Thứ Bảy, 6 tháng 10, 2018

Thua ở đất Việt, Quách Quỳ bị người Trung Quốc chế giễu mang lợn đi đấu voi


Tượng binh Việt là nỗi khiếp đảm của quân Tống
Đau buồn nhất cho Quách Quỳ là sau khi thua trận trước quân dân Đại Việt thì bị người dân Trung Quốc giễu cợt về tài cầm quân. Điển hình là truyện "mưu lược của tướng quân Quách Quỳ" trong Cổ kim tiếu sử được nhà văn Phùng Mộng Long cuối thời nhà Minh chép lại.
Năm 1077, đại quân của Lý Thường Kiệt đại phá quân của Triệu Tiết, bao vây quân của Quách Quỳ. Tình cảnh của quân Tống đúng là cá nằm trên thớt vì đánh không được, thoái không xong. Thực vậy, trong cuốn "Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử Việt Nam" có mô tả về tình cảnh quân Tống sau 2 lần tấn công vào phòng tuyến Như Nguyệt thất bại:
Trước mặt quân Tống, chiến tuyến của quân ta càng ngày càng trở nên vững vàng và bất khả xâm phạm. Hàng ngày, Lý Thường Kiệt cho quân sĩ khiêu khích, nhưng quân địch không dám liều lĩnh tiến công. Chúng chỉ dùng máy bắn đá từ bờ bắc bắn sang bờ nam.
Sau lưng địch, quân dân ta lại luôn luôn mở những trận quấy rối, tiêu hao quân địch. Trong cuộc kháng chiến chống Tống, các dân tộc thiểu số ở vùng núi rừng phía bắc và đông - bắc giữ một vai trò quan trọng và có nhiều cống hiến xuất sắc.. Những đội quân vùng thượng du thực chất là lực lượng vũ trang của các dân tộc thiểu số do các tù trưởng của họ chỉ huy. Trong cuộc tập kích thành Ung Châu, có những tù trưởng đã huy động gần như toàn bộ nhân dân trong vùng đi chiến đấu.
Hai tháng trôi qua. Quân Tống càng ngày càng bị tiêu hao về số lượng, và đặc biệt nghiêm trọng là càng ngày càng bị mệt mỏi, hoang mang. Tin tức thủy quân, niềm hy vọng và chờ đợi của chúng vẫn mờ mịt. Lương thực thiếu thốn, ăn uống không đủ. Thời tiết lại bắt đầu chuyển từ xuân sang hè, không thích hợp với người phương bắc. Nhà Tống đã sai chọn một số bài thuốc chữa lam chướng chế thành tễ và phái một số lương y chuyên trị bệnh lam chướng đi theo quân viễn chinh. Nhưng khí hậu ẩm thấp và các thứ bệnh nhiệt đới vẫn hoành hành quân Tống, làm cho nhiều người ốm đau và một số chết. Vua Tống lo lắng sai lập đàn cầu cúng, nhưng làm sao ngăn nổi bệnh tật?
Mệt mỏi và căng thẳng. Thế suy, lực giảm. Quân Tống bị dồn vào một tình thế khốn quẫn, tiến thoái đều khó. Tiến công thì từ hai tháng trước đây đã là cố gắng tuyệt vọng cua quân địch. Rút lui thì nhục nhã và mang tội với triều đình. Đóng quân lại chờ đợi thì thủy binh không thấy tăm hơi mà bộ binh và kỵ binh thì có nguy cơ mòn mỏi, tan rã.
Trước tình thế đó, Lý Thường Kiệt đã tung quân đánh một trận làm kiệt quệ ý chí kẻ thù. Đại việt sử lược một tác phẩm đời Trần, ghi chép trận tập kích của quân ta như sau: “Lý Thường Kiệt biết quân Tống sức lực đã khốn, đang đêm vượt sông tập kích, đại phá được quân Tống mười phần chết đến năm, sáu”
Sau đòn phản công quyết định này, quân địch thực sự bị dồn vào cảnh thế cùng lực kiệt. Nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn đang chờ đợi nếu chúng vẫn ngoan cố đóng quân. Nhưng rút lui thì mết thể diện của “thiên triều”. Biết rõ ý chí xâm lược của quân thù đã bị đè bẹp, Lý Thường Kiệt liền chủ động đưa ra để nghị “giảng hòa”, thực nhất là mở ra lối thoát cho quân Tống.
Quách Quỳ ngoài miệng còn nói vớt vát: “Ta không thể đạp đổ được sào huyệt giặc (quân ta), bắt được Càn Đức (vua Lý Nhân Tông) để báo mệnh triều đình. Tại trời vậy! Thôi đành liều một thân ta để cứu hơn 10 vạn nhân mạng”.
Tháng 3 năm 1077, quân Tống rút lui trong cảnh hỗn loạn. Quách Quỳ sợ quân ta tập kích nên bí mật cho quân lính rút vào ban đêm. Nhưng được lệnh lui quân, kẻ nào cũng chỉ mong thoát chết, nhanh chóng được trở về nước. Chúng giẫm đạp lên nhau để tranh đường đi trước.
Trên đây là những điều mà chúng ta khá quen thuộc và nhiều người biết. Nhưng điều mà chúng ta ít biết hơn là sử sách Trung Quốc bình luận gì về những thất bại này.
Tống sử chép về cuộc rút quân như sau: “Quỳ muốn rút quân về, sợ giặc tập kích bèn bắt quân khởi hành ban đêm, hàng ngũ không được chỉnh tề, tình hình hỗn loạn, giày xéo lên nhau” (Tống sử, truyện Đào Bật).
Các học giả nhà Tống cũng bình luận việc Quách Quỳ thua đến nơi rồi mà còn ra vẻ nói cứng như sau: “May được lời giặc nói nhũn, liền nhân đó giảng hòa. Nếu không có lời quy thuận của giặc thì lành thế nào” (Trình Di, Trình Hạo, Nhị Trình di thư, xem Tống-Lý bang giao tập lục).
Nhưng có lẽ đau buồn nhất cho Quách Quỳ là sau khi thua trận thì bị người dân Trung Quốc giễu cợt về tài cầm quân. Điển hình là truyện "mưu lược của tướng quân Quách Quỳ" trong Cổ kim tiếu sử được nhà văn Phùng Mộng Long thời cuối nhà Minh chép lại. Bộ truyện Cố kim tiếu sử được dịch ra tiếng Việt và nay xin ghi lại hầu quý độc giả:
"Quách Quỳ được lệnh xâm phạm Giao Châu. Quân đội kéo đi không có kỷ luật gì cả. Từ cách xếp đặt cho tới việc làm có nhiều điều thật buồn cười.
Đến ngày quân đội lên đường, mới thấy giao cho tướng dưới quyền một bản văn lớn như bức tranh gồm tất cả những hướng dẫn, mệnh lệnh của chủ tướng. Từ hình vẽ cho tới chữ viết đều nhỏ li ti, các đề mục thì rắc rối, khó hiểu. Lại không quên cảnh cáo các tướng không được để lộ ra ngoài. Các tướng phải ghé sát vào đèn xem cho rõ...
Ghi chép nhiều, đọc 3 ngày 3 đêm mới hết nhưng trong đó có một đoạn như thế này: "Điều thứ nhất, người Giao châu rất hay cưỡi voi. Voi sợ tiếng kêu của lợn. Theo đó, các đơn vị phải nuôi thật nhiều lợn. Mỗi khi thấy voi đi tới, lấy dùi nhọn mà đâm vào lợn. Lợn kêu to, voi tự nhiên sẽ tháo lui"...
Dĩ nhiên thì làm gì có chuyện voi sợ lợn kêu và cũng chưa thấy đâu khác chép cách đuổi voi bằng lợn cả. Có chăng câu chuyện tiếu lâm này mỉa mai về tài cầm quân, về mưu lược của Quách Quỳ sau khi thất bại trước Lý Thường Kiệt. Nhưng một mặt nào đó, qua câu chuyện này chúng ta thấy được người phương Bắc rất kiêng dè với tượng binh của Đại Việt và không nghĩ ra cách đối phó hữu hiệu.
Một điểm nữa có thể nhận ra từ câu chuyện tiếu lâm trên là cách chễ giễu quân Tống không có kỷ cương khi hành quân xuống phương Nam nên có thể xảy ra chuyện bắt lợn của dân. Có lẽ vì thế nên dân gian mới nói mỉa việc quân Tống đi gom lợn là theo lệnh của Quách Quỳ để đối phó với tượng binh của người Việt.
Bản thân Quách Quỳ cũng chẳng có hậu vận tốt sau khi cầm quân sang gây chiến với quân ta. Sau khi dẫn bại binh về nước. Quỳ bị quy tội vì đã trì hoãn không chịu tiến binh. Kể cũng oan cho Quỳ vì lúc đó Quỳ đã vài lần tiến binh nhưng bị đánh bật lại nên mới phải đóng quân phía Bắc sông Như Nguyệt để chờ viện binh. Chứ nếu Quỳ mà cứ tiến binh thì e rằng quân Tống chẳng còn ai quay về.
Tiếp đó, Quỳ bị đổi đi Ngạc Châu, rồi giáng làm tả vệ tướng quân và an trí ở Tây Kinh. Gọi là an trí nhưng thật ra là bị quản thúc, cư tại gia khoảng 10 năm, đó là cách vua thời xưa xử phạt những quan tướng bất tài. Đến khi Tống Triết Tông lên ngôi (năm 1086) Quỳ lại được phục chức làm tri Lộ Châu, Quảng Châu quan sát sử, tri Hà Trung. Năm Nguyên Hựu thứ ba (1088) ốm chết, thọ 68 tuổi. Vậy mà trải qua cả nghìn năm, câu chuyện "mưu lược của tướng quân Quách Quỳ" đầy tính chế giễu vẫn được nhớ tới.
Anh Tú (theo "Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử Việt Nam" và "Cổ kim tiếu sử)

Bất hòa giữa Quách Quỳ và Triệu Tiết khiến quân Tống bại trận trên đất Việt

Quân Tống không vượt được phòng tuyến Như Nguyệt
Cái dở trong dùng người của Tống Thần Tông chính là cái may cho nước ta. Tổng sử chép: "Quỳ chí, triếp dữ Tiết dị", có nghĩa là Quỳ đến thì lại bất hòa tiếp với Tiết.
Trong chiến thắng của quân ta thời Lý trước quân Tống xâm lược thì phải kể đến cả 3 yếu tố ta có mà Tống thiếu. Thứ nhất là thiên thời khi vận khí nước ta đang lên, nhà Tống đang xuống. Về địa lợi là ta có phòng tuyến Như Nguyệt vững chắc trong khi quân Tống lại từ xa đến, thiếu thốn trăm bề. Còn nhân hòa là ta có tài dùng binh của Lý Thường Kiệt và quân dân cả nước đồng lòng còn ngược lại thì quân Tống không có sự thống nhất.
Chính việc quân Tống không có tiếng nói chung khi sang xâm lược nước ta khiến các chiến dịch của họ không đạt được hiệu quả cao nhất và cuối cùng rơi vào thất bại nhanh hơn, ta cũng đỡ tốn xương máu hơn trong việc bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Như đã biết, khi biết dã tâm nhà Tống sớm muộn sẽ xâm lược nước ta, thái úy Lý Thường Kiệt chủ trương “Ngồi đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của giặc”. Bởi vậy, cuối năm 1075, 10 vạn quân thủy bộ của ta do Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy, bất ngờ tập kích vào các căn cứ xâm lược của quân Tống mà trung tâm là thành Ung Châu.
Nhà Tống rất bất ngờ trước cuộc tập kích của quân đội nhà Lý. Lúc đầu Tống triều hoang mang, lúng túng rồi sau mới đề ra được chủ trương: lợi dụng khi quân Lý Thường Kiệt đang bị giam chân Ở Ung Châu, điều đại quân đánh thẳng sang chiếm lấy nước ta. Nhưng chủ trương đó chưa kịp thực hiện thì quân ta đã hạ xong thành Ung Châu và ung dung rút về nước đầu năm 1076.
Theo cuốn "Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử Việt Nam", vua Tống cử Quách Quỳ là một võ tướng cao cấp đã từng giúp Phạm Trọng Yêm giữ biên thùy phía bắc chống lại nước Hạ, làm chánh tướng. Triệu Tiết giữ chức viên ngoại lang bộ lại đang coi Diên Châu (Thiểm Tây) được điều về làm phó tướng.
Nhưng thực ra ban đầu thì ý định của Tống Thần Tông không phải sử dụng cặp Quách Quỳ - Triệu Tiết mà là muốn để Triệu Tiết làm chủ tướng. Tống sử quyển 312 phần Triệu Tiết chép: "Giao chỉ bạn, chiếu vi An nam hành doanh kinh lược, chiêu thảo sử, tổng cửu tướng quân thảo chi, dĩ trung quan Lý Hiến vi nhị" cho thấy Tiết được bái làm An nam hành doanh kinh lược còn Lý Hiến (Gia Châu phòng ngự sử) làm phó. Thế nhưng, "Tiết dữ nghị bất hợp, thỉnh bãi Hiến" cho biết Tiết và Hiến bất hòa với nhau nên Tiết dâng sớ đòi bãi Hiến.
Tống Thần Tông không muốn mang quân đi đánh xa mà 2 tướng thống soái lại bất hòa nên đã thuận theo lời của Tiết mà bãi Hiến. Tiếp đến, Thần Tông lại hỏi Tiết nên cử ai là tướng đi cùng trong chiến dịch xâm lược Đại Việt. Tống sử chép: "Thần tông vấn khả đại giả, Tiết dĩ Quách Quỳ lão biên sự, nguyện vi bì tán, ô thị dĩ Quỳ vi tuyên phủ sử, Tiết phó chi". Theo Tống sử thì sau khi Thần Tông hỏi ý Tiết thì Tiết tiến cứ Quách Quỳ, tự nguyện làm phó. Sở dĩ Tiết tiến cử Quỳ vì trước đó Tiết và Quỳ đã từng làm việc khá ăn ý trong việc phòng thủ ở biên giới với Tây Hạ. Còn việc tự nguyện làm phó thì có lẽ chỉ là khiêm tốn để tỏ ra mình không muốn tranh công, đoạt chức để vua Tống khỏi hoài nghi. Việc Tiết được trao quyền thống lĩnh một lượng quân lớn mà lại tìm cách đẩy quan thân cận với nhà vua là Lý Hiến ra khỏi ekip lãnh đạo thì Tiết cũng sợ bị Thần Tông nghi ngờ có bụng khác lắm chứ.
Sau khi nhận tấu của Tiết, vua Thần Tông thuận nước đẩy thuyền nên đảo lại luôn chánh phó. Thay vì để Quỳ thay vị trí của Hiến làm phó cho Tiết thì Thần Tông lại để Quỳ làm chánh, còn Tiết là phó. Thực ra việc hoán đổi chánh phó này cũng có cái lý của Thần Tông. Triệu Tiết xuất thân tiến sĩ, giữ viên ngoại lang bộ lại, coi Diên Châu (Diên An, Thiểm Tây) rất được thừa tướng Vương An Thạch tin dùng. Khi Thần Tông muốn cử Tiết làm chánh tướng thì là lúc Vương An Thạch đang được tín nhiệm. Nhưng chỉ thời gian ngắn sau đó, Vương An Thạch không còn được tín nhiệm thì Triệu Tiết cũng không còn được trọng dụng làm chánh tướng. Quách Quỳ lớn hơn Triệu Tiết 4 tuổi và từng là chỉ huy của Triệu Tiết tại biên giới với Tây Hạ nên được Thần Tông đôn lên làm chánh tướng.
Động thái mang màu sắc chính trị này của Thần Tông có vẻ không làm Triệu Tiết hài lòng. Cái dở trong dùng người của Tống Thần Tông chính là cái may cho nước ta. Tổng sử chép: "Quỳ chí, triếp dữ Tiết dị", có nghĩa là Quỳ đến thì lại bất hòa tiếp với Tiết. Quỳ vốn hơn tuổi Tiết, từng là chỉ huy của Tiết lại tự phụ con nhà danh tướng, có nhiều kinh nghiệm thực tế chiến trường hơn Tiết vốn xuất thân thư sinh. Còn Tiết thì vốn hậm hực vì việc từ chánh thành phó nên cũng muốn "thể hiện" và không hợp tác toàn diện với Quỳ.
Bất đồng giữa hai người được Tống sử chép: "Tiết dục thừa binh hình vị động, tiên phủ tập lưỡng giang động đinh, trạch tráng dũng đạm dĩ lợi, sử chiêu lai huề nhị, huy kỳ phúc tâm, nhiên hậu dĩ đại binh kế chi, Quỳ bất thính" tạm hiểu là "Tiết muốn nhân lúc chưa động binh, phủ dụ tập hợp người Động ở Lưỡng Giang, dùng lợi ích dụ dỗ những kẻ tráng dũng, sai sứ giả chiêu nạp những kẻ hai lòng, phá hủy cơ sở của họ, về sau sẽ đưa đại quân đến "đánh dẹp", Quỳ không nghe".
Hay "Tiết hựu dục sử nhân tê sắc bảng nhập tặc trung chiêu nạp, hựu bất thính. Toại lệnh yến đạt tiên bị quảng nguyên, phục hoàn vĩnh bình. Tiết dĩ vi quảng nguyên gian đạo cự giao châu thập nhị dịch, thú lợi yểm kích, xuất kỳ bất ý, xuyên đồ tịnh tiến, tam lộ trí thảo, thế tất phân hối, cố tranh bất năng đắc". tạm hiểu là: "Tiết lại muốn sai người treo sắc bảng chiêu nạp ở Giao châu (tức chỉ Đại Việt), Quỳ lại không nghe. Trước đó Quỳ lệnh cho Yến Đạt phòng bị châu Quảng Nguyên, rồi lại điều ông ta về Vĩnh Bình; Tiết cho rằng Quảng Nguyên chỉ cách đai bản doanh Giao châu khoảng chừng 12 trạm dịch, có thể tập kích, nên chia quân 3 lộ, thủy bộ cùng tiến, ắt đánh cho quân Nam tan vỡ; vì thế Tiết cố gắng tranh luận, nhưng vẫn không được".
Vì những bất đồng đó, mà chẳng ai chịu ai. Trong lúc hành quân hạ trại thì chánh tướng và phó tướng tự chỉ huy khối quân của mình. Sức mạnh tổng hợp của đạo quân viễn chinh này tự bị xé nửa. Tuy rằng trong binh thư của Trung Quốc có nói đến việc chia quân tạo thế "ỷ giốc" để đầu đuôi ứng cứu được với nhau nhưng trên thực tế thì sự phối hợp liên lạc giữa hai khối quân này rất hạn chế. Ngay khi đóng trại tại phía Bắc phòng tuyến sông Như Nguyệt thì hai bên cũng hạ trại cách nhau đến 60 dặm, khoảng 30 cây số.
Sau khi thất bại và phải kéo tàn binh về nước, cả Quách Quỳ và Triệu Tiết đều bị giáng tội nhưng mức độ khác nhau. Tống sử chép: "Quỳ ký tọa biếm, Tiết diệc dĩ bất tức bình tặc, giáng vi Trực long đồ các, tri Quế châu", tạm hiểu là Quỳ bị biếm chức vì tự ý giảng hòa còn Tiết chỉ bị trách tội không chịu đánh trận kịp thời nhưng vẫn được làm Trực Long Đồ các, Tri Quế Châu.
Tại sao Tiết lại bị luận tội "bất tức bình tặc"? Phải chăng vì không xuất quân theo lệnh của chánh tướng? Nhưng vì chính kế hoạch của chánh tướng cũng chẳng mang lại hiệu quả nên thành ra việc không nghe lệnh đó lại không bị kết án nặng nề. Sau đó, Tống sử cũng không còn chép thêm về hoạt động chung nào nữa của Quỳ và Tiết.
Anh Tú

Sai lầm của vua Tống khi để Quách Quỳ làm chánh tướng

Quân Tống mạnh về kỵ binh
Nếu Tiết xuất thân là tiến sĩ thì Quỳ là con trai thứ của Quách Bân, một danh tướng của Bắc Tống. Quỳ làm tướng giỏi và theo Tống sử thì rất giỏi binh thư, trận pháp. Vua Tống từng vời Quỳ vào hỏi cách bày binh bố trận và Quỳ trả lời rành rọt.
Trong phần trước, chúng tôi có để cập về mối bất hòa của 2 viên tướng Tống là chánh tướng Quách Quỳ và phó tướng Triệu Tiết là một trong những nguyên nhân khiến quân Tống bại vong khi sang xâm lược Đại Việt. Việc Tống Thần Tông quyết định dùng Quách Quỳ thay Triệu Tiết làm chánh tướng và đẩy Triệu Tiết xuống làm phó tướng ngoài việc do không còn sủng ái những người Vương An Thạch tín nhiệm còn có một lý do khác. Sự nóng vội của Thần Tông.
Khi Thần Tông dùng Triệu Tiết làm chánh tướng thì có thể tin vua Tống muốn đánh chắc thắng chắc. Triệu Tiết là tướng nhưng xuất thân từ văn nhân, từng đỗ tiến sĩ trước khi vào quan trường và thích đánh bằng nhân tâm, dùng mưu mẹo chính sách hơn là dàn quân bày trận.
Mấy thành tích mưu mẹo của Tiết được Tống sử chép: "Hạ nhân phạm hoàn khánh, hậu phục lai hạ chính. Tiết thỉnh biên lại ly kỳ tâm phúc, nhân dĩ chiêu hoành sơn chi chúng, thử bất chiến nhi khuất nhân binh dã. Thiên đề điểm thiểm tây hình ngục. Hàn thao tuyên phủ thiểm tây, hà đông binh tây thảo, tiết vi thao ngôn: "Đại binh quá sơn giới, giai sa thích, phạp thiện thủy thảo, hựu vong hiểm ải khả dĩ khống ách, kim thiết nguy chi. Nhược thừa binh uy chiêu dụ sơn giới nhân hộ, xử chi sinh địa, đương tiên kinh họa sơn giới khống ách chi địa, nhiên hậu chiêu giáng; Bất nhĩ, lao sư viễn công, vị kiến kỳ lợi".
tạm hiểu là: Người Tây Hạ xâm phạm Hoàn Khánh lộ, sau đó lại đến chúc mừng năm mới. Tiết hiến kế ly gián kẻ địch, nhân đó chiêu dụ dân cư Hoành Sơn, cho rằng đó là không đánh mà khuất phục binh lực của địch. Tiết được thăng làm Đề điểm Thiểm Tây hình ngục; Hàn Giáng làm Tuyên phủ Thiểm Tây, muốn đem quân Hà Đông đi đánh Tây Hạ, ông khuyên rằng Tây Hạ thủy thổ khô cằn, địa hình hiểm trở, rời xa cửa ải rất dễ bị chặn mất đường về, chẳng bằng dựa vào binh uy mà chiêu dụ dân chúng ở biên thùy, hòng lấn dần sang đất địch, còn hơn gây sự chiến tranh vừa khó nhọc lại chưa chắc thắng lợi.
hay: "Sơ, phu diên địa giai hoang tích, chiêm điền giả bất xuất tô phú, ỷ vi phiên tế. Bảo nguyên dụng binh hậu, điêu hao đãi tận, kỳ khoáng thổ vi chư tù sở hữu. Tiết nhân chiêu vấn viết: "Vãng thời nhữ tộc hộ nhược can, kim giai an tại?" Đối: "Đại binh chi hậu, tử vong lưu tản, kỳ sở tồn chỉ thử." Tiết viết: "Kỳ địa tồn hồ?" Tù vô dĩ đối. Tiết viết: "Thính nhữ tự mộ đinh, gia sử chiêm điền sung binh, nhược hà? Ngô sở đắc giả nhân nhĩ, điền tắc ngô bất vấn dã." Chư tù giai cảm phục quy mộ, tất bổ vong tịch. Hựu kiểm quát cảnh nội công tư nhàn điền, đắc thất thiên ngũ bách dư khoảnh, mộ kỵ binh vạn thất thiên. Tiết dĩ dị thời phiền binh đề không bộ, mạn bất khả khảo, nhân nghị niết kỳ thủ. Thuộc tuế cơ, lệnh phiền binh nguyện thứ thủ giả, thải thường bình cốc nhất hộc, ô thị nhân nhân nguyện thứ, nhân huấn luyện dĩ thời, tinh nhuệ quá ô chính binh. Thần tông văn nhi gia chi, trạc thiên chương các đãi chế".
tạm hiểu là: xưa đất đai Phu Duyên lộ bị bỏ hoang, những kẻ chiếm hữu ruộng đất không chịu nộp tô thuế, dựa vào sự bảo hộ của triều đình đối với các dân tộc thiểu số. Sau chiến tranh (Hạ – Tống) năm Bảo Nguyên thời Tống Nhân Tông (1039), vùng này càng thêm điêu tàn, trong khi các tù trưởng chiếm hữu những diện tích rộng lớn. Tiết chiêu dụ các tù trưởng, hứa hẹn không hỏi đến ruộng đất, chỉ yêu cầu bổ sung hộ tịch; bọn họ cảm phục nên vui lòng làm theo. Tiết kiểm kê được ruộng đất bỏ hoang cả công lẫn tư có hơn 7500 khoảnh, mộ được 17000 kỵ binh. Tiết phát hiện binh sĩ người Phiên không có trong sổ bộ, tản mát không thể tra xét; nhân đó kiến nghị xăm ký hiệu trên tay của họ. Gặp năm đói kém, binh sĩ người Phiên tình nguyện xăm tay sẽ được ban thêm một hộc gạo, vì vậy người người tình nguyện xăm tay. Tiết huấn luyện bọn họ, trở nên tinh nhuệ hơn cả quân chánh quy. Tống Thần Tông nghe tin thì khen ngợi, thăng làm Thiên Chương các đãi chế".
Cách làm của Tiết như thế đáng gọi là khôn ngoan nên lọt vào mắt xanh của Vương An Thạch và ban đầu được Tống Thần Tông tin tưởng phong làm chánh tướng việc đi xâm lược Đại Việt. Tuy nhiên, sau khi nhận được tin quân của Lý Thường Kiệt phá tan Ung châu, Khâm châu, tiêu diệt gần như toàn bộ quân Tống ở khu vực giáp biên thì Thần Tông nóng lòng trả thù. Hơn nữa, Tống Thần Tông muốn đánh thắng chớp nhoáng để quay về dồn lực lo cho mặt Bắc. Vua Tống đã nói rõ những khó khăn và ý đồ chiến lược đó: “Tuy ở biên thùy phía bắc, Quách Quỳ đã phân phát kế hoạch đề phòng cho các tướng ở lại, nhưng người bắc thấy triều đình bận việc Nam chinh chắc muốn quấy. Vậy phải lo việc An Nam cho chóng xong
Lúc này, việc dùng chính sách xâm lược mềm kiểu Triệu Tiết không còn hợp nhãn với vua Tống nữa mà Thần Tông muốn thực hiện một cuộc xâm lược cứng rắn. Do vậy Triệu Tiết không thể làm chánh tướng mà Quách Quỳ lên.
Nếu Tiết xuất thân là tiến sĩ thì Quỳ là con trai thứ của Quách Bân, một danh tướng của Bắc Tống. Quỳ làm tướng giỏi và theo Tống sử thì rất giỏi binh thư, trận pháp. Vua Tống từng vời Quỳ vào hỏi cách bày binh bố trận và Quỳ trả lời rành rọt. Chuyện này cũng được Tống sử chép: "Quỳ khảng khái hỉ binh học, thần tông thưởng phỏng bát trận di pháp, đối viết: "Binh vô thường hình, thị đặc kỳ chính tương sinh chi nhất pháp nhĩ".
Trong quá trình làm việc chung khi xâm lược Đại Việt, quan điểm của Quách Quỳ và Triệu Tiết thể hiện khác nhau. Tiết theo cách cũ đã làm ở biên giới với Tây Hạ là trước khi động binh thì dùng lợi ích dụ dỗ những kẻ tráng dũng, sai sứ giả chiêu nạp những kẻ hai lòng, phá hủy cơ sở của họ, về sau sẽ đưa đại quân đến "đánh dẹp". Quỳ không nghe không phải vì kế của Tiết không hay mà Quỳ muốn đánh nhanh thắng nhanh như chí hướng của vua Tống trong khi cách làm của Tiết mất thời gian.
Rồi Tiết lại bày mưu “chia quân 3 lộ, thủy bộ cùng tiến, ắt đánh cho quân Nam tan vỡ”. Thế nhưng, Quỳ cũng không nghe vì nếu để thủy bộ cùng tiến thì phải chờ nhau mất thời gian. Do vậy, quân bộ của Tống với khoảng 10 vạn quân trong đó có 1 vạn kỵ binh tiến nhanh vào trước. Chỉ có điều 10 vạn quân Tống trong đó chủ yếu là quân từ các châu phía Bắc quen đánh trên địa bàn bằng phẳng đã phải dừng lại khi gặp phòng tuyến Như Nguyệt. Gặp sông lớn thì kinh nghiệm trận đồ, binh pháp và sức mạnh kỵ binh của Tống coi như đồ bỏ. Lúc này, Tống cần có thủy binh đưa qua sông.
Nhưng vì thủy binh thiếu sự bọc lót của bộ binh nên không hoàn thành nhiệm vụ “người chở đò”.Tướng chỉ huy thủy quân địch là Dương Tùng Tiên sau nhiều lần thua Lý Kế Nguyên thì không dám tiến, không dám thoái. Vì không có thủy quân chở đò nên khối quân của Quách Quỳ và Triệu Tiết cũng không vượt nổi phòng tuyến Như Nguyệt và cuối cùng thất bại.
Nếu giả như Tống Thần Tông không nóng vội trong việc xâm lược Đại Việt mà để Triệu Tiết làm chánh tướng đánh theo kiểu chuẩn bị kỹ càng, tiến quân chậm chắc thì quân ta sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Hay nếu như Triệu Tiết nắm quyền điều khiển chiến lược để thủy bộ cùng tiến vào nước ta thì quân ta có lẽ phải trả một cái giá đắt hơn để giành chiến thắng. Nhưng sự nóng vội của Tống Thần Tông trong dùng người, sự tự tin vào sức mạnh của bộ binh – kị binh của Quách Quỳ đã đẩy quân Tống vào chỗ bất lợi. Điều đó giúp ông cha ta đỡ tốn xương máu để có chiến thắng trước quân xâm lược nhà Tống.
Anh Tú

Quách Quỳ đã nướng quân chỉ vì thủy binh câu giờ

Chiến thắng của Lý Kế Nguyên tạo bước ngoặt
Vấn đề đặt ra là tại sao nhà Tống lại phải đem lực lượng ô hợp như vậy để nướng quân trên biển? Đơn giản vì Tống Thần Tông muốn nóng lòng đánh gấp để sau khi thắng là phải rút lại chủ lực về biên giới phía Bắc. Tống Thần Tông đặt quá nhiều kỳ vọng vào kỵ binh và bộ binh của Quách Quỳ - Triệu Tiết trong khi xem nhẹ năng lực thủy quân nhà Lý.

Trong chiến thắng trước quân Nguyên Mông thì trận thủy chiến then chốt tại Vân Đồn đã tạo ra bước ngoặt. Danh tướng Trần Khánh Dư đánh bại đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ đã khiến cho quân Nguyên không còn giữ được thế chủ động và liên tiếp mắc sai lầm. Còn trong chiến thắng của quân dân ta thời nhà Lý trước cuộc xâm lược của nhà Tống thì chiến thắng trong trận thủy chiến cũng gần Vân Đồn đã tạo ra bước ngoặt.
Sau khi Lý Thường Kiệt đại phá Ung Châu, Tống Thần Tông đã tập hợp một lực lượng lớn trao quyền cho Quách Quỳ và Triệu Tiết để vừa trả đũa, vừa tìm cách xâm lược nước ta. Vì nóng lòng đánh nhanh, thắng nhanh nên vua Tống đặt trọn niềm tin vào lực lượng đánh trên bộ gồm bộ binh và kỵ binh. Khoảng 10 vạn quân, 1 vạn ngựa với sự phục vụ của 20 vạn dân phu được huy động trong cuộc chiến xâm lược của nhà Tống. Trong số này có 1 nửa là quân tinh nhuệ được huy động từ biên giới với Liêu, Tây Hạ vốn dạn dày chiến đấu.
Thậm chí, nhà Tống đã tính đến việc phá thành khi kéo quân đến sát thành Thăng Long khi mang rất nhiều khí cụ hiện đại khi ấy như máy bắn đá, xe công thành... Thế nhưng, có một cái mà nhà Tống tính dở là đầu tư không tốt cho thủy quân. Thực ra, lực lượng thủy quân nhà Tống không hề ít nhưng mà thiếu chất lượng hay nói theo kiểu người phương Bắc là tuy đông nhưng lại ô hợp. Theo sách Nghệ thuật đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam thì thủy quân Tống có đến hơn 5 vạn quân, do tướng Dương Tùng Tiên chỉ huy. Dương Tùng Tiên được vua Tống phong làm An Nam đạo hành doanh Chiến trạo đô giám, phối hợp với một số quan chức khác phụ trách từ tuyển mộ quân, trưng thu thuyền đến vạch kế hoạch tác chiến.
Như vậy có thể thấy thủy quân của Tống về số lượng thì rất đông đảo. Trong khi đó, thủy quân Việt lại phải chia làm 2. Phần lớn lực lượng tập trung cho việc bảo vệ phòng tuyến Như Nguyệt dưới sự chỉ huy của 2 hoàng tử là Hoằng Chân và Chiêu Văn với khoảng 400 thuyền và 2 vạn quân. Phần còn lại do danh tướng Lý Kế Nguyên đóng gần Vân Đồn với số lượng có lẽ dưới 2 vạn. Tuy nhiên, thủy quân ta lại có lợi thế là thạo địa hình sông nước và tinh thần chiến đấu cao.
Kết quả thủy binh Tống đã bị đội binh thuyền ta, do Lý Kế Nguyên chỉ huy, chặn lại ở Vĩnh An. Chúng cố gắng đánh mở đường để theo sông Đông Kênh tiến vào cửa sông Bạch Đằng, nhưng 10 trận liền bị quân ta đánh bại, không sao nhích lên được một bước. Đánh không thắng, quay về thì sợ tội, tiến không được, thoái không xong, Dương Tùng Tiên dùng chiêu câu giờ cho thuyền lượn lờ chiếu lệ trên biển đến hàng mấy tháng trời và gởi thư về đất liền Tống nói rõ ý của mình là lo giũ lực lượng để phòng vệ duyên hải:“Vừa rồi, tôi gặp quân liên lạc của giặc mang lệnh của viên hành quân chiêu thảo sứ bên giặc là Lý Kế Nguyên. Sau đó nhiều lần tôi đánh chúng, nhưng chúng không có ý khuất phục. Vậy xin hãy ra lệnh phòng bị nghiêm ngặt ở biên giới để tránh sự bất ngờ”.
Cuốn 'Một số trận chiến chiến lược trong lịch sử Việt Nam' phân tích: "Binh lực chủ yếu và tinh nhuệ của quân Tống vẫn là bộ binh và kỵ binh. Trong cuộc chiến tranh xâm lược nước ta, các đạo bộ binh trong đó có kỵ binh cũng giữ vai trò những mũi tiến công quyết định. Còn thủy binh chỉ là lực lượng phối hợp nhằm hiệp đồng với bộ binh, tổ chức vượt sông để tiến sâu vào nước ta. Nhà Tống đề ra nhiệm vụ của thủy binh là vượt biển tiến vào nước ta để ”ghé thuyền vào bờ bắc chờ đại quân qua sông, vì trên đường bộ tiến binh đến kinh thành giặc còn cách sông lớn, người Giao lại giỏi thuỷ chiến, sợ thuyền giặc giữ các chỗ hiểm, đại binh khó lòng qua được” (Lý Đào, Tục tư trị thông giám trường biên, sách đã dẫn). Lực lượng thúy binh này mới được tổ chức gồm những người dân chài ven biển Quảng Đông bị nhà Tống bắt vào lính. Họ chưa quen chiến trận, lại không có tinh thần chiến đấu".
Rốt cuộc 5 vạn thủy quân Tống, nhiều gấp đôi, thậm chí gấp ba so với thủy quân nhà Lý nhưng cũng không thể đạt được mục đích vượt cửa Bạch Đằng vào tiếp viện cho Quách Quỳ. Lý do như đã phân tích là lượng tuy đông nhưng chất lại thấp. Quân thủy nhà Tống mà được tổ chức gấp gáp chưa được tập luyện thực chiến nhiều nên ra biển là thua. Cũng phải nói rằng thời đó, quân phương Bắc gồm cả Tống, Hạ, Liêu hay các triều trước thời Ngũ đại cũng toàn đánh nhau trên bộ, hay cùng lắm là vài trận nhỏ trên sông chứ không mấy khi đánh nhau ở ngoài biển nên thua trước cửa Bạch Đằng cũng là điều dễ hiểu.
Vấn đề đặt ra là tại sao nhà Tống lại phải đem lực lượng ô hợp như vậy để nướng quân trên biển? Đơn giản vì Tống Thần Tông muốn nóng lòng đánh gấp để sau khi thắng là phải rút lại chủ lực về biên giới phía Bắc nên không có thời gian chuẩn bị chu đáo cho lực lượng trên biển. Tống Thần Tông đặt quá nhiều kỳ vọng vào kỵ binh và bộ binh của Quách Quỳ - Triệu Tiết trong khi xem nhẹ năng lực thủy quân nhà Lý.
Vì không có lực lượng thủy binh xuống phối hợp, Quách Quỳ đã mắc sai lầm khi ép bộ binh phải đóng vai thủy binh. Có 2 lần Quách Quỳ dùng bộ binh vượt sông. Lần thứ nhất là dùng cầu phao sau khi nghe tin đồn là quân Lý ở bờ nam Như Nguyệt trốn đi hết. Quách Quỳ cho phép tướng Vương Tiến bắc cầu phao cho đội xung kích của Miêu Lý khoảng 2.000 người vượt sông. Lợi dụng được yếu tố bất ngờ, Miêu Lý vượt sông đã thành công, chọc thủng được phòng tuyến của quân Lý, tiến khá sâu hướng vào Thăng Long. Nhưng đến vùng Yên Phụ, Thụy Lôi thì bị phục kích, bao vây. Miêu Lý cùng những binh sĩ còn sống chạy về phía Như Nguyệt nhưng đến nơi thì cầu phao đã bị hủy và gặp quân nhà Lý đón đánh và bị diệt gần hết, dù quân Tống đóng bên bờ bên kia có cố gắng cho bè sang hỗ trợ.
Sau lần đó, Quách Quỳ lại kiên trì chờ thủy binh nhưng mãi không thấy bóng dáng Dương Tùng Tiên đâu. Ngồi một chỗ thì miệng ăn núi lở nên Quách Quỳ phải mạo hiểm. Lần thứ hai, quân Tống dùng một lực lượng mạnh hơn nhiều so với lần trước và đóng bè lớn với sức chứa khoảng 500 quân để vượt sông. Bè chở quân Tống đổ sang bờ nam kiểu "trả góp" cứ 500 người một lượt là bè lại phải chèo về đón lượt sau qua sông. Khổ thay đám quân đổ bộ vừa đặt chân xuống bờ nam đã phải phải chống lại các đợt phản công mãnh liệt của quân nhà Lý trong khi việc vượt qua lũy hào rất khó khăn. Bè chở binh tiếp viện lại không qua kịp nên thật sự là Quách Quỳ đã nướng quân.
Người Tống thời đó mô tả trận đánh như sau: “Dùng bè chở 500 quân vượt sông, vừa chặt vừa đốt mấy lớp trại rào tre không được, đem bè không về để chở cứu binh nhưng lại bị giặc (chỉ quân Lý) bắt giết. Thế là quân ta (Tống) không được cứu, kẻ trốn, kẻ chết, không thành công được” (Trình Di, Trình Hạo, Nhị Trình di thư). Đợt tấn công lần hai lại kết thúc với thất bại nặng nề khiến Quách Quỳ thấy rằng, nếu không có thủy binh hỗ trợ sẽ không thể vượt sông được, buộc phải ra lệnh đưa quân về thế phòng thủ và tuyên bố rằng: "Ai bàn đánh sẽ chém!". Tất nhiên là chẳng có thủy quân nào đến nữa.
Chính chuyện không có thủy quân cộng với việc thiệt hại nặng sau khi bị quân nhà Lý phản công nên Quách Quỳ sau đó chấp nhận việc hòa để tiện đường rút quân. Một thời gian sau, Dương Tùng Tiên mới biết Quách Quỳ phải rút quân nên cũng thoái lui luôn. Trong số 10 vạn lính Tống dưới trướng Quách Quỳ - Triệu Tiết ban đầu chỉ còn 23.400 lính trở về, 1 vạn ngựa chiến thì còn lại 3.174 con. Số dân phu 20 vạn trở về không được một nửa. Bao nhiêu số đó đã thiệt mạng chỉ vì thủy quân còn câu giờ ngoài biển? Nhưng cũng chẳng trách được thủy quân Tống khi chính họ cũng nướng không ít nhân mạng trong 10 lần đối đầu với thủy quân của Lý Kế Nguyên.
Anh Tú

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét