Trong phần trước, chúng tôi có phân tích việc nhà Trần sau khi lên ngôi đã ép người họ Lý phải đổi sang họ Nguyễn với lý do kiêng húy vì ông nội của Thái Tông Trần Cảnh là Trần Lý. Theo Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Vì nguyên tổ húy Lý, cho nên đổi họ Lý làm họ Nguyễn, vả lại để tuyệt lòng mong mỏi của người dân đối với nhà Lý".
Chữ Lý phải mãi đến khi nhà Trần mất, nhà Lê lên thì mới được khôi phục lại cho dùng. Cụ thể là "Mùa đông (1428), tháng 10, ngày 11, có lệnh thôi kiêng húy chữ "Nguyễn". Theo giải thích là quy định dùng chữ Nguyễn dùng thay thế chữ Lý theo lệnh kiêng húy của Trần Thái Tông năm 1226 đến 1428 thì chính thức bị bãi bỏ. Chỉ có điều sau 200 năm là quá dài, nhiều người họ Lý chuyển sang họ Nguyễn cũng không cải về họ cũ.
Chữ Lý được khôi phục, không phải kiêng kỵ nữa nhưng đến lượt chữ Trần phải chịu trả giá. Nếu 1226, Trần Thái Tông ban lệnh kiêng húy chữ Lý để nhân tâm quên họ Lý thì 2 thế kỷ sau, nhà Lê lại làm theo y chang cách của nhà Trần để nhân tâm khỏi nhớ họ Trần.
Sau khi giải quyết xong Trần Cảo hồi đầu năm 1428, Lê Lợi lên ngôi ở Đông Kinh vào ngày 15.4, đại xá thiên hạ, đổi niên hiệu là Thuận Thiên (tức là theo ý trời) và đến ngày 20 thì đã công bố chữ húy. Đại Việt sử ký toàn thư chép: Ngày 20, ban các chữ húy tông miếu và chữ húy tên vua. Tất cả các chữ húy chính khi viết đều không được dùng, nếu đồng âm mà khác chữ thì không phải húy. Húy Tông miếu có 5 chữ: Hiển Tổ Chiêu Đức Hoàng Đế húy là Đinh, Hiển Tổ Tỷ Gia Thục Hoàng Thái Hậu húy là Quách, Tuyên Tổ Hiến Văn Hoàng Đế húy là Khoáng, Trinh Từ Ý Văn Hoàng Thái Hậu húy là Thương, huý của vua là Lợi, của hoàng hậu là Trần, của anh vua là Học.
Trong số 5 chữ húy này thì thật "trùng hợp" là có chữ Trần vì cớ là húy của hoàng hậu. Nhưng nếu xét kỹ lại thì Lê Lợi vốn không lập chính thất mà chỉ lập mấy người làm phi như Trịnh thần phi, Phạm huệ phi và Phạm hiền phi (tức Phạm thị Ngọc Trần). Bà Ngọc Trần vốn qua đời khi Lê Lợi còn chưa lên ngôi và trong bố cáo thiên hạ truy tôn tổ tiên trước khi lên ngôi cũng không thấy truy tôn bà Ngọc Trần. Cụ thể: cuối tháng 3 (1428), Truy tôn thuỵ hiệu từ khảo tỷ trở lên. Tổ khảo Đinh làm Chiêu Đức Hoàng Đế, bà là Nguyễn Thị Quách làm Gia Thục hoàng hậu, cha là Khoáng làm Tuyên Tổ Hoàng Đế, mẹ là Trịnh Thị Thương làm Ý Văn hoàng hậu.
Phải mãi sau này khi con của bà Ngọc Trần là Lê Nguyên Long (tức Lê Thái Tông) lên ngôi thì bà mới được truy phong là Cung Từ hoàng thái hậu. Vấn đề tại sao khi Lê Lợi vừa lên ngôi đã vội cho một người vợ qua đời là Phạm hiền phi được kiêng húy trong khi không làm vậy với Trịnh thần phi, Phạm huệ phi khiến chúng ta phải đặt câu hỏi: Phải chăng Lê Lợi học lại chiêu của nhà Trần 200 năm trước khi kiêng húy chữ Lý?
Đến thời Lê Thánh Tông, tức là vua thứ 4 nhà Lê (sau Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông) thì tiếp tục ban thêm một chiếu chỉ cụ thể hơn có ý buộc người nhà Trần phải đổi họ. Năm 1465, Thánh Tông Lê Tư Thành lên ngôi và tháng 8 năm đó, vua hạ chiếu: Đổi tên những họ nào đã phạm vào chữ húy của Cung từ hoàng thái hậu. Sử quan nhà Nguyễn giải thích trong Khâm định việt sử thông giám cương mục: "Nhà vua lấy cớ rằng: Cung từ hoàng thái hậu họ Phạm, tên húy là Ngọc Trần, nên yết thị cho trong kinh thành, ngoài các đạo, phàm nơi nào có họ "Trần" đổi chép làm chữ "Trình".
Tuy nhiên, việc đổi họ này có vẻ không làm mạnh tay. Chính vì vậy, trong năm đó có một người họ Trần ra đời là Trần Sùng Dĩnh. 22 năm sau, Trần Sùng Dĩnh là người đỗ trạng nguyên cũng dưới thời Lê Thánh Tông. Nếu bảo người họ Trần đều phải đổi sang họ Trình dưới thời Lê Thánh Tông thì sao lại còn Trần Sùng Dĩnh đỗ Trạng nguyên. Rồi sau đó, năm 1526, dưới thời Lê Cung Hoàng lại có thêm Trạng nguyên Trần Tất Văn.
Chưa hết, cuối thời Hậu Lê còn có Trần Chân là trụ cột triều đình. Năm 1516, sau khi dẹp yên Trần Cảo thì binh quyền trong tay Trần Chân rất lớn đến mức dân gian còn lưu truyền câu sấm rằng: "Trần hữu nhất nhân, vì thiên hạ quân, thỏ đầu hổ vĩ, tế thế an dân", nghĩa là: "Họ Trần có một người, làm vua thiên hạ, đầu thỏ đuôi hùm, giúp