ trang nghiêm và bệ vệ. Người giàu có hoặc có ít nhiều quyền thế được tôn trọng mặc một chiếc áo lụa dài đến đầu gối (khác với bọn cùng dân mặc áo vải), ở trên phủ một chiếc áo dài nữa giống như áo ta mặc trong phòng ngủ, chấm đến cổ chân, tay rộng nửa sải và dài như áo. Khác với người Trung Quốc dùng dải lụa buộc vạt phải lên sườn trái để lúc đi áo khỏi tỏa ra làm khó coi và trái với lễ độ, người Bắc kỳ buộc vạt áo cao lên bên trên háng chừng bốn ngón tay như thế áo kín hơn và đúng hơn. Có thắt lưng họ cũng buộc chếp cho áo thành ba bốn nếp dài ở dưới, để phân biệt các người với nhau. Nhưng khi nào họ phải vào chầu hay dự vào các cuộc hội hè, họ mới chếp áo mà thôi.
Áo các sư rộng hơn, may bằng vải hay lụa quý hơn. Mũ ni hình tròn, cao hai ba ngón tay ở đằng sau có miếng vải cùng một thứ hàng, cùng một màu với mũ và che kín nửa vai, áo cà sa màu tím, hạt dẻ nhạt và sẫm phơn phớt hoa đào hay đen bóng; cũng có cái màu xanh, vàng hay đỏ hung.
Cũng có nhà sư mặc một thứ áo ngắn trên có nhiều đường thêu đối nhau lồng hột thủy tinh hay pha lê ngũ sắc, óng ánh rất đẹp trong những dịp lễ lớn.
Người Bắc kỳ chỉ dám ăn mặc ở kinh kỳ, còn ở các tỉnh, và các làng khác, tuy họ không thiếu gì áo đẹp, họ ăn mặc tồi tàn để cho người khác khỏi biết rằng họ giàu có và sung sướng để tránh cho quân gian phi khỏi đến cướp phá, cho bọn quan lại khỏi đến sách nhiễu lợi dụng, bắt chịu thuế má cao, đóng góp nặng.