Thứ Tư, 22 tháng 2, 2012

Tìm hiểu thành phủ ở tỉnh Bắc Ninh qua những dấu vết còn lại

Theo các nguồn sử liệu, tỉnh Bắc Ninh trước đây có nhiều loại thành: thành là quốc đô (Luy Lâu), tỉnh thành (thành Bắc Ninh), thành phủ và lỵ sở của các huyện.


Nhiều năm qua, các kết quả nghiên cứu về thành Luy Lâu, thành Bắc Ninh mang lại nhiều kiến thức mới về thành cổ Việt Nam. Tìm hiểu cách quản lý nhà nước, hoạt động của bộ máy hành chính và hệ thống phòng thủ của nhà nước phong kiến cấp phủ, huyện cũng cần thiết phải tìm hiểu những đặc điểm của thành luỹ cấp phủ và lỵ sở ở các huyện và địa điểm được chọn để xây dựng thành luỹ và lỵ sở ở phủ, huyện của cha ông ta trước đây.

Dựa vào sách “Đại Nam nhất thống chí” và “Đồng Khánh địa dư chí”, chúng ta được biết, địa bàn tỉnh Bắc Ninh ngày nay tương đương với hai phủ Thuận Thành và phủ Từ Sơn trước đây. Từ thời Nguyễn trở về trước, cơ quan hành chính cấp phủ của hai phủ này đều đóng trong thành.

Một là thành phủ Từ Sơn: “thành đất, hình vuông, chu vi 208 trượng, mặt thành phía trên rộng 8 thước, dưới rộng 1 trượng 5 thước cao 7 thước 2 tấc (sách “Đồng Khánh…” ghi cao 7 thước, 7 tấc), xung quanh thành có hào, hào dài 261 trượng 8 thước, rộng 3 trượng 9 thước (sách “Đồng Khánh địa dư chí”: rộng 2 trượng 5 thước, sâu 6 thước), mở 3 cửa tiền, tả, hữu, đều cao 1 trượng 2 thước, ở 2 xã Phù Lưu và Xuân Thụ, huyện Đông Ngàn. Trước ở xã Vĩnh Kiều. Năm Minh Mệnh thứ 8 (1827) mới dời đến chỗ hiện nay (chỗ tiếp giáp giữa Phù Lưu và Xuân Thụ - TG). Thành đắp từ năm Minh Mệnh thứ 11 (1830). Trước đây, năm Gia Long thứ 7 (1808) dời đến xã Thạc Quả, sau đó rời đến xã Cẩm Chương” (“Đại Nam nhất thống chí”, tập IV, NXB Khoa học xã hội, H. 1971, trang 66).

Hai là Thành phủ Thuận An (tức Thuận Thành sau này): “thành đất, chu vi 271 trượng, 2 thước (sách “Đông Khánh địa dư chí” ghi “chu vi 271 trượng, 6 thước, thân thành mặt trên rộng 8 thước, dưới rộng 1 trượng 5 thước”), cao 7 thước, 2 tấc, bốn mặt đào hào, ba cửa tiền, tả, hữu xây bằng gạch, mỗi cửa rộng 1 trượng 6 thước 6 tấc, cao 1 trượng 2 thước 4 tấc, ở xã Bùi Xá, tổng Nghĩa Xá huyện Siêu Loại. Phủ lỵ cũ ở xã Dương Xá. Bản triều năm Gia Long thứ nhất (1802), dời đến địa phận hai xã Phương Quan và Trà Lâm. Năm thứ 8 (1827), dời đến chỗ hiện nay. Đắp năm Minh Mệnh thứ 9 (1828)” (Sđd, tr.66).

Dựa vào những địa chỉ mà sách “Đại Nam nhất thống chí” chỉ dẫn, chúng tôi đã lần lượt đi đến những địa điểm mà trước đây ông cha chúng ta đã góp công xây đắp, thì thấy nơi thì còn chút dấu vết, nơi thì đã thành công trình xây dựng nhà nước, nơi là nhà dân, nơi là đồng ruộng. Chỉ còn thành phủ Thuận An là còn nhiều dấu vết mà dễ thấy đó là ngôi thành cổ.

Cách đây mươi năm, chúng tôi về xã Ninh Xá huyện Thuận Thành tìm hiểu về ngôi thành này, đã lên mặt thành quan sát thì thấy thành không còn được cao như trong “Đại Nam nhất thống chí” ghi (7 thước 2 tấc). Nhiều chỗ, mặt đường thành đã bị lấy đất để đóng gạch, nên khó nhận ra hình thù thành. Trước đây, 4 mặt thành là hào sâu, nay nhiều đoạn đã bị lấp để làm nhà hoặc mở rộng ra để làm ao thả cá.

Khảo sát toàn bộ khu vực thành, chúng tôi còn được biết, đây là một ngôi thành đất, hình vuông, rộng hơn 5 ha. Bốn góc được đắp đua ra ngoài để bố trí 4 tháp canh. Con đường tỉnh lộ số 192 chạy vào chính giữa khu vực thành, cắt khu nội thành làm 2 khu bằng nhau và thông cổng tiền với cổng hậu. Toàn bộ khu nội thành trước đây, nay là khu trường tiểu học và trường trung học cơ sở, khu trạm y tế xã, trụ sở UBND xã Ninh Xá, trụ sở Hợp tác xã, khu kho lương thực và khu nhà dân. Những khu vực này mang ký hiệu trên bản đồ địa chính của xã là:

122/164; A.134/350; 136/1035; A.138/540; 175/112; 175/122; 287/112; 176/906. Mặt thành cổ, một số đoạn cũng được san thấp để sử dụng làm nhà ở như các ô mang ký hiệu: 94/3681; 97/1248; 121/168; 134/650; 276/320; 177/300; và một số đoạn hào cũ, nay được cải tạo thành ao: 95/11241; A.151/3936; A.194/5593; 193/4750.

Theo những người cao tuổi ở đây cho biết, do có thành phủ Thuận An, nên cách đây khoảng hơn 100 năm, làng mới được thành lập lấy tên là làng Phủ, trên cơ sở lấy diện tích đất của các làng: Trầu, Kinh, Dành, Chè, Thiện, Ngọc Nội. Cư dân của làng chủ yếu thuộc thành phần công chức nhà nước như: quan phủ, huấn đạo, thơ lại, lính cơ, lính lệ và vợ con họ. Nghề nghiệp của vợ con công chức chủ yếu là buôn bán.

Ngôi thành này được đắp bằng đất năm 1828. Không kể thành Bắc Ninh là tỉnh thành, thì thành phủ Thuận An là toà thành duy nhất hiện còn để lại dấu vết tương đối rõ.

Tìm hiểu cấu trúc của hai tòa thành phủ ở Bắc Ninh, chúng tôi thấy chúng có nhiều điểm giống nhau: thành đều được đắp bằng đất, đều hình vuông, đều có thành, hào bao bọc; đều mở ba cửa tiền, tả, hữu; có số đo của cửa thành, mặt thành chân thành,… gần như nhau. Nên chăng, cơ quan chức năng chỉ đạo đơn vị chuyên môn có kế hoạch bảo tồn một đoạn thành của thành phủ Thuận An để làm di tích lịch sử thì sẽ có ích cho nghiên cứu khoa học, cũng như phục vụ du lịch văn hóa.

Nguyễn Quang Kh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét