Click this bar to view the full image. |
Bên trong chùa Bà Đá.
Chùa Bà Ngô còn có tên gọi là chùa Ngọc Hồ, ở số nhà 128 phố Nguyễn Khuyến, phường Văn Miếu, Hà Nội. Theo cuốn Thăng Long cổ tích khảo thì chùa được xây dựng vào thời vua Lý Thần Tông (1127 - 1128), cũng theo đó vào thời Lê, có một người con gái đẹp lấy chồng là một nhà buôn người Hoa giàu có, bà đã bỏ tiền ra xây dựng lại ngôi chùa này to đẹp hơn chùa cũ, do đó mới có tên Bà Ngô (Ngô Khách). Chùa được sửa chữa và làm mới qua nhiều năm như 1863, 1864, 1865...Thời kỳ Bảo Đại, chùa được sửa chữa lớn nên đã có câu đối (tạm dịch): "Không nhớ tháng Bà Ngô sửa chữa, Chỉ biết năm Bảo Đại khánh thành". Về kiến trúc, tam quan của chùa là gác chuông 2 tầng, 8 mái với 8 góc đao cong. Một quả chuông đồng đúc năm Canh Dần Thành Thái 2 (1887) được treo ở giữa tam quan có dòng chữ Ngọc Hồ tự chung. Phật điện gồm tiền đường và hậu cung làm theo kiểu chữ Đinh. Hiên trong tiền đường dạng vòm cuốn mở rộng bằng một vì vỏ cua, là một kiểu kiến trúc ít có ở miền Bắc mà chỉ thấy ở Hội An, Huế với 2 đầu làm theo kiểu nhà kèn. Hậu cung 4 gian có nhiều của võng. Nhà Tổ, ngoài 2 ban thờ các sư tổ Bồ Đề đạt ma, các sư tổ của chùa đã viên tịch, còn có bàn thờ đức Văn Xương.
Điện Mẫu thờ các Mẫu, Ngọc Hoàng và vua Lê Thánh Tông ngồi trong ngai rồng. Hai bên thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo cùng hai gia tướng Yết Kiêu và Dã Tượng. Tượng trong chùa hiện có 35 pho được sắp xếp dọc Phật điện. Ngoài những pho như Tam thế, A di Đà tam tôn, Quan Âm thiên thủ thiên nhãn, Ngọc Hoàng thượng đế, Nam Tào, Bắc Đẩu, còn có 10 vị Diêm Vương và tượng Bà Ngô trang phục gần như tượng Mẫu. Tượng Tổ mang nhiều nét chân dung của sư nữ... Chùa Bà Ngô được công nhận là di tích lịch sử - văn hoá năm 1993.
Chùa Bà Nành nay ở số nhà 154 phố Nguyễn Khuyến. Tương truyền nơi đây vốn là nhà của một bà bán bánh, bán chè đậu nành.
Khi về già, bà đã bỏ tất cả tiền nong tích góp xây ngay trên đất nhà mình một ngôi chùa và xuất gia tu hành. Sau khi bà mất, dân làng đắp tượng bà và đặt trên tấm đá mà bà vẫn dùng làm bàn bán hàng. Nay tượng và bàn đá đó vẫn còn. Tên chữ của chùa là “Tiên Phúc tự”.
Chùa Bà Ðá, ở số 3, phố Nhà Thờ. Lịch sử chùa được kể như sau: Ðời Lê Thánh Tông, ở làng Báo Thiên (khu vực Nhà thờ Lớn ngày nay) có người đào được một pho tượng Phật Bà bằng đá, bèn dựng một ngôi chùa nhỏ để thờ ngay tại nơi đào được tượng. Về sau, dân làng thấy linh thiêng, góp công, góp của xây thành chùa lớn, đón sư về trụ trì. Tên chữ là “Linh Quang tự”.
Chùa Bà Già, ở làng Phú Gia, phường Phú Thượng. Phú Gia, tên nôm là làng Gạ, còn gọi là thôn Bà Già. Ðây là nơi các vua đời Trần đưa một bộ phận người Chăm từ phía nam ra định cư. Theo sách Toàn thư thì Bà Già là cách gọi chệch của cái tên Ða-da-li. Nay trong chùa còn bức hoành phi cổ khắc ba chữ “Bà Già tự”, quả chuông đúc năm 1665, cao 1,46 m.
Chùa Bà Ðanh cũng là một ngôi chùa dành cho người Chăm. Theo Tây Hồ chí thì vua Lê Thánh Tông cho xây một thiền viện (vừa là chùa, vừa là nơi nghiên cứu) bên bờ nam hồ Tây cho người Chăm hành đạo, gọi là Châu Lâm.
Về sau, do người Chăm chuyển sang khu vực khác, thiền viện hoang phế nên có câu ngạn ngữ: “Vắng như chùa Bà Ðanh”. Sau đó, đồ thờ ở chùa Châu Lâm được đưa sang thờ chung với chùa Phúc Châu, nay là số nhà 199B phố Thụy Khuê, gọi chung là chùa Phúc Lâm. Hiện nay, trong chùa còn tấm bia ghi dòng chữ “Châu Lâm tự hiệu là Bà Ðanh tự”.
Chùa Bà Móc, ở số 27 phố Nguyễn Thiệp. Không rõ lai lịch của chùa. Chùa cũng không còn cổ vật, trừ tấm bia mang niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 4 nói về việc tu bổ chùa.
--------------------------------------------------------------------------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét