Trong đời sống dân tộc M’nông, cồng chiêng được coi là tài sản quý thể hiện sự giàu có của các gia đình, dòng họ, buôn làng. Sự giàu có ở đây không chỉ thể hiện về mặt số lượng mà còn ở tuổi thọ lâu đời của các bộ cồng chiêng. Gia đình nào có nhiều cồng chiêng cổ đều được cộng đồng kính trọng.
Người M’nông không làm ra cồng chiêng mà thường mua lại của người Lào hoặc của người Việt. Cồng chiêng được đúc bằng hợp kim bao gồm đồng và một số kim loại khác. Những chiếc cồng chiêng quý thường có thêm bạc. Chất lượng âm thanh phụ thuộc vào tỷ lệ hợp kim sử dụng đúc cồng chiêng. Khi mua về, đồng bào M’nông chỉnh âm thanh hết sức tinh tế bằng nhiều cách khác nhau như dùng búa sắt, dùi gỗ cứng đập vào lòng chiếc cồng, chiêng…
Chiêng có núm được gọi là cồng và chiêng không có núm gọi là chiêng bằng. Cồng cấu tạo gồm 3 bộ phận: núm, mặt và thành cồng. Trong đó: núm là bộ phận được làm vồng theo hình bán cầu ở chính giữa mặt cồng, vị trí dùng để gõ, tạo ra âm thanh vang, ngân dài và có tiếng rung; mặt cồng là một mặt phẳng xung quanh núm, có hình vòng tròn - đây là bộ phận quyết định âm thanh như độ cao, sự tròn tiếng, đầy tiếng và độ vang; thành cồng là một bộ phận nối liền với mặt thành một bản rộng bao quanh và khum vào trong.
Chiêng có núm được gọi là cồng và chiêng không có núm gọi là chiêng bằng. Cồng cấu tạo gồm 3 bộ phận: núm, mặt và thành cồng. Trong đó: núm là bộ phận được làm vồng theo hình bán cầu ở chính giữa mặt cồng, vị trí dùng để gõ, tạo ra âm thanh vang, ngân dài và có tiếng rung; mặt cồng là một mặt phẳng xung quanh núm, có hình vòng tròn - đây là bộ phận quyết định âm thanh như độ cao, sự tròn tiếng, đầy tiếng và độ vang; thành cồng là một bộ phận nối liền với mặt thành một bản rộng bao quanh và khum vào trong.
Bộ chiêng bằng 6 chiếc của người M’nông. |
Chiêng bằng cấu tạo gồm hai bộ phận: mặt chiêng và thành chiêng. Mặt chiêng là một mặt phẳng có hình vòng tròn, quyết định âm thanh như: độ cao, sự tròn tiếng, đầy tiếng và độ vang; thành chiêng nối liền với mặt chiêng thành một bản rộng bao quanh mặt chiêng và không khum vào trong.
Cồng chiêng M’nông gồm có 2 bộ: bộ chiêng 6 chiếc và bộ cồng 3 chiếc có kích thước khác nhau. Mỗi chiếc mang một chức năng riêng trong khi hòa điệu và có những tên gọi khác nhau tùy theo từng nhóm địa phương. Tên gọi bộ chiêng 6 chiếc theo thứ tự: Chiêng lớn nhất được gọi là chiêng mẹ (mei, me hay măi); chiêng lớn thứ hai gọi là rênul (nhóm M’nông Nong gọi là nêgrơm); chiếc thứ ba gọi thống nhất là n'dơt hay n'dất; chiếc thứ tư gọi là tru (M’nông Preh, M’nông Nong và M’nông Prâng), gọi là dua (M’nông Chil, M’nông Rlăm); chiếc thứ năm gọi là trơ (M’nông Preh, M’nông Nong, M’nông Prâng) và gọi là thơ (M’nông Chil và M’nông Rlăm); chiêng nhỏ nhất gọi là chiêng con (kon). Bộ cồng 3 chiếc: Chiếc lớn nhất gọi là cồng mẹ; chiếc thứ hai làm chuẩn trong khi hòa nhạc và được gọi là tru (M’nông Prâng), du gong (M’nông Rlăm và M’nông Chil); chiếc nhỏ nhất là cồng con (kuôn gong hay kon gong). Ngoài ra, người M’nông còn có một chiếc chiêng lớn gọi là Char, giống như chiêng Char của người Êđê nhưng hiếm khi họ sử dụng chiếc chiêng này.
Cồng chiêng M’nông gồm có 2 bộ: bộ chiêng 6 chiếc và bộ cồng 3 chiếc có kích thước khác nhau. Mỗi chiếc mang một chức năng riêng trong khi hòa điệu và có những tên gọi khác nhau tùy theo từng nhóm địa phương. Tên gọi bộ chiêng 6 chiếc theo thứ tự: Chiêng lớn nhất được gọi là chiêng mẹ (mei, me hay măi); chiêng lớn thứ hai gọi là rênul (nhóm M’nông Nong gọi là nêgrơm); chiếc thứ ba gọi thống nhất là n'dơt hay n'dất; chiếc thứ tư gọi là tru (M’nông Preh, M’nông Nong và M’nông Prâng), gọi là dua (M’nông Chil, M’nông Rlăm); chiếc thứ năm gọi là trơ (M’nông Preh, M’nông Nong, M’nông Prâng) và gọi là thơ (M’nông Chil và M’nông Rlăm); chiêng nhỏ nhất gọi là chiêng con (kon). Bộ cồng 3 chiếc: Chiếc lớn nhất gọi là cồng mẹ; chiếc thứ hai làm chuẩn trong khi hòa nhạc và được gọi là tru (M’nông Prâng), du gong (M’nông Rlăm và M’nông Chil); chiếc nhỏ nhất là cồng con (kuôn gong hay kon gong). Ngoài ra, người M’nông còn có một chiếc chiêng lớn gọi là Char, giống như chiêng Char của người Êđê nhưng hiếm khi họ sử dụng chiếc chiêng này.
Bộ cồng 3 chiếc. |
Người M’nông dùng nắm tay phải đánh vào mặt chiêng, tay trái giữ mặt trong lòng chiêng để làm nhịp, điều chỉnh âm thanh. Riêng nhóm M’nông Chil ở Lắk đôi khi cũng đánh chiêng bằng dùi và tạo âm thanh ở mặt lõm, nhưng sự ảnh hưởng này chưa được phổ biến. Cồng được đánh bằng dùi, tác động tạo âm thanh ở mặt lồi, trên phần chóp núm. Khi tấu nhạc, cồng có thể được treo lên dàn rồi dùng tay trái giữ dây, tay phải đánh hoặc được úp vào hai đầu gối người chơi.
Cồng và chiêng là loại nhạc cụ chủ yếu để dùng trong nghi lễ. Người M’nông thường sử dụng bộ chiêng 6 chiếc. Các nghi lễ dùng vật hiến sinh là heo hay gà, người M’nông tấu nhạc bằng bộ chiêng 6 chiếc. Trong các cuộc rượu ngày thường, đôi khi bộ chiêng 6 chiếc cũng được đem ra hòa điệu. Trường hợp trong buôn có khách từ xa tới, chủ nhà đãi khách rượu cần và khi đấy thường phải sử dụng bộ chiêng 6 chiếc như một nghi thức đón mừng để tỏ lòng hiếu khách của toàn buôn. Đây cũng là dịp để bà con trong buôn đến vui chung. Ngoài tang lễ, hôn lễ và những dịp vui, những nghi lễ khác thường được tổ chức tấu cồng chiêng như: lễ kết bạn, cúng hồn lúa, cúng cơm mới sau ngày thu hoạch, lễ chúc sức khỏe người chủ nhà trong dịp dựng nhà mới đối với hầu hết các nhóm M’nông; lễ lên nhà mới của người M’nông Chil; lễ hoàn công một ngôi nhà, cúng rường cột của người M’nông Rlăm... Ứng với mỗi hoàn cảnh ấy là một bài chiêng khác nhau. Ngay trong một lễ hội, các bài chiêng cũng được đánh theo tiết tấu, nhịp điệu khác nhau, tùy theo không khí chung của lễ hội.
Theo quan niệm của người M’nông, âm thanh của hai loại nhạc cụ cồng chiêng trong lễ hội vang lên sẽ kết nối với các thần linh, có thể gọi thần tốt đến và nhờ sự trợ giúp của họ đuổi các ma xấu. Vì thế, tính tâm linh ở các lễ hội trong đời sống văn hóa tinh thần qua tiếng chiêng luôn được đồng bào gìn giữ và phát huy.
Cồng và chiêng là loại nhạc cụ chủ yếu để dùng trong nghi lễ. Người M’nông thường sử dụng bộ chiêng 6 chiếc. Các nghi lễ dùng vật hiến sinh là heo hay gà, người M’nông tấu nhạc bằng bộ chiêng 6 chiếc. Trong các cuộc rượu ngày thường, đôi khi bộ chiêng 6 chiếc cũng được đem ra hòa điệu. Trường hợp trong buôn có khách từ xa tới, chủ nhà đãi khách rượu cần và khi đấy thường phải sử dụng bộ chiêng 6 chiếc như một nghi thức đón mừng để tỏ lòng hiếu khách của toàn buôn. Đây cũng là dịp để bà con trong buôn đến vui chung. Ngoài tang lễ, hôn lễ và những dịp vui, những nghi lễ khác thường được tổ chức tấu cồng chiêng như: lễ kết bạn, cúng hồn lúa, cúng cơm mới sau ngày thu hoạch, lễ chúc sức khỏe người chủ nhà trong dịp dựng nhà mới đối với hầu hết các nhóm M’nông; lễ lên nhà mới của người M’nông Chil; lễ hoàn công một ngôi nhà, cúng rường cột của người M’nông Rlăm... Ứng với mỗi hoàn cảnh ấy là một bài chiêng khác nhau. Ngay trong một lễ hội, các bài chiêng cũng được đánh theo tiết tấu, nhịp điệu khác nhau, tùy theo không khí chung của lễ hội.
Theo quan niệm của người M’nông, âm thanh của hai loại nhạc cụ cồng chiêng trong lễ hội vang lên sẽ kết nối với các thần linh, có thể gọi thần tốt đến và nhờ sự trợ giúp của họ đuổi các ma xấu. Vì thế, tính tâm linh ở các lễ hội trong đời sống văn hóa tinh thần qua tiếng chiêng luôn được đồng bào gìn giữ và phát huy.
Theo baodaklak.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét