Chủ Nhật, 17 tháng 2, 2019

Lễ hội Nàng Hai

Trong kho tàng văn hoá dân gian, người Tày - Nùng ở Cao Bằng nói chung, đồng bào Tày ở Tiên Thành (Phục Hòa) nói riêng rất tự hào với sự góp mặt của "Lễ hội Nàng Hai" với những điệu múa mềm mại, uyển chuyển trong sắc phục xanh, đỏ, vàng sặc sỡ của các cô gái Tày trẻ trung.
Lễ hội Nàng Hai. Ảnh: Chu Đức Hòa

Lễ hội Nàng Hai ở Tiên Thành (tỉnh Cao Bằng) dù dưới bất cứ dạng thức nào (cầu mùa, cầu phúc hay cầu duyên) về bản chất là phản ánh tục thờ Mẹ. Chính nét đặc trưng này mà xuất hiện những giá trị văn hóa làm nên sự đặc sắc của Lễ hội.

Từ lâu, người Tày - Nùng cũng như các dân tộc khác rất coi trọng vai trò của người mẹ mà truyền thuyết hóa thành một vị nữ thần gọi là Mẻ Bjoóc (Mẹ Hoa) - là vị thần của tình yêu, sắc đẹp, sức khỏe, sinh trưởng và bảo vệ sự sống của con người. Thế giới của Mẹ Hoa được ví như một cái cây, ở đó hoa vàng sẽ kết ra con trai, hoa bạc sẽ kết ra con gái. Vì vậy, người Tày - Nùng có tục thờ Mẹ Hoa, một phong tục đầy tính nhân văn, rất đáng được trân trọng, bảo tồn và phát triển.

Trong tâm thức dân gian, Mẻ Bjoóc là người chắp nối lương duyên, đôi trai gái yêu nhau say đắm nhưng có thành vợ, thành chồng hay không đều là do Mẻ Bjoóc, rồi sau này đôi vợ chồng trẻ đó có nở nụ, đơm hoa hay không (có con hay không), cũng là do Mẻ Bjoóc. Vì thế mới có tục "Cái cấu - Lồng kiều", phải mời các bà bụt có uy tín, linh thiêng về làm lễ nguyện cầu, xin Mẻ Bjoóc ban cho nở nụ, kết hoa ra trái ngọt lành...

Đấy là nói về vai trò của Mẻ Bjoóc trong cầu phúc, cầu duyên. Còn trong mùa màng, cấy hái thì Mẻ Bjoóc cũng giữ vai trò quan trọng. Truyền thuyết Pú Lương Quân với sự tích ông Khổng Lồ (Báo Luông - Slao Cải) cũng đề cập rất rõ về vai trò của Mẻ Bjoóc - Mẹ Hoa trong việc tìm tòi, phát triển nghề nông, mang lại no ấm cho mọi người. Song cũng tuỳ theo quan niệm của từng nơi, từng vùng, có nơi gọi Mẻ Bjoóc chính là Slao Cải - người mẹ lớn này có khi được gọi là Mẹ Trăng, có khi là Pựt Luông. Dù gọi cách gì đi nữa cũng đều gắn với Mẹ Hoa lo cho mùa màng tươi tốt, nhà nhà ấm no.

Có lẽ từ xuất phát điểm ấy mà ở Lễ hội Nàng Hai Tiên Thành mới có cảnh mang hoa lên mường trăng để dâng tiến Mẹ Trăng. Vì vậy trong suốt thời gian Lễ hội, từ ngày mở đầu cho đến khi kết thúc kéo dài tới 49 ngày đêm, người ta hái rất nhiều hoa quý, hoa đẹp của núi rừng để làm lễ vật dâng tiến các Mẹ Trăng, rồi trong ngày kết thúc Lễ hội, các Nàng Hai lại tổ chức hội khao hoa các Mẹ Trăng, tức là mời các Mẹ Trăng ăn hoa, mà những người mời phải là các Nàng Hai thanh tân, trinh trắng: Nàng đốt mớ tóc dài/Nàng kết đạo ngày đêm/Chưa mang xuyến cổ tay/Áo dài đến bàn chân/Nàng nào quên chơi xuân đêm trước.

Nói như các cụ là: “Cò tẳng, rặng kíu/Nả sluổi muối qua/Đăm nà khẩu mảc/ Tăm slác khẩu khao”. Vì vậy, có thể nói rằng đây là lễ hội của các trinh nữ đẹp người, đẹp nết và giỏi thơ phú, hát ca, đối đáp tài tình. Quả là một nét văn hoá độc nhất vô nhị.

Tỉnh Cao Bằng có khoảng 20 lễ hội, nhưng không có lễ hội nào diễn ra dài ngày, công phu, cầu kỳ như Lễ hội Nàng Hai ở Tiên Thành. Sau ngày Tết đắp nọi (30 tháng Giêng âm lịch) bắt đầu dựng nhà đón Mẹ Trăng để mẹ truyền dạy những bài lượn hai cho các Nàng Hai; ngày 22 tháng 3 âm lịch mới chính thức diễn ra lễ hội. Do đó đây là một lễ hội cần có sự chung tay, góp sức của cộng đồng, người người, nhà nhà cùng nhau lo toan gánh vác công việc. Mọi nghi thức bắt buộc của lễ hội phải được thao luyện với sự đáp ứng đầy đủ về trang phục, các vật phẩm thờ cúng cho đến bãi cỏ, mái che cho các nàng trăng múa hát, bến nước thả thuyền, thả hoa đều phải tươm tất, chu toàn thì Mẹ Trăng mới suôn sẻ trong việc xuất nhập hồn, lễ hội mới linh thiêng, trang trọng. Từ sự quy mô, cầu kỳ, linh thiêng ấy mà nó được lưu truyền từ đời này qua đời khác, làm cho lớp lớp cháu con càng thêm yêu mến, trân trọng và tự hào về nét đẹp truyền thống của quê hương mình.
 
Sau đó, đoàn người vừa đi vừa hát, ra bờ suối làm lễ tiến Nàng Hai rời trần gian.

Không chỉ hấp dẫn con cháu vùng Tiên Thành, Lễ hội Nàng Hai còn là nơi hội tụ, giao lưu của nhiều lớp người, nhất là nam thanh, nữ tú từ Phục Hoà, Quảng Uyên đến; Tràng Định (Lạng Sơn), Thạch An sang; Hòa An, thành phố Cao Bằng xuống... Đặc biệt, còn có cả nam nữ thanh niên từ Long Châu (Trung Quốc) đến chiêm ngưỡng, chia vui. Vì đây là dịp người ta gặp gỡ, trao đổi để tăng thêm mối bang giao. Thông qua các cuộc đối đáp với Nàng Hai, người ta không ngại ngần bộc lộ tâm can để bạn bè thân hữu chia sẻ những buồn vui, khúc mắc. Nếu không có lễ hội thì có mấy ai lại dám đưa những chuyện riêng tư ra giãi bày trước đám đông? Bởi qua đối đáp với Nàng Hai người ta tìm được sự đồng cảm. Do vậy có thể nói rằng, Lễ hội Nàng Hai là một trường học đầy nhân văn, nơi kêu gọi con người ở tất cả mọi nơi, mọi địa vị, mọi lứa tuổi, mọi mối quan hệ hãy yêu thương, độ lượng và nhân từ với nhau.
 
Thầy Tào làm Lễ nhập “Hồn trăng” cho Nàng Gường, Nàng Sở, một nghi lễ trong Lễ hội Nàng Hai.

Lễ hội Nàng Hai nói riêng, dân ca các dân tộc thiểu số ở Cao Bằng nói chung như những "cục than hồng" trong bếp lửa nhà sàn. Nguồn than hồng ấy từ khi xuất hiện cho đến những năm 60, 70 của thế kỷ trước thật sự làm cho con người lúc bấy giờ mặc dù khó khăn, thiếu thốn trăm bề nhưng họ sống thuỷ chung, son sắt với nhau, tình làng nghĩa xóm được trân trọng, nâng niu. Cũng nhờ lời ca, điệu múa, câu lượn, câu sli mà nghĩa tình đã vượt qua những lũy tre, bờ đá của làng, để làng nọ kết nối xóm kia, tạo ra sự cộng cảm lớn lao, cùng nhau gánh vác, đỡ đần khi có việc lớn. Quả là một nét đẹp nhân văn rất đáng được giữ gìn, phát huy. 
Chu Sĩ Liên (Theo baocaobang.vn)

Giá trị các khúc hát lượn Nàng Hai ở Cao Bằng

 
Lễ hội Nàng Hai xã Tiên Thành, huyện Phục Hòa( Cao Bằng) khởi nguồn từ tín ngưỡng thờ mẫu của người Việt kết hợp với truyền thống coi trọng mẹ sinh sản của người Tày. Nữ thần trông coi việc sinh nở được người Tày gọi là “Mẻ Bjoóc” (mẹ hoa). “Mẻ Bjoóc” ở trên trời mới là mẹ đẻ, còn mẹ ở trần gian chỉ là người thừa lệnh “Mẻ Bjoóc” sinh ra con. Từ xuất phát đó cộng với truyền thống luôn đề cao phụ nữ, người Tày đã xây dựng hình tượng “Mẻ Bjoóc” thành mẹ Trăng, bởi trăng là một hiện tượng thiên nhiên với quan niệm dân gian là chủ về nước - thái âm.
 
Lễ hội Nàng Hai.
 

Lễ hội được sáng tạo từ chính cuộc sống sinh hoạt và lao động, sản xuất của người nông dân miền núi mang ý nghĩa mời Nàng Hai về ban mùa màng bội thu và hạnh phúc cho dân bản. Mặt khác, theo tín ngưỡng dân gian dân tộc Tày, trên cung Trăng có mẹ Trăng và mười hai nàng tiên là con gái của mẹ Trăng. Mẹ cùng các nàng hằng năm chăm lo, bảo vệ mùa màng cho dân chúng ở trần gian. Hội Nàng Hai được tổ chức với ý nghĩa tượng trưng các mẹ, các nàng ở dưới trần gian hành trình lên trời đón mẹ Trăng và các nàng tiên xuống thăm trần gian.

Các khúc hát lượn của Lễ hội Nàng Hai đã có từ rất lâu đời, nhưng trước đó chưa được gọi là lượn Nàng Hai mà phải đến cuối thời nhà Mạc (cuối thế kỷ XVII), công chúa Mạc Thị Tuyết Lan (Tiên Giao) - con gái cả của vua Mạc Kính Vũ, khi phải ẩn náu dưới trướng tướng Đinh Văn Tả, công chúa Tiên Giao đã khéo léo dùng lượn slương cổ của người Tày tổ chức vui chơi, giải trí giữa nhân dân địa phương với binh lính trong những đêm trăng sáng. Từ đó, những khúc hát lượn được nhân dân truyền tụng từ đời này qua đời khác và gọi là lượn Nàng Hai.

Về địa lý, lượn Nàng Hai giới thiệu nơi diễn ra lễ hội: "Bấu cạ mẻ bấu hăn/Bấu păn mẻ bấu chắc/Thôn là thôn thiên hạ/Xạ là xạ Tiên Thành/Thôn là thôn Hưng Thịnh/Tỉ là tỉ Nưa Khau/Tốc mà rằm toong cọ/Họ là họ rườn Đinh...". Tạm dịch: Không bảo mẹ không thấy/Không chia mẹ không biết/Thôn là thôn thiên hạ/Xã là xã Tiên Thành/Thôn là thôn Hưng Thịnh/Đây là nơi Nưa Khau/Rơi về lót lá cọ/Họ là họ nhà Đinh... Đọc qua những câu trên chúng ta phần nào hiểu được xuất xứ của lượn Nàng Hai gắn với dòng họ Đinh.

Về giá trị lịch sử, lượn Nàng Hai góp phần lưu giữ được tiếng Tày cổ. Tất cả các khúc hát, bài hát lượn Nàng Hai đều được dùng bằng tiếng Tày để diễn tả các cung bậc tình cảm của con người trước thiên nhiên tươi đẹp, đặc biệt là dưới ánh trăng vàng trong bối cảnh cuộc sống bình yên, làm ăn thuận lợi. Mặc dù tất cả các khúc hát trong lễ hội đều được hát bằng tiếng Tày, nhưng đôi chỗ, các tác giả dân gian phải mượn tiếng Việt mới diễn tả được, ví dụ như: "Thôn là thôn thiên hạ/Xạ là xạ Tiên Thành". Các khúc hát cho thấy rõ lượn Nàng Hai có tên gọi rõ nét nhất vào cuối thời nhà Mạc ở Cao Bằng.

Lượn Nàng Hai mang đậm giá trị nhân văn sâu sắc, nói lên ước vọng một cuộc sống bình yên, mọi người, mọi nhà đều có cơm ăn, áo mặc. Muốn vậy thì phải mời Nàng Hai xuống để giúp nhân dân trông coi sản xuất, diệt trừ sâu bọ, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu: "Slinh mà dú cốc bjoóc ná nhà/Slinh mà dú cốc hoa ná mẻ/Há chúc mụ mạnh khỏe bình an/Sản xuất đáy lai mòn cúa quý/Ngần sèn mì têm quỷ, têm rườn". Tạm dịch:Sinh ra ở gốc hoa trước nhà/Sinh ra ở gốc hoa trước mẹ/Hai chúc mẹ mạnh khỏe bình an/Sản xuất được nhiều của cải quý/Tiền bạc có đầy hòm nhà. Lượn Nàng Hai còn góp phần lưu giữ tiếng Tày cổ, giúp hậu thế hiểu được giá trị đích thực của tiếng Tày. Những tiếng Tày trong lượn Nàng Hai lấp lánh đủ sức diễn tả những tâm tư, tình cảm của người dân lao động miền núi bao đời nay.
 
Về giá trị nghệ thuật, lượn Nàng Hai mang đậm nghệ thuật “Phuối Rọi” (nói thơ) của tộc người Tày Cao Bằng với các loại hình văn học như thất ngôn trường thiên, ngũ ngôn trường thiên, thể thơ tự do và sau mỗi câu lượn có từ “lả ới” - hư từ không mang nội dung gì nhưng rất quan trọng. “Lả ới” là chất kết dính giữa câu trên và câu dưới làm tăng thêm vẻ lung linh, huyền ảo của các nàng tiên đang múa hát dưới ánh trăng của đêm hội. Bên cạnh đó, từ láy cũng được lượn Nàng Hai lặp đi lặp lại nhiều lần. Chẳng hạn trong khúc lượn Cam (lượn đối): "Rức răng khứn thua tổng rủng rường/Rức răng khứn thua mường rủng chói/Rức răng liêp nặm nọi khứn mà/Rức răng khai ngã ba hang phố/Rức răng nủng rưa lụa chòn cừa/Rức răng là phài lừa lồng hát/Rức răng là tốp pác kin đai/Rức răng là lài vai như phít/Rức răng là đeng chít như mò/Rức răng mà cót cò bạn khóa/Rức răng dú tó ná mẻ hai/Rức răng là dặng doài roong bướng". Tạm dịch: Cái gì lên đầu đồng rực rỡ/Cái gì lên đầu bản chói lòa/Cái gì men nước cạn lên ruộng/Cái gì bán ngã ba chợ phố/Cái gì mặc áo lụa chui bụi/Cái gì như bơi thuyền xuống thác/Cái gì mà vỗ miệng ăn không/Cái gì mà chơi vơi như trượt/Cái gì mà đỏ choét như bò/Cái gì mà ôm cổ bạn thân/Cái gì ở trước mặt mẹ trăng/Cái gì mà đứng thẳng hai bên. Sự lặp đi lặp lại nhằm tăng thêm vẻ huyền bí của câu đối, làm người được đối khó mà phân biệt được sự thâm sâu của người đối.
 
Lượn Nàng Hai mang tính nhân văn cao cả và giá trị lịch sử sâu sắc, khẳng định sự hoàn mỹ của ngôn ngữ Tày cổ, đồng thời, góp phần làm phong phú nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Theo baocaobang.vn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét