Thứ Năm, 1 tháng 12, 2011

Lu Tương Bình Hiệp - Vẻ đẹp của đất và lửa

Vào nửa đầu thế kỷ 18, những người Hoa di cư ngược dòng sông Sài Gòn, khi đến bến Chành, xã Tương Bình Hiệp, thị xã Thủ Dầu Một, họ đã neo đậu nơi đây, lập lên một ngôi làng nhỏ và lấy nghề làm lu – hũ – khạp để mưu sinh. Đến nay, sau gần 2 thế kỷ, người dân nơi đây vẫn còn gìn giữ nghề này, để Tương Bình Hiệp trở thành nơi có nhiều lò làm lu, khạp, hủ thủ công lớn nhất tỉnh Bình Dương.
Những ngày đầu tháng 6, mưa rả rích, nhưng những người thợ tại lò lu Đại Hưng – lò có tuổi cao nhất làng lu Tương Bình Hiệp - vẫn tất bật cho các công đoạn làm lu. Quản lý lò lu Đại Hưng hiện nay là ông Bùi Văn Giang, người dân quen gọi là Tám Giang. Tuổi đã lục tuần, nhưng ông Tám Giang vẫn là một trong những người thợ chính của lò. Theo ông Tám Giang, ông chủ đầu tiên sáng lập nên lò lu Đại Hưng là một người Hoa tên gọi là chú Ngâu, ông là người Quảng Đông - Trung Quốc. Đến khi ông Ngâu qua đời, lò được sang lại cho ông Tư Ti ở Sài Gòn - Chợ Lớn. Sau đó, lò lại tiếp tục được sang cho một người Hoa khác có tên là Lầm. Đến khoảng giữa kỷ 20 thì lò được chuyển lại cho gia đình ông Tám Giang cho đến nay.
Cũng theo ông Tám Giang, thời cực thịnh, ngoài lò Đại Hưng, làng lu Tương Bình Hiệp có đến gần 30 lò hoạt động. Nhưng đến nay, chỉ còn khoảng 5 - 6 lò. Mỗi chủ lò là một nghệ nhân, nắm giữ cả kho kinh nghiệm và những bí quyết gia truyền. Riêng công nhân là những người địa phương, gắn bó với lò lu nhiều chục năm. Có gia đình vợ chồng, con cái có nghề làm gốm từ đời cha sang đời con, cống hiến tâm huyết để tạo nên những sản phẩm lu – hũ – khạp.
Để tạo nên những chiếc lu, khạp, vại chất lượng, công đoạn quan trọng nhất là chọn nguyên liệu. Nguyên liệu chủ đạo là đất sét, nhưng phải là loại đất có pha cát, sỏi không phải là loại đất dẻo. Phần nguyên liệu này chủ yếu được lấy từ Dầu Tiếng, Tân Uyên... Khi mới được đưa về được đổ các bãi ngoài trời trước khi đưa vào nghiền. Đất được để ngoài trời càng lâu thì càng tốt. Vì khi để ở ngoài trời, dưới tác động của thời tiết mưa nắng, đất bắt đầu có sự phân rã sẽ làm cho chất phèn trong đất dần dần chảy hết ra ngoài. Đất sẽ được cho vào máy xay cho nhuyễn và loại hết các loại tạp chất, đem ngâm trong bể khuấy đều và đạp bằng chân cho đất thật nhuyễn, thật đều các nguyên liệu với nhau, rồi đất được vớt lên để khoảng 2 giờ thì cho vào máy ép cho nhuyễn, cũng như làm cho đất sét đặc lại không còn không khí bên trong.
Những lò lu ở Tương Bình Hiệp được xây hoàn toàn bằng gạch sống, phơi khô sau đó đem vào xây lò và được trét bằng đất sét. Sau một thời gian lò được đốt thì lớp đất sét và phần gạch sống này sẽ trở nên rất chắc chắn. Lò chính được xây theo kiểu lò Bao, các bao rộng từ 2,5 - 3m cao từ 2,6 - 2,8m, với tổng cộng 15 bao nối liền nhau từ thấp đến cao nhìn như những vỏ sò nằm nối tiếp nhau, cái nọ sát cái kia. Bao đầu tiên được gọi là căn mồi lửa, căn này có cửa cao khoảng 1,5m và rộng 1m, riêng ở bên hông các căn còn lại đều có 2 cửa hai bên rộng khoảng 0,8m cao 1,2m các cửa này dùng để đưa sản phẩm vào lò và lấy sản phẩm ra sau khi đã nung chín. Sau khi đưa sản phẩm vào lò các công nhân sẽ dùng gạch bít kín các cửa này lại, chỉ chừa lại một ô nhỏ phía trên hình chữ nhật rộng khoảng 15cm, dài 30cm, những ô này để cho người thợ chụm củi quan sát lửa trong bao, xem độ nóng trong lò đã đủ chưa và đạt đến độ chín cần thiết hay không. Các ô này còn được gọi là “mắt lò”. Thường thì các bao lớn ở phía trước của lò chủ yếu để nung các loại lu lớn và nhỏ, lu lớn có thể xếp được 2 tầng với 3 hàng khoảng 40 chiếc, các bao nhỏ ở phía sau chủ yếu là xếp khạp và hủ, các bao nhỏ này có thể xếp được khoảng 200 khạp lớn và 100 khạp nhỏ. Thông thường thì đốt liên tục khoảng 6 giờ thì sản phẩm sẽ chín, nhưng có khi cũng chỉ khoảng 4 giờ là được, chủ yếu là do con mắt tinh tế của nghệ nhân.
Các lò lu Tương Bình Hiệp sản xuất nhiều mặt hàng gốm, sành rất đa dạng về mẫu mã và màu sắc. Đặc biệt, vẫn giữ nét thủ công truyền thống của nghề làm gốm, chủ yếu tạo sản phẩm bằng thủ công, màu sắc sản phẩm cổ điển, nguyên vật liệu của địa phương, chất đốt bằng củi, chưa sử dụng kỹ thuật, máy móc hiện đại. Sản phẩm truyền thống là lu nhất, lu nhì, khạp và chậu trồng kiểng. Trong đó, lu lớn nhất có thể đựng tới 200 lít nước. Hoa văn trang trí trên sản phẩm thường là hình rồng, phụng được đắp nổi. Men lu có màu vàng da bò, da lươn. Riêng khạp thì nhỏ hơn, không có hoa văn trang trí nhưng có nắp đậy.
Từ hòn đất vô tri, qua bàn tay nhào nặn của các nghệ nhân, những chiếc lu, chậu – vật dụng gắn bó thân thiết với người dân - đã ra đời.
Thành phẩm làm ra được vận chuyển bằng xe bò, xe ngựa đến các chợ quanh vùng. Nhưng, đa số được chuyển xuống ghe ở bến Chành.
Từ bến Chành này, những người mang nghề gốm đến đây. Và, cũng từ bến Chành, giờ đây, những chiếc thuyền xuôi ngược chở những chiếc lu, chiếc khạp - kết tinh của đất, của trời, của lửa và của chính tâm hồn con người Bình Dương - yêu quê hương, yêu cuộc sống, yêu hòa bình – đi khắp các nẻo đường.
Hiện nay, theo các chủ lò, trong những năm gần đây, các loại lu lớn, nhỏ được các thương lái từ TP.HCM và các tỉnh miền Tây Nam bộ đặt hàng. Sau đó, một phần cũng tiêu thụ trong nước chủ yếu là các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Thị trường nước ngoài chủ yếu là Campuchia. Các thương lái Việt Nam và Campuchia sau khi mua các sản phẩm tại đây thì cho thuyền ngược theo sông Sài Gòn để qua Campuchia tiêu thụ.
Có thể nói, dù đã bao lớp bụi thời gian phủ mờ, nhưng, nghề gốm ở các lò lu Tương Bình Hiệp vẫn được gìn giữ. Đất và lửa hòa quyện, cháy âm ỉ và bùng lên một sức sống mãnh liệt. Vẻ đẹp của đất, của lửa mang đậm nét văn hóa truyền thống, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây không chỉ là niềm tự hào của một làng nghề mà còn là di sản văn hóa đáng trân trọng, góp phần giữ gìn được nét văn hóa đặc trưng của nghề gốm - một trong các nghề thủ công truyền thống ở Bình Dương./.
Phương Diệu

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét