Thứ Sáu, 16 tháng 12, 2011

LIÊN TRÌ CỔ TỰ

LIÊN TRÌ CỔ TỰ
Ngôi chùa gần 200 năm tuổi

Chùa Liên Trì – còn gọi là Liên Trì Cổ Tự, có khuông viên trên 3000m2 nằm trên một diện tích đất rộng 21.000m2, tọa lạc tại số 10/15, tổ 9, khu vực Thới Thạnh, phường Thới An Đông, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ. Điện thoại số 0710 3886150. Hiện nay chùa thuộc hệ phái Bắc tông, do Thượng tọa Thích Thiện Tài làm trụ trì.
Chùa Liên Trì
I. Lịch sử hình thành ngôi chùa.
Theo lời kể của Thượng tọa Thích Thiện Tài trụ trì chùa và bà con phật tử trong vùng, kết hợp với nguồn tư liệu ít ỏi của chùa. Cách đây gần 200 năm, vào đầu thế kỷ XIX, năm Nhâm Thân – 1812 (năm Gia Long thứ 11). Tại vùng đất nầy còn rất hoang sơ, Bà con người dân tộc Kh’mer cùng với các Sư sãi dựng lên ngôi Tự viện trên một gò đất cao, để tu học và giáo pháp theo Phật giáo truyền thống Nam tông Kh’mer. Ban đầu chùa còn rất đơn sơ cột cây mái lá và chưa có tên, chỉ biết theo cách gọi truyền miệng với nhau là “Chùa ông Lục”.
Khoảng thời gian sau, vùng đất này có nhiều người Kinh đến định cư sinh sống, người Kh’mer và các sư sãi dần dần chuyển sang vùng kế cận, từ đó ngôi chùa nhỏ và mấy chiếc thảo am vắng lạnh không người trông coi nhang khói. Đến năm Nhâm Ngọ - 1822 (năm Minh Mạng thứ 3), có vị Thiền sư Liễu Thông, tự Chơn Giác thuộc dòng Thiền Lâm Tế (đời thứ 37) tình cờ vân du đến đây thấy ngôi chùa đìu hiu chạnh lòng, Ngài vận động bà con dân làng cùng sửa sang lại, với bổn nguyện xuyễn dương đạo pháp và thu nhận thêm nhiều vị tăng đến cùng tu học. Theo các Long vị còn lưu lại trên bàn thờ Tổ, chúng ta thấy các Vị như: sư Liễu Huệ - tự Hoằng Lý, sư Minh Thông - tự Hải Huệ… Lúc bấy giờ, pháp hiệu ngôi chùa do Thiên sư Liễu Thông đặt là “ Chùa Kè Ba” (vì xung quanh chùa có nhiều cây Kè, trong đó trước cửa chùa có một cây Kè có ba đọt). Với ý nghĩa, lấy hình ảnh cây Kè ba đọt để biểu hiện lên ánh sáng Thiền Đăng cùng với tiếng chuông giáo lý ngân nga, hòa mình cùng dân tộc, để an ũi xoa dịu những nổi khổ đau của kiếp nhân thế. Tuy nhiên, khoảng thời gian này chỉ kéo dài được mười mấy năm, do nhiều hoàn cảnh và nhiều lý do, quý Thầy lần lượt rời chùa. Ngôi chùa vắng lạnh chỉ còn bà con phật tử trong làng thay nhau nhang khói.
Đến năm Kỷ Dậu - 1849 (năm Tự Đức thứ 3) có Thầy du tăng pháp danh Thiện Quả, người cao lớn mập và đen (tục gọi ông Đạo Quạ) đến sửa sang lại ngôi chùa, thu nhận đệ tử, hành đạo và trụ trì chùa được 9 năm, vào năm Mậu Ngọ - 1858 Thầy Thiện Quả đi hành đạo nơi khác nên Thầy truyền trụ trì lại cho đồ đệ tên là Thầy Hai người ở Trà Cú (Trà Lòng) pháp danh …. tiếp tục trông coi chùa được 18 năm, đến năm Bính Tý – 1876 Thầy Hai viên tịch hưởng thọ .. tuổi. Từ đó chùa không còn người trụ trì, chỉ có bà con trong xóm sớm hôm nhang khói. Mặc dù vậy, trong thời gian này theo truyền miệng của dân làng địa phương “trong ao sen của chùa có chuông vàng” và qua lời kể của cụ bà Võ Thị Giàu (bà sinh năm Mậu Tý – 1888, mất năm Kỷ Tỵ - 1989, đại thọ 102 tuổi) là người sống ở gần chùa: “ngày trước, Cha Mẹ bà kể là đã từng tận mắt thấy trong ao sen trước chùa vào những ngày rằm tháng tốt, có ánh sáng hiện lên và nghe tiếng Hồng Chung ngân nga văng vẳng”.
Mãi đến năm Canh Thìn – 1882 (năm Tự Đức thứ 36) nhờ Hồng Ân Tam Bảo và hồng phúc của bà con phật tử làng Thới Giai, có được vị Thiền sư pháp danh Phước Định, húy Đạt Thiền thuộc dòng Thiền Lâm Tế (đời thứ 38) về hành đạo. Thiền sư Phước Định là người Việt có thời gian vân du tìm nơi học đạo sang tận đất nước Campuchia và tu học tại chùa Tâm Băng, tỉnh Bát Tom Bong. Sau thời gian tu học thông hiểu giáo lý, thâm tường học thuật, Thầy trở về nước, với bổn nguyện lợi tha, giáo hoá và cứu giúp nhân sinh; với đạo cao đức trọng Thầy vừa truyền bá chánh pháp, vừa trị bệnh cứu người. Từ đó, ngôi chùa được trùng tu xây cất lại khang trang, nhiều bà con tín đồ tin tưởng quy tụ đến chùa ngày càng đông. Trong thời gian này, có nhiều người đến nhập môn tu học xin làm đệ tử của Thiền sư và đều tu đắc đạo như các vị: Yết Ma Phước Quang(1), Giáo Thọ Từ Quang(2), Phước Chơn, Từ Minh… Dựa vào quang cảnh có ao sen bên hông chùa, Thiền sư Phước Định chính thức đặt pháp hiệu cho chùa là “Liên Trì Cổ Tự”. Với ý nghĩa: “nơi đây thanh tịnh trang nghiêm như ao sen Liên Trì ở cõi Tây Phương cực lạc”. Dựa theo lời Phật nói trong bộ Kinh Di Đà là sự luân chuyển của dòng đời. Vì thế, khi về trụ trì chùa Thượng tọa Thích Thiện Tài minh họa bằng 4 câu thơ:
“Liên khai thuở nọ nơi đây
Trì trung cảnh ấy trổ đầy hoa sen
Cổ nhân ngày trước dựng lên
Tự nguồn chánh pháp chuyển nên ngôi Chùa”

Hòa thượng Phước Định trụ trì chùa được 29 năm thì tạ thế vào ngày 30 tháng 7 năm Tân Hợi (1911) hưởng dương 55 tuổi. Ngài ra đi để lại bao nỗi niềm thương tiếc, đau buồn cho môn đồ, bổn đạo và bà con nhân dân trong vùng.
Sau khi Hòa thượng Phước Định về cõi hư vô tịch tịnh, đệ từ thứ hai của Ngài là Giáo Thọ Từ Minh, húy Ngộ Thúy kế thế trụ trì chùa Liên Trì, nối tiếp truyền trì sự nghiệp đạo pháp do Hòa thượng Phước Định còn để lại thêm được 19 năm sau. Đến năm Canh Ngọ - 1930 do phải chuyển tu nơi khác, Thầy Từ Minh đã trao truyền chùa cho đệ tử là Thầy Niệm Pháp.
Trong thời gian này, nền chùa (ngôi chánh điện) nằm sát mép rạch, bị sạt lở gần tới nền, và phần mái vách cũng xuống cấp mục nát, nên phải dời vào bên trong cho an toàn. Mặc dù Thầy Niệm Pháp còn rất trẻ, nhưng với tấm lòng chấn hưng đạo pháp và nguyện noi theo chí tổ của các đức Thầy tiền nhiệm để lại, Thầy đã kêu gọi bà con dân làng và các tín đồ phật tử cùng chung xây dựng lại ngôi chùa. Được các vị Thân hào Nhân sỹ ở làng Giai Xuân và Thới An Đông đồng tình ủng hộ, gồm có các ông Cả Tám, ông Kiểm Tánh, ông Hương Tham, ông Cả Thức (Nguyễn Tấn Chức), ông Bộ Bảy … đã tích cực tham gia đóng góp nhiều tiền của, vật liệu để xây dựng mới lại ngôi Tam Bảo (cách nền chùa cũ sát mép rạch vô khoảng 40 mét), trên nền chùa hiện nay. Đặc biệt, trong dịp này có bà Cai Hú hỷ cúng mười công đất, và bà Ba Nho hỷ cúng hơn một công đất (gọi là đất cây vông, vì trên đất có một cây vông rất lớn), góp phần mở rộng diện tích đất chùa cho đến ngày nay.
Theo lời kể của các vị bô lão, từ năm 1930 đến đầu năm 1945 chùa Liên Trì được chấn hưng phát triển, có rất đông đão bà con phật tử quy tụ đến chùa. Hằng năm, vào ngày rằm tháng bảy âm lịch chùa tổ chức trai đàn rất lớn cầu an cho bá tánh, cầu siêu cho đồng bào tử nạn cho chiến sỹ trận vong, chuẩn tế cô hồn. Trong cả 2 gian đoạn kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược, chùa Liên Trì không chỉ là nơi tâm linh tín ngưỡng tu hành, mà còn là chổ dựa tinh thần cho bà phật tử trong lúc hoạn nạn khó khăn; một địa điểm nhóm họp dân làng, một cơ sở ủng hộ cách mạng; trạm trú chân của các chiến sỹ du kích, trạm dừng chân của các đơn vị bộ đội sau này. Đặc biệt, sau cách mạng tháng tám thành công năm 1945, thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Nhiều thanh niên là phật tử của chùa tích cực hưởng ứng lời của chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống Pháp xâm lược, đã hăng hái tham gia vào du kích, tòng quân vào bộ đội cầm súng giết giặc cứu nước. Về phía nhà chùa, đã hiến gần trăm cây tràm lâu đời, dùng làm cảng Phố Chùa ở Long Tuyền để chặn tàu giặc; hiến tất cả đồ đồng trong đó có một Đại Hồng Chung cổ kính cho công binh xưởng đúc đạn… trong những năm kháng chiến chống Mỹ xâm lược, nhà chùa cũng tích cực tham gia các chiến dịch, nổi bật nhất là tết Mậu Thân năm 1968, sau đó chùa cũng phải chịu sự tàn phá nặng nề của bom đạn Mỹ .
Ảnh tư liệu của chùa Sau 20 năm trụ trì chấn hưng chùa Liên Trì, đến năm Canh Dần – 1950, Thầy Niệm Pháp phải chia tay với ngôi chùa đã gắn bó với Thầy cả một thời niên thiếu để chuyển về tu hành ở chùa Long Châu - Ô Môn. Chùa Liên Trì được Thầy Thiện Bảo tiếp tục trông coi cho đến sau năm Mậu Thân – 1968, vì chiến tranh ác liệt Thầy Thiện Bảo cũng phải chuyển về tu ở chùa Long Châu – Ô Môn. Tuy vậy, Thầy Thiện Bảo thường xuyên tranh thủ lui tới chùa cũ trong những lúc không có bom pháo giặc, vận động tổ chức người trông coi nhang khói và giữ gìn ngôi chùa của Tổ nghiệp để lại. Trong thời gian này có: ông Tư Phùng, ông Tư Mạnh là 2 vị có thiện chí kiên trì nhất, ngoài ra còn có các ông: Ba Gìn, Tám Hiểu, Năm Ở, Tư Đê, Hai Sện, Năm Tiều Phu…
là những người đã có công gìn giữ ngôi chùa cho đến ngày đất nước Việt Nam độc lập thống nhất vào năm Ất Mảo - 1975.
Đến đầu năm Bính Thìn – 1976, Thầy Thiện Bảo đã tìm và thỉnh cầu Thầy Thiện Tài về làm trụ trì chùa Liên Trì. Thượng tọa Thích Thiện Tài – tục danh Lâm Hồng Đào, sinh ngày 14 tháng 4 năm Giáp Thân - 1944, quê quán ở ấp Thới Hòa, xã Giai Xuân, Hậu Giang (nay là Tp. Cần Thơ). Xuất gia năm 1963, vào chùa Lưu Âm ở xóm Sóc Vọp, quận Sa An, tỉnh Can Đa – Campuchia tu học. Năm 1965 thọ Sa Di do Hòa thượng Phước Linh trao giới. Năm 1968 thọ Tỳ Kheo và tốt nghiệp trung cấp giáo lý tại Chùa Quan Âm do Hòa thượng Từ Vân trụ trì. Năm 1970 hồi hương về Việt Nam trở về quê quán, đến tháng 3 năm 1971 cầu pháp với Hòa thượng Chơn Tánh và được nhập tự tu hành tại chùa Đa Phước, xã Đa Phước, huyện An Phú, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang. Thể theo ý nguyện của bà con phật tử và Thầy Thiện Bảo, Tỳ Kheo Thích Thiện Tài về chùa Liên Trì, được bổ nhiệm làm trụ trì và làm lễ nhập tự vào ngày mùng 8 tháng tư năm Bính Thìn 1976 cho đến nay. Với thời gian hơn 35 năm tu học, toàn tâm toàn ý phụng sự phật pháp, Thầy Thích Thiện Tài được tấn phong giới phẩm Thượng tọa vào ngày mùng 2 tháng 2 năm Mậu Dần 1998. Thượng tọa Thích Thiện Tài
Ngay từ ngày đầu về làm trụ trì chùa, Thượng tọa Thích Thiện Tài đã bắt tay ngay vào việc sửa chữa tạm thời lại ngôi chánh điện để thờ cúng. Đồng thời đi vận động bà con phật tử gần xa ủng hộ
cúng dường tiền của để đến năm 2002 tiến hành
xây mới lại ngôi Chánh điện có diện tích 280m2, đài Quán Thế Âm Bồ Tát lộ thiên cao hơn 3 mét. Hai công trình này đến năm 2004 hoàn thành. Sau đó tiếp tục xây lại dãy nhà Đông lang có diện tích 234m2 chia làm
nhiều phòng cho các vị chư tăng và dãy Tây lang trên 200m2 cho các nio6 tu học; xây thêm một tịnh thất (cóc), một nhà cốt cho phật tử, sửa chữa lại nhà khói và kho của chùa… với tổng số tiền hơn 1 tỷ đồng. Hiện nay đang tiếp tục hoàn thiện lát gạch và tráng xi măng sân chùa, trồng hoa kiểng và cây xanh trong toàn bộ 3000m2 khung viên chùa.
Tượng Quán Thế Âm phía trước chùa

Ngoài công việc của chùa, Thượng tọa Thích Thiện Tài còn tham gia công tác xã hội và công tác phật sự của giáo hội như: từ năm 1977 đến năm 1982 là thành viên của ban liên lạc Phật giáo yêu nước Cần Thơ, Hậu Giang; Phó ban đại diện Phật giáo thành phố Cần Thơ - tỉnh Hậu Giang; ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã Giai Xuân 2 nhiệm kỳ từ 1990 – 1995. Hiện nay Trưởng ban đại diện Phật giáo quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ.
II. Bố trí thờ cúng, các ngày lễ và công tác từ thiện xã hội của chùa
Chánh điện chùa Liên Trì hiện nay nằm giữa một khuôn viên khá rộng, trong đợt trùng tu lại vào năm 2002 được xây mới theo hình khối vuông bằng bê tông tường gạch, bên trên xây thêm một tầng mái theo lối kiến trúc cổ lầu. Trước, sau và hai bên hông chùa được thiết kế có hành lang rộng thoáng mát với kết cấu bằng 20 cột tròn đỡ mái ô quăng chung quanh. Sáu cột phía trước gắn ba cặp liễn đối:
Cặp thứ nhất: Phật ấn nhứt thừa vạn phái đồng lưu quy đại hải
Pháp khai tam giáo thập phương thế giới bổn duy tâm
Cặp thứ hai: Bảo phiệt độ mê nhơn thử giới đốn siêu hóa phương tùy hiện
Thần đăng khai ám thất tâm chơn bất mụi vạn pháp tế chương
Cặp thứ ba: Bồ đề hương phát thiên chơn thanh tịnh phi sắc phi không
Bát nhã hoa khai vạn phát trang nghiêm tức tâm tức Phật.

Bên trong chùa, giữa trung tâm ngôi chánh điện, trước điện thờ là 2 cột trụ 2 bên được chạm đắp 2 con rồng quấn từ trên xuống rất tinh xão, bên trên treo một bức hoành phi khắt nổi 4 chữ “ Vạn Đức Từ Tôn” dịch nghĩa: “người hiền muôn đức” , bên dưới là khung bao lam chạm trổ công phu hình Long Lân Quy Phụng thếp vàng tuyệt đẹp.
Trên ban thờ an trí tượng Phật Thích Ca Mầu Ni ngồi trên tòa sen cao hơn 2 mét, bên trái xếp tượng nhỏ Phật đản sinh, bên phải xếp tượng Chuẩn đề Bồ Tát. Bên dưới an trí 3 pho tượng bằng gổ: ở giữa Phật A Di Đà, bên trái Quán Thế Âm Bồ Tát, bên phải Đại Thế Chí Bồ Tát.
Trung tâm chánh điện
3 pho tượng trong 10 pho tượng Phật bằng gổ có niên đại hơn 100 năm tuổi của chùa
Phía vách bên trái đặt bàn thờ Thượng đế, ở giữa tượng Ngọc Hoàng, 2 bên có tượng Nam Tào và Bắc Đẩu; Vách bên phải đặt bàn thờ Đức Hộ Pháp 2 bên có tượng Đức Tiêu Diện và Quan Thánh Đế Quân.
Bàn thờ phía vách trái Bàn thờ phía vách phải
Phía sau chánh điện là bàn thờ Hậu Tổ. Bậc trên, ở giữa an trí tượng Đức Quán Thế Âm Bồ Tát; hai bên, mỗi bên xếp bốn long vị các cố Thiền sư, Hòa thượng trụ trì chùa Liên trì từ trước đến nay gồm: Thiên sư Liễu Thông, Liễu Huệ, Minh Thông, Thiện Quả, Thầy Hai, Phước Quang, Từ Quang, Phước Chơn, Từ Minh, Phước Định, Niệm Pháp… Bậc dưới, ở giữa an trí ảnh Đức Tổ sư Đạt Ma, 2 bên xếp các bức di ảnh của các cố trụ trì chùa và chuông, mõ. Bàn thờ Hậu tổ

Hiện nay, chùa vẫn duy trì các ngày lễ chính định kỳ như:
Lễ cầu an đầu năm – mùng 8 tháng giêng; Lễ Thượng ngươn – rằm tháng giêng; Lễ Phật đản – rằm tháng tư; Lễ Trung ngươn kết hợp Vu Lan báo hiếu – rằm tháng bảy; Lễ Húy kỵ cố Hòa thượng Thượng Phước Hạ Định (Phước Định) vào ngày 30 tháng bảy và lễ Hạ ngươn – rằm tháng mười. Những ngày này có 300 – 500 người đến lễ bái tại chùa.
Hiện nay nhà chùa vẫn duy trì tổ chức ngày Thọ Bát Quan Trai, định kỳ vào ngày 15 và 29 hằng tháng, có 20 đến 30 phật tử tham gia.
Ngoài ra, Thượng tọa Thích Thiện Tài trụ trì chùa Liên Trì còn tích cực tham gia công tác từ thiện xã hội ở địa phương, hằng năm tặng 50 đến 70 phần quà Trung Thu cho trẻ em nghèo; phân phát 500 – 700 ký gạo cho người nghèo; ủng hộ hằng chục triệu đồng để góp phần xây dựng cầu đường, xây nhà tình thương ./.

Tác giả bài viết: Trần Quốc Lương (. tranluongct@gmail.com ) Đt 0918864542

Ngắm nét đẹp cổ kính của chùa Liên Trì

Chùa Liên Trì có diện tích trên 3.000m2 tọa lạc tại khu vực Thới Thạnh, phường Thới An Đông, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ.

“Liên khai thuở nọ nơi đây
Trì trung cảnh ấy trổ đầy hoa sen
Cổ nhân ngày trước dựng lên
Tự nguồn chánh pháp chuyển nên ngôi chùa”
Ông Huỳnh Văn Ro, 70 tuổi ngụ khu vực Thới Thạnh hướng dẫn chúng tôi tham quan xung quanh ngôi chùa khá rộng lớn và rợp mát bóng cây. Trên đường đi ông kể: “Nghe ông bà xưa kể lại, ngôi chùa này đã có trên 200 năm tuổi. Lúc chưa giải phóng, do địa hình nằm cạnh sân bay Trà Nóc nên chùa là nơi nuôi chứa nhiều chiến sĩ cách mạng về đây hoạt động tiến đánh sân bay cùng các mục tiêu khác như: điện lực, kho đạn, kho xăng…”
Ngam net dep co kinh cua chua Lien Tri
 
Chùa Liên Trì có diện tích trên 3.000m2 tọa lạc tại khu vực Thới Thạnh, phường Thới An Đông, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ. Theo lời kể của Thượng tọa trụ trì Thích Thiện Tài thì chùa Liên Trì hình thành cách đây gần 200 năm, cụ thể là năm Nhâm Thân 1812.
Thời đó vùng đất này còn rất hoang sơ, bà con người dân tộc Khmer cùng với các sư sãi dựng lên ngôi tự viện trên một gò đất cao. Ban đầu chùa còn rất đơn sơ cột cây mái lá và chưa có tên, chỉ biết theo cách gọi truyền miệng với nhau là “Chùa ông Lục”. Lâu dần, vùng đất này có nhiều người Kinh đến định cư sinh sống, người Khmer và các sư sãi dần dần chuyển sang vùng kế cận, từ đó ngôi chùa nhỏ và mấy chiếc thảo am không người trông coi nhang khói.
Đến năm Nhâm Ngọ 1822 có vị thiền sư tên Liễu Thông, tự Chơn Giác đến đây. Ngài vận động bà con dân làng cùng sửa sang lại và thu nhận thêm nhiều vị tăng đến cùng tu học. Thiền sư Liễu Thông đặt tên mới là “chùa Kè Ba” (xung quanh chùa có nhiều cây Kè, trước cửa chùa có một cây Kè có ba đọt). Tuy nhiên, do nhiều hoàn cảnh và nhiều lý do, quý thầy lần lượt rời chùa. Ngôi chùa lại vắng lạnh chỉ còn bà con phật tử trong làng thay nhau nhang khói.
Từ đó về sau có rất nhiều thầy tu đến sửa chữa chùa và kêu gọi phật tử đến hành lễ nhưng thời gian kéo dài không lâu. Từ năm 1911, chùa mới hoạt động ổn định cho đến hôm nay. Theo lời kể của các vị bô lão: từ năm 1930 đến đầu năm 1945, chùa Liên Trì được chấn hưng phát triển, đông đảo bà con phật tử đến chùa. Hằng năm, vào ngày Rằm tháng bảy âm lịch, chùa tổ chức trai đàn rất lớn cầu an cho bá tánh, cầu siêu cho đồng bào tử nạn, cho chiến sĩ trận vong, chẩn tế cô hồn.
Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chùa Liên Trì không chỉ là nơi tâm linh tín ngưỡng tu hành, mà còn là chỗ dựa tinh thần cho bà phật tử trong lúc hoạn nạn khó khăn. Cạnh đó, chùa còn là địa điểm nhóm họp dân làng, cơ sở ủng hộ cách mạng và là trạm trú chân của các chiến sĩ du kích, trạm dừng chân của các đơn vị bộ đội. Đặc biệt, sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam. Nhiều thanh niên phật tử đã tích cực hưởng ứng lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống Pháp xâm lược, đã hăng hái tham gia vào du kích, tòng quân vào bộ đội cầm súng giết giặc cứu nước.
Chùa đã hiến gần trăm cây tràm lâu đời, dùng làm cảng Phố Chùa ở Long Tuyền để chặn tàu giặc; hiến tất cả đồ đồng, trong đó có một Đại Hồng Chung cổ kính cho công binh xưởng đúc đạn... Tết Mậu Thân năm 1968, chùa cũng phải chịu sự tàn phá nặng nề của bom đạn Mỹ.
Đầu năm 1976, Thượng tọa Thích Thiện Tài về làm trụ trì chùa Liên Trì. Hiện nay, chùa vẫn duy trì các ngày lễ chính định kỳ như: Lễ cầu an đầu năm; lễ Thượng nguyên Rằm tháng giêng; Lễ Phật đản Rằm tháng tư; Lễ Trung nguyên kết hợp Vu Lan báo hiếu – Rằm tháng bảy…
Ngam net dep co kinh cua chua Lien Tri-Hinh-2
 
Chùa Liên Trì còn tích cực tham gia công tác từ thiện xã hội ở địa phương như tặng quà cho hộ nghèo, gia đình khó khăn; xây dựng GTNT; xây nhà tình thương, khám chữa bệnh miễn phí cho bệnh nhân nghèo.
Đến tham quan cảnh chùa hôm nay, du khách sẽ được nghe nhiều câu chuyện kể rất cảm động về lịch sử ngôi chùa hơn 200 năm tuổi đã trải qua bao biến cố thăng trầm, cho đến ngày chiến thắng 1975 thống nhất quê hương.
Theo Phatgiao.org.vn


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét