Hình tượng Hồ Nguyên Trừng
   Quân sự Đại Việt cuối thời Trần đi xuống rất nhiều. Đến khi nhà Hồ thành lập, rất quan tâm củng cố binh bị. Hồ Quý Ly rất mong muốn có được một đội quân đông đảo nhằm bảo vệ đất nước. Ông từng nói với các quan: “Làm thế nào có được 100 vạn quân để chống giặc Bắc?”.
Để có quân đông, nhà Hồ lệnh cho cả nước làm sổ hộ tịch. Phàm những người từ 2 tuổi trở lên đều phải biên vào sổ. Từ khi việc làm hộ tịch đã hoàn tất, số dân đinh từ 15 đến 60 tuổi thống kê được đã tăng gấp đôi. Bấy giờ trong nước có quá đông nhà sư, nhiều người mượn tiếng tu hành mà trốn tránh việc đời. Hồ Quý Ly lệnh bắt tất cả những sư dưới 50 tuổi phải hoàn tục. Lại lệnh cho các nhà sư phải thi về kinh Phật, ai thi đạt mới được tiếp tục tu hành. Nhờ những chính sách này, quân số Đại Việt tăng vượt bậc so với các đời trước.
Tuy nhiên đó cũng chỉ là trên lý thuyết bởi điều động được quân lính là một chuyện, huấn luyện và trang bị cho quân lính lại là chuyện khác nữa. Rốt cuộc, khi tiến hành chiến tranh thì nhà Hồ vẫn không thể có được 100 vạn quân chiến đấu. Trái lại, việc phát triển quân đội theo chiều rộng mà bỏ bê chiều sâu khiến cho tinh thần chiến đấu của quân Đại Việt bấy giờ nhìn chung không cao. Các tướng nhà Hồ khi đánh Chiêm Thành phải dùng nghiêm lệnh, ai sợ hãi thì bị chém ngay, vợ con, điền sản đều bị tịch thu sung công. Bấy giờ quân lính mới chịu liều chết đánh giặc.
Về vũ khí, ngoài các loại vũ khí truyền thống thì Thần Cơ Thương Pháo của quân Đại Việt thời Hồ là một trong những loại vũ khí tối tân hàng đầu thế giới thời bấy giờ, với những sự kế thừa từ súng đại pháo cuối thời Trần và những cải tiến đáng kể của Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng, người con trai cả của Hồ Quý Ly. Để trưng thu nguyên liệu đồng trong dân phục vụ cho việc đúc súng, Hồ Quý Ly lệnh cho dân đổi hết tiền đồng sang tiền giấy mang tên Thông Bảo Hội Sao. Những ai làm tiền giả hoặc còn chứa và sử dụng tiền đồng sẽ bị xử tội chết, tịch thu gia sản. Xét ra việc lưu hành tiền giấy vừa giúp tiết kiệm nguyên liệu, vừa có phương thức giao dịch tiến bộ.
Tuy nhiên chính sách tiền giấy của Hồ Quý Ly phạm phải lỗi cơ bản là đi ngược nguyên tắc tiền tệ phải có đủ cơ sở để nhân dân tin tưởng vào giá trị giao dịch của nó. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa chưa thực sự phát triển hoàn thiện, tự thân tiền đồng được đảm bảo giá trị bằng vật liệu làm ra tiền. Khi đổi sang tiền giấy, tâm lý người dân thời kỳ này đa phần cho rằng giấy là vật liệu giá trị thấp, dẫn đến hoài nghi về tiền tệ mới. Điều đó khiến cho đời sống nhân dân bị xáo trộn rất lớn, ảnh hưởng đến uy tín của triều đình mới với nhân dân.
Thời kỳ Hồ Quý Ly chuyên chính đến xuyên suốt triều Hồ, nhiều thuyền chiến lớn nhỏ được đóng mới liên tục để bổ sung cho những mất mát trong chiến tranh và để làm đội thuyền dự bị. Dưới sự thiết kế và đốc công của Hồ Nguyên Trừng, quân Đại Việt phát triển hai loại chiến thuyền mới. Một loại là thuyền đóng đinh sắt ngoài vỏ, đặt tên là Trung Tàu Tải Lương. Một loại là thuyền chiến lớn có hai lầu, cũng đóng đinh sắt ngoài vỏ, chở được nhiều quân lính, có thể mang trọng pháo, tên gọi là Tải Lương Cổ Lâu. Sở dĩ hai loại thuyền đều gọi là thuyền “tải lương” là để tránh sự dò thám của nước Minh. Ngoài việc chỉ huy đúc súng và đóng thuyền, Hồ Nguyên Trừng còn là người chỉ huy các việc xây thành, việc đào kênh, đắp đê, vét sông phục vụ dân sinh và quân sự.
Ngoài hệ thống các ngạch quân đã có từ đời Trần, năm 1405 Hồ Hán Thương cho thành lập thêm 12 vệ quân Nam ban và Bắc ban, 18 vệ quân Điện hậu đông và tây, mỗi vệ 18 đội, mỗi đội 18 người. Đại quân gồm 30 đội, trung quân gồm 20 đội, doanh gồm 15 đội, đoàn gồm 10 đội, cấm vệ đô gồm 5 đội. Đại tướng quân trông coi tất cả. Quân Long Tiệp được tăng cường thêm hai vệ Thiên Ngưu và Phủng Thần, đặt chức Thủy quân đô tướng và Bộ quân đô úy trông coi. Hương binh cũng được tuyển mộ thêm nhiều. Những người nghèo khổ mà khỏe mạnh sung vào quân dũng hãn, giao cho Thiên hộ, Bách hộ cai quản.
Thời kỳ cuối nhà Trần đến nhà Hồ là thời kỳ mà Đại Việt chịu sự đe dọa lớn từ cả nước Minh phía bắc lẫn nước Chiêm Thành phía nam, lại thêm trong nước đảng cướp nổi lên rất nhiều. Có thể nói là ở trong tình thế rất khó khăn. Để chống lại những sự đe dọa đó, Hồ Quý Ly có đường lối khác nhau. Đối với nước Chiêm Thành, quân Đại Việt thẳng thừng sử dụng ưu thế về quốc lực, quy mô quân đội mà đánh phủ đầu. Đối với nước Minh, Đại Việt tỏ ra mềm mỏng, trong nước thì tăng cường xây dựng thành trì phòng thủ. Thành Đa Bang được xây dựng ở Cổ Pháp (thuộc Ba Vì, Hà Nội ngày nay) rất kiên cố, tường thành cao, hào sâu, dọc sông cắm cọc gỗ, giăng xích sắt. Xung quanh thành Đa Bang là hàng loạt các chiến lũy, đồn quân. Ngoài thành Đa Bang, nhà Hồ còn xây dựng nhiều thành trì bằng gạch rất dày như thành Đông Đô (Hà Nội ngày nay), thành Tây Đô (An Tôn, Thanh Hóa)… Trong nước đâu đâu cũng có chiến lũy, công sự dự phòng.
Nhìn chung, quân Đại Việt thời Hồ có thể nói là đội quân đông đảo, đã trang bị tốt, có thành trì vững chắc. Thế nhưng, đội quân này lại có những điểm yếu cốt tử. Những tướng lĩnh chỉ huy chủ chốt của quân đội nhà Hồ chỉ có năng lực trung bình hoặc yếu kém, thường hay có những quyết định sai lầm. Vì chú trọng chiều rộng nên không có đủ thời gian huấn luyện bài bản, quân đội thời này kém xa quân Đại Việt nhà Trần lúc cực thịnh về độ tinh nhuệ, tinh thần chiến đấu. Đường hướng chiến thuật thiên nhiều về phòng ngự, thủ thành vốn không phải là sở trường của một đạo quân người Việt truyền thống.
Các chiến thắng oanh liệt của Đại Việt đời trước đều dựa nhiều vào dã chiến, giao tranh ngoài thành trì, chủ động đánh và rút, cơ động nhanh bằng thuyền nhẹ. Triết lý xây dựng quân đội của Hồ Quý Ly hoàn toàn trái với lời dạy của Hưng Đạo vương xưa là “giặc cậy trường trận, ta có đoản binh”. Do nhà Hồ thành lập không được chính danh, lại thêm vội vàng tiến hành cải cách trái với ý nguyện của nhiều tầng lớp nhân dân, quân đội vì thế mà thiếu đi sự ủng hộ của dân chúng và giới tinh hoa. Đúng như Nguyễn Trãi đã nói trong Bình Ngô Đại Cáo là “chính sự phiền hà”, quân đội nhà Hồ do đó mất đi khả năng tiến hành chiến tranh nhân dân. Đó cũng là điểm yếu lớn nhất của quân đội nhà Hồ.

Chu Nguyên Chương và dã tâm xâm lược Đại Việt

Tranh Chu Nguyên Chương
   Năm 1377, sau khi hay tin vua Trần Duệ Tông nước Đại Việt tử trận, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đã có ý định thừa cơ hội để cất quân sang đánh.



Cuối thế kỷ 14, đương lúc nước Đại Việt chìm trong khủng hoảng và bước vào giai đoạn chuyển giao quyền lực thì ở phương bắc cũng diễn ra những cuộc tranh hùng khốc liệt. Đế chế Nguyên Mông bấy giờ bước vào giai đoạn suy tàn, nhân dân trong nước đồng loạt nổi dậy. Từ trong đống tro tàn của đế chế Nguyên Mông, một đế chế mới ra đời. Chu Nguyên Chương, một trong những lãnh tụ khởi nghĩa chống quân Nguyên đã đánh đuổi thế lực Nguyên Mông ra khỏi hai đồng bằng Trường Giang, Hoàng Hà. Thế lực Nguyên Mông vẫn tồn tại ở thảo nguyên phía bắc một thời gian dài, sử gọi là Bắc Nguyên.  Đồng thời với việc đánh đuổi quân Nguyên, Chu Nguyên Chương còn lần lượt đánh bại các thế lực quân phiệt mang danh nghĩa chống Nguyên khác để lên ngôi hoàng đế vào năm 1368, sử gọi là Minh Thái Tổ. Kế thừa phần lớn lãnh thổ mà đế quốc Nguyên Mông đã chinh phục trong hàng trăm năm, Minh Thái Tổ đặt tên cho đất nước của mình là Đại Minh, Kim Lăng được chọn làm kinh đô, đổi tên thành Nam Kinh.
Nước Minh ngoài việc thừa kế lãnh thổ rộng lớn của đế quốc cũ, còn tiếp thu nhiều tiến bộ về kinh tế, quân sự, xã hội của thời kỳ trước. Quân Minh vừa có số đông, vừa có nhiều vũ khí tiên tiến và cơ cấu tổ chức phỏng theo quân đội Mông Cổ. Với khí thế của một đế chế mới nổi lên, Minh triều cũng có tham vọng bành trướng và đã sớm nhòm ngó đến nước ta.
Năm 1377, sau khi hay tin vua Trần Duệ Tông nước Đại Việt tử trận, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đã có ý định thừa cơ hội để cất quân sang đánh. Tuy nhiên bấy giờ Minh triều mới lập, mối đe dọa từ Nguyên Mông vẫn còn lớn. Vả lại nội bộ triều Trần vẫn còn đoàn kết, quân dân vẫn đồng lòng với triều đình nên khiến nước Minh chùn tay. Biết được rằng Thượng hoàng Trần Nghệ Tông đã lập con trai thứ của Trần Duệ Tông là Trần Hiện (tức Trần Phế Đế) lên ngôi thay cho cha mình vừa tử trận, Thái sư Lý Thiện Trường của Minh triều đã can rằng: “Em chết vì nạn nước mà anh lập con của em lên. Xem việc người như vậy, thì có thể biết được mệnh trời”. Vua Minh nghe theo lời ấy, bèn tạm ngưng kế hoạch xâm lược.
Về sau, thế lực Minh triều ngày càng hùng mạnh. Năm 1381, quân Minh tấn công Vân Nam, bấy giờ đang thuộc kiểm soát của Lương vương Mông Cổ tên là  Bả Táp Lạt Ngõa Nhĩ Mật (Basalawarmi), quân Minh nhanh chóng chiếm thế thượng phong. Đến năm sau, Lương vương phải tự sát vì thua trận. Minh triều chiếm được Vân Nam, tiến hành tiễu trừ tàn quân Nguyên Mông còn sót lại. Trong quá trình tấn công Vân Nam, vua Minh cho người sang Đại Việt yêu cầu cung cấp lương thực cho quân Minh. Triều đình nhà Trần lúc này bạc nhược nên đành phải nghe theo, đem lương thực đến huyện Thủy Vĩ cấp cho quân Minh. Vậy nhưng Minh triều vẫn chưa vừa lòng vì chúng muốn người nước ta phải đem lương thực giao tận thành Lâm An. Nhà Trần phải Triều phụng đại phu Lê Á Phu, Thiếu trung đại phu Đỗ Tử Trừng dẫn sứ đoàn sang biện giải. Trên đường đi khó nhọc, lam chướng, nhiều người trong sứ đoàn Đại Việt bị chết dọc đường. Rõ ràng khí thế ngoại giao thời Trần mạt khác hẳn với phong độ của nhà Trần lúc hưng thịnh. Thời thịnh thì dù nhún nhường vẫn có phong độ, thời mạt thì thụ động đến thê lương.
Chính vì nhận thấy sự bạc nhược của vua tôi nhà Trần, nước Minh được thể càng ngày càng lấn tới, hết đòi giúp lương, cống phẩm đến đòi cống người. Nhà Trần trước tiên phải cống những đàn ông đã bị thiến sang nước Minh làm thái giám. Về sau có thái giám người Việt tên là Nguyễn Tông Đạo được vua Minh tin dùng. Tông Đạo kề cận vua Minh tâu rằng: “Tăng nhân nước Nam biết dựng đạo tràng giỏi hơn tăng nhân phương Bắc”.  Vua Minh Thái Tổ nhân đó mà sai sứ sang đòi Đại Việt phải cống nhà sư. Nhà Trần tuyển lấy 20 nhà sư đem sang Kim Lăng cống cho ngoại bang. Việc cống người xưa nay là mối nhục cho quốc gia mà các bậc minh quân nước ta luôn tìm cách tránh khỏi. Nhưng bởi vì Trần triều bấy giờ đã suy yếu, lại bị uy hiếp ở cả hai hướng bắc (nước Minh) và nam (nước Chiêm Thành) nên phải chịu nhục.
Kế đó, Tông Đạo lại tâu: “hoa quả phương Nam có nhiều thứ ngon”. Vua Minh cũng nghe lời, sai người sang nước ta đòi nộp các giống cây cau, vải, mít, nhãn… Đại Việt sai sứ đem giống sang nộp nhưng dọc đường cây giống đều chết rét. Nguyễn Tông Đạo là người nước Đại Việt nhưng khi làm quan cho Minh triều thường đem sự tình nước Đại Việt khai báo cho vua Minh biết, từ việc nội tình triều chính, nhân vật hay dở đến việc cỏ cây, sản vật… Tông Đạo là người giỏi xu nịnh, thường đem sự trù phú nước ta ra để khoe mẽ với vua tôi nước Minh, khiến cho họ nổi lòng tham, liền năm nào đòi người, đòi của. Triều đình Đại Việt sợ thế lực quân Minh đang lên nên liên tiếp chiều theo. Việc đó càng làm Tông Đạo được tin dùng. Tông Đạo nhân đó càng khua môi mưu cầu danh lợi, nuôi thêm ý chí xâm lăng của Minh triều. Đại họa của nước ta bắt đầu từ những kẻ xu nịnh như Nguyễn Tông Đạo.
Năm 1386, Minh triều mượn tiếng sắp đem quân đi đánh Chiêm Thành, sai Cẩm y vệ xá nhân Lý Anh sang Đại Việt đòi mượn đường, đòi Đại Việt phải đặt dịch trạm dài từ biên giới đến tận Nghệ An cho quân Minh đi qua, yêu cầu nước ta phải cung cấp lương thảo cho quân Minh và đem 50 thớt voi cống sang Vân Nam. Triều Trần phải làm dịch trạm tích trữ lương thực rồi đem sang Vân Nam. Riêng việc cống voi là việc khó nên không thể làm được. Mặc dù trên thực tế nước Minh vẫn chưa đủ tiềm lực để tiến sang nước ta trong năm này nhưng với hành động làm dịch trạm để đón giặc, vua tôi nhà Trần đã làm mất đi tính tự chủ của đất nước đối với phương bắc.
Đến năm 1388, Trần Nghệ Tông nghe lời gièm của Lê Quý Ly giết vua Trần Phế Đế, lập con mình là Trần Ngung lên ngôi, tức vua Trần Thuận Tông. Kể từ đó, cương thường của triều Trần càng loạn. Nước Minh có ý nhòm ngó Đại Việt nên thường dung túng cho bọn đầu trộm đuôi cướp đã thất thế ở nước ta mà chạy trốn sang đất Minh nương náu. Trong chiến sự Đại Việt – Chiêm Thành, những lúc Chiêm Thành thắng thế thì một số thổ hào Đại Việt ở biên giới phía nam đã theo giặc. Đến năm 1390, Đô tướng Trần Khát Chân đánh đuổi được quân Chiêm, giết chết vua kiệt hiệt của người Chiêm là Chế Bồng Nga, thế quân Đại Việt lại lên. Chiêm Thành bại trận phải rút quân, triều đình Đại Việt sau khi giành lại quyền kiểm soát các châu phía nam đã tổ chức đánh dẹp các thổ hào địa phương theo giặc. Một số thổ hào sợ hãi, sớm giải giáp đầu hàng nên được tha. Một số khác họp nhau chống lại, tuyên truyền lừa dối nhân dân và bắt phải theo chúng đánh lại triều đình. Quân nhà Trần đánh bại các kẻ cầm đầu chống đối là Nguyên Đĩnh, Nguyễn Động, Nguyễn Doãn, Hoàng Khoa, Nguyễn Khang, Trần Tông… Nguyên Đĩnh, Trần Tông phải nhảy sông tự sát. Thuộc hạ của Trần Tông là Nguyễn Khang chạy thoát được, trốn sang nước Minh, đổi họ tên thành Trần Thiêm Bình, mạo xưng là con cháu họ Trần. Thiêm Bình được Minh triều thu nhận, cùng nhữngvong bản khác làm tay sai phục vụ cho mưu đồ bành trướng về sau.
Sự ngang ngược của Minh Thái Tổ lên đến đỉnh điểm khi vào năm 1395, nhân lấy cớ đánh dẹp các tù trưởng ở phía nam nước Minh, vua Minh sai sứ là Nhâm Hanh Thái sang Đại Việt xin giúp cho 5 vạn quân, 50 thớt voi, và 50 vạn thạch lương thực dẫn đến biên giới để quân Minh dùng cho việc đánh dẹp. Thực ra đấy chỉ là kế hù dọa vua tôi nhà Trần để tiện tay bắt người ở ngoài biên mà nhà Trần không dám chống lại, rồi sau đó đưa ra những yêu sách khác nằm trong khả năng đáp ứng của Đại Việt. Nhâm Hanh Thái sang đến nước ta, mật báo với triều đình Đại Việt biết mưu. Vì vậy, vua Trần chỉ đem một ít gạo xấu đến Đồng Đăng giao nộp. Liền sau đó có sứ giả Minh triều sang đề nghị cống nhà sư, phụ nữ xoa bóp, người bị thiến, mỗi loại một ít.
Mặc dù tỏ thái độ hạch sách, thực sự trong toan tính của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương lúc bấy giờ vẫn chưa hạ quyết tâm xâm lược nước Đại Việt. Chiến tranh với Bắc Nguyên bào mòn quốc lực của nước Minh rất nhiều, đe dọa trực tiếp đến sự tồn vong của đế chế. Vua Minh cũng vướng vào cuộc đại thanh trừng nhắm vào các kiêu binh, hãn tướng của mình. Nội bộ Minh triều có quá nhiều vấn đề, không cho phép Minh Thái Tổ mạo hiểm đem quân tấn công Đại Việt. Triều đình nhà Trần chỉ thấy được sức mạnh của nước Minh mà không thấy được sự khó khăn của họ nên rất sợ hãi và thụ động, trúng vào kế của Chu Nguyên Chương, trước sau bị đe dọa mà chịu mất mát người và của, chịu chèn ép đủ điều