Tôi bám gấu áo mẹ đi trẩy hội chùa Hương từ thủa còn thơ, buổi ấy trong ký ức, non nước Hương Sơn hẵng còn thưa vắng và hết mực trong lành, nhưng đến nay mới có dịp sao lục và xâu chuỗi lại về miền đất Phật.
Trăm năm về trước
Để biết Chùa Hương tròn một thế kỷ trước ra sao, có lẽ không gì quý hơn bài du ký “Trẩy chùa Hương”, tác giả Thượng Chi, bút danh của học giả Phạm Quỳnh in trên Nam Phong Tạp chí số 23 tháng 5.1919 khi ông 26 tuổi, in lại trong bộ “Du ký Việt Nam”, tập III, NXB Trẻ ấn hành năm 2007.
Sưu tầm và giới thiệu bộ Du ký này, Nguyễn Hữu Sơn nhận xét: “Nhìn chung, có thể coi du ký “Trẩy chùa Hương” chính là một nhà bảo tàng du lịch bằng ngôn từ nghệ thuật, hòa quyện phẩm chất, tư thế học giả, nhà khảo cứu, bản lĩnh trí thức, nhà văn và nhà nghệ sĩ, giúp người đọc bốn phương “ngồi một chỗ mà thấy ngoài muôn dặm”, hiểu rõ hơn về một thời Hương Tích - xứ Đoài - Hà Nội”.
“Lạ thay vừa bén mùi Thiền / Mà trăm não với nghìn phiền sạch không” (Chu Mạnh Trinh).
Thượng Chi - Phạm Quỳnh viết: “Bể khổ mênh mông, bè từ trôi nổi; bến mê man mác, bờ giác tịt mù. Ở đời là khổ, làm người là lầm, dẫu đạo nào từ xưa đến nay cũng dạy như thế, chỉ khác nhau ở cái phương pháp đặt ra để giải lầm, để thoát khổ mà thôi. Nếu người ta từ lúc lọt lòng đến khi vùi dập được sung sướng trọn vẹn cả, không phải sự gì phiền muộn đau đớn, không gặp cảnh gì trái người thảm thương, thời chắc ở đời không có thần Phật, không có đền chùa, không có đạo giáo gì nữa.
Nhưng, than ôi! Cái hạnh phúc hoàn toàn không phải ở đời này, mà sự khổ não gian truân là thân phận của người ta. Đã sinh ra kiếp làm người, ai cũng phải khổ, kẻ khổ ít, người khổ nhiều, có người mang cái đau đớn ở trong lòng như con trùng độc hằng ngày nhấm gan đục óc, có kẻ đeo cái ủ dột ở ngoài mặt như cơn mây tối che ám một góc trời thu; có người khổ ngấm ngầm như ngậm cay nuốt đắng, có người khổ vỡ lở ra giọng khóc lời than; mỗi người đau một vẻ, mỗi người khổ một nỗi, nhưng ai ai cũng đã từng đau khổ cả, ai ai cũng còn phải đau khổ nhiều. Thật người ta không có cái gì giống nhau, mà duy có cái khổ là chung nhau cả.
Đã khổ tất sinh lòng cầu cứu để mong cho thoát khỏi. Nhưng cầu cứu ai cho được? Chắc không thể cầu cứu ở người đời được, vì phần nhiều, vì hết thảy sự khổ não ở đời là bởi người ta làm ra cả, bởi cái lòng độc ác của người ta tương tàn tương tặc lẫn nhau mà sinh ra cả. Nay không cầu cứu ở người được, thời cầu cứu ở ai bây giờ?
Tấm thân đau đớn này, vì kẻ đồng loại mà nên cơ cực, biết đem ký thác vào ai cho được an toàn, biết kêu oan với ai, biết than khóc với ai bây giờ? Lại những lúc sống chết xa nhau, nửa đường đứt gánh, cái thảm đã đến cực, cái khổ đã đến cùng, lúc bấy giờ muốn gào muốn thét lên một tiếng lở đất vang trời cho cam, thời ai là người nghe cho? Ai là người nghe mà thấu, mà hiểu, mà biết, mà thương cho? Ai là người nghe mà mình tin rằng có người nghe đủ khiến cho an ủi trong lòng, mát mẻ trong dạ, có cái can đảm, cái kiên nhẫn mà chịu khổ cho đến cùng?
Tất là trên loài người phải có một Đấng cao hơn hết thảy, toàn trí, toàn năng, đại từ, đại giác, để mà chứng cho cái khổ ải vô hạn ở cõi đời. Đấng ấy là ai? Là Trời, là Phật, là Thánh, là Thần, tuy danh hiệu có khác nhau, tùy tập tục của mỗi xứ, mà tính cách đâu cũng một, tức là một Đấng Đại từ Đại bi, cứu khổ cứu nạn, để những khi chán chê cuộc thế, tê tái nỗi lòng, có chỗ mà quy y cho an ổn, có nơi mà than khóc cho hả lòng.
Đấng ấy mắt trông không thấy, tai không nghe thấy, mà trong lòng mong mỏi, trong dạ khát khao, trong trí tưởng tượng, trong bụng cầu nguyền, giữa những lúc cực chẳng đã, thế không sao, lại càng bồi hồi mà tin cậy, nóng nảy mà ước ao. Đấng ấy không thể không có được, vì người đời khổ quá không có lẽ không ai biết đến; dẫu không có thật mà lòng người khẩn nguyện như vậy, trí người yêu cầu như vậy, không có cũng phải có, có trong tâm hồn, trong tưởng tượng người ta.
Thật hay hư, hư hay thật, sắc không, không sắc, biết đâu? Chỉ biết có thời tấm lòng an ủi, không thời tất dạ băn khoăn. Bởi thế nên sinh ra các tôn giáo, bởi thế nên dựng ra các đền chùa. Lấy cái tư tưởng hẹp hòi của nhiều người thời cho là những sự mê tín vô ích, nhưng cứ cái nguyên lý sâu xa trong tâm tính thời phàm sự lễ bái là chánh đáng cả, vì có cái ý nghĩa thiết tha. Chắc những khi sự lễ bái đã suy đồi mà thành ra một lối buôn bán, buôn thánh bán thần, hay là bại hoại mà thành ra những tục mê tín, mê xằng tin nhảm, thời người trí giả không thể sao dung được, nhưng bao giờ cái gốc sự lễ bái là tự cái lòng tín ngưỡng thâm thiết của loài người, thời những khi ấy phải lấy bụng cẩn trọng mà suy xét, không nên nhất thiết báng bổ, không nên nhất thiết hoài nghi cả.
Người ta có cực mới phải cầu, cầu mà đỡ cực được thời chẳng phải là một sự hay rư? Cái lòng tín ngưỡng của người ta là một mối cao thượng không nên khinh thường mà bài bác, phải nên cẩn trọng mà kính nghiêm”...
“Lòng tín ngưỡng ấy giống nào dân nào cũng có, vì cái gốc đau khổ là chung cho cả loài người. Tuy bọn thượng lưu có học thức hay khinh rẻ mà coi thường, nhưng người thường dân mộc mạc phần nhiều nhờ đó mà giữ được cái lòng hy vọng ở đời. Dân An Nam ta theo Nho học trong mấy mươi đời, mà Nho học là cái học chỉ vụ thực, Khổng Phu tử nhất sinh không biết đến thần quyền, nên cái lòng tín ngưỡng về tôn giáo của nước ta sánh với các nước khác thấp kém lắm, thật là thiếu mất một cái sức mạnh rất to trong xã hội vậy.
Nước người ta vì lòng tin đạo mà dựng nên những nhà giáo đường to lớn, những chốn tịnh xá mênh mông, nước mình trong suốt cõi được dăm ba nền chùa nát, một vài góc miếu xiêu, coi đó thời đủ biết cái “tôn giáo tâm” (le sentiment religieux) của người mình thật là lạnh nhạt vậy.
Ở những chốn thành thị phồn hoa thời sự lễ bái đã nghiễm nhiên thành một cách hối lộ vô ngần; người ta đối với thần thánh chẳng khác gì lũ dân ngu xử với bọn quan tham, tưởng cứ lễ lót nhiều là được ơn huệ to. Như vậy thời còn gì là cái lòng tín ngưỡng cao thượng nữa?”.
Phạm Quỳnh viết: “Bình sinh vốn ưa sách Phật, mến mùi Thuyền”, “muốn tìm xem có kế nào chấn hưng được tôn giáo ở nước nhà không, nên vẫn có ý muốn đi du lãm những nơi danh lam cổ sái để chiêm nghiệm cho biết chân tình”; “Ở Bắc Kỳ ta có mấy nơi trẩy lễ có tiếng, mỗi năm đến ngày vía ngày tiệc kể hàng mấy vạn con người ở thập phương kéo lại, thật là những trường thí nghiệm rất tốt cho người muốn khảo cứu về cái lòng tôn giáo trong quốc dân ta, như trẩy Phủ Giầy, trẩy Kiếp Bạc, trẩy chùa Hương.
Phủ Giầy, Kiếp Bạc cùng mấy nơi khác nữa thời tuy sự lễ bái cô thịnh mà đã biến thành những chợ buôn thần bán thánh cùng những trường luyện quỷ trừ ma, không còn gì là cái hứng vị về tôn giáo nữa. Duy có chùa Hương hòa hợp cái thú thiên nhiên một nơi phong cảnh có một trong cõi Bắc với cái nghĩa mầu nhiệm một đạo tu hành rất cao của trời Tây, là chốn cao thượng hữu tình hơn cả”.
Vậy là từ đây Phạm Quỳnh khởi hành cùng vài người bạn trẩy chùa Hương, hành trình cả thảy hết hai ngày rưỡi ba đêm: “Ước 10 giờ đêm, trời sáng trăng suông, gió hơi hiu hắt, thuyền giương buồm chạy, lên bến Đục Khê. Đêm khuya thanh vắng, sông (Đáy) rộng bờ cao, giữa khoảng trời nước long lanh, tiếng ca nhi thánh thót, giọng du tử hề hà, cũng phảng phất được ít nhiều cái thú của các bậc cao nhân danh sĩ đời xưa lấy bầu rượu túi thơ mà sánh với non xanh nước biếc”.
Ghi chép của ông cho thấy bến Đục Khê ngày ấy mới chỉ có 80 chiếc đò vừa ra vừa vào, ngày ít khách thời chở đủ mà những ngày nhiều khách, nhất là mấy ngày hội, thời quyết không sao xuể được, bởi: “Nguyên chỉ có làng sở tại đó mới có quyền chở đò suối, đón khách vào Chùa cùng đưa khách ở Chùa ra, quyền ấy tức là một cái “chuyên quyền” (monopole) không ai tranh được”.
Trên suối Yến, học giả Phạm Quỳnh đã hóa thành nghệ sĩ lúc nào không hay: “Đi đò ước chừng mất một giờ, phong cảnh thật là ngoạn mục. Hai bên núi đá, một dòng sông con chảy giữa, núi thâm thấp, nước quanh co, coi thật là như một bức tranh sơn thủy của Tàu... Núi cao quá thường làm cho người ta dợn, sông rộng quá thường làm cho người ta ghê, mà non kia nước này thật là vừa bằng cái sức người tưởng tượng, nên coi ra rất là mỹ miều khả ái...
Gần trưa tới chùa ngoài, tức chữ gọi là Thiên Trù, nghĩa là cái “Bếp trời”, là chỗ sửa soạn đồ lễ vật để vào dâng trong động. Tuy tên nhỏ mọn như thế mà nghiễm nhiên là một tòa dinh vũ nguy nga, ở giữa một cái cao nguyên, bốn bề toàn núi, trông rất là có thể thế. Cách kiến trúc tuy không có gì là khéo là đẹp, mà to lớn lực lưỡng, thực là xứng đáng với cái cảnh chung quanh, coi đủ biết là chùa thịnh phú, tịnh tài thâu nhập nhiều, sổ chi tiêu rộng lớn. Nghe đâu mỗi mùa số khách thập phương tới năm vạn người”.
Trong số các trang du ký của ông, xin lưu lại đây thêm đôi dòng: “Các đám đông ở nước mình thật là không có kỷ luật, không có trật tự gì cả, rất tạp đạp, rất hỗn độn, dầu ở nơi lễ bái kính trọng cũng kẻ đi người lại, kẻ đứng người ngồi, nói nói cười cười, kêu kêu gọi gọi, ồn ào lộn xộn, khó mà nghiệm cho được cái tâm lý những người ngẫu hợp lại đó. Lại thêm khói hương ngùn ngụt, mùi người xông ngạt, tiếng chuông, tiếng trống, tiếng mõ đinh tai, đủ khiến cho nhà khảo cứu như vào chốn mê ly, chẳng biết chỗ nào mà dò...
Lại người đi lũ lượt, kẻ ra người vào, chân bước miệng “Nam mô”, coi rất vui, cũng quên được sự mỏi mệt đi nhiều. Có lắm cụ bà mà đi son són, như ta đi ngoài phố, không ra dáng mệt nhọc gì, tin rằng đi việc lễ bái phúc đức thời Phật phù hộ cho, coi đó là đủ biết cái lòng tín ngưỡng mạnh là dường nào.
Không gì cảm động bằng chợt đến khúc đường vắng, khuất núi cao, trông thấy bà lão già tay lần tràng hạt, tay cầm gậy tre, chân đi bước một, miệng tụng “Nam mô”, tiếng vang động bên sườn núi, dưới gốc cây, nghe ai oán vô cùng, tưởng như tiếng tự trong tâm mà ra, kêu được hết cái nỗi đau khổ của loài người”…
Lược sử xưa và nay
“Hựu hà tất bồng châu doanh hải / Tiểu sơn lâm mà có đại kỳ quan...” (Thám hoa Vũ Phạm Hàm)
Trẩy hội xuân Mậu Tuất năm 2018 này, Thượng toạ Trụ trì Thích Minh Hiền gửi tặng chúng tôi cuốn tạp chí “Chùa Hương” (PL.2562 – DL.2018, NXB Hồng Đức), trong đó có rất nhiều điều thú vị của nhiều tác giả. Trong bài “Xứng tầm di tích quốc gia đặc biệt”, tác giả Lê Liêm viết: “Bà mẹ thiên nhiên đã ban tặng cho người dân Việt một tuyệt phẩm về danh lam thắng tích “Biệt chiếm nhất Nam thiên”.
Quần thể di tích lớn nhất Quốc gia này bao gồm phức hệ núi non, hang động, thảm thực vật, thủy văn, hệ động vật và hệ thống đình, đền, tự viện Phật giáo (18 ngôi chùa) nằm quanh dãy núi Hương Sơn, tọa lạc rải rác trên địa bàn các thôn Yến Vỹ, Đục Khê, Hội Xá, Tiên Mai và Phú Yên, tất cả đều phụng thờ Phật Bà Quán Thế Âm tại các điểm chính.
Theo nhà nghiên cứu Hán học Trần Huy Bá và Trương Quân thì “Hương Sơn vốn đẹp, lại được bàn tay con người tô điểm nên càng đẹp. Truyền thuyết dân gian kể rằng, cách đây 2.000 năm con người tìm ra động Hương Tích. Các ngôi chùa trong di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh quần thể Hương Sơn, ngoài việc thờ Phật theo Đại thừa Mật giáo, thờ Phật Bà Quán Thế Âm, còn có điện thờ Mẫu.
Riêng đền Cửa Võng là nơi thờ Thanh Y công chúa, tục gọi là Bà Chúa Thượng Ngàn, húy là Sơn Tinh Triều Mường công chúa Lê Mại đại vương và 12 thị nữ tiên cô là người dân tộc. Đền Ngũ Nhạc thờ thành hoàng làng. Đến TK XVII, quần thể danh thắng này xuất hiện thêm các chùa, hệ thống tượng Phật nhiều hơn.
Các bia đá “Hương Tích động Thiên Trù bi ký” lập năm Cảnh Trị thứ 05 (1667) ở vách đá động Hương Tích, bia “Thiên Trù tự bi ký” lập năm Chính Hòa thứ 7 (1686)... cho thấy sự ghi chép tu sửa, tôn tạo, tạc tượng, đúc chuông và văn thơ đề vịnh với chùa Hương suốt từ thời Lê đến thời Nguyễn.
Tính đến nay, hệ thống Minh chung, Bi ký, Văn học - Thi ca - Âm nhạc, Điêu khắc mỹ thuật Phật giáo... có số lượng nhiều vô kể. Nổi bật nhất trong quần thể danh thắng này là phức hệ núi non kỳ vĩ, điệp điệp trùng trùng, với các dải thạch nhũ muôn hình vạn trạng. Tô điểm thêm là thảm thực vật, hệ thống thủy văn và môi sinh phong phú, tôn lên vẻ trang hoàng lộng lẫy cho Hương Tích Tùng Lâm – Tổ đình của Tông môn, đúng như câu đối đề tại Tổ đường: “Tổ Đạo bất tùy thương hải biến/ Sơn môn vĩnh trấn nhất Nam thiên”.
Theo các thư tịch cổ, vua Lê Thánh Tông đi tuần thú qua vùng núi rừng Hương Sơn lần thứ 2 vào tháng Giêng năm Đinh Hợi, niên hiệu Quang Thuận thứ 8 (1467), người đã đóng quân ở thung lũng này và cho binh lính thổi cơm ăn. Vua xem thiên văn thấy vùng núi này lâm vào địa phận của sao Thiên Trù (một sao chủ về sự ăn uống và biến động), nên nhân đấy đặt tên. Sau đó, Tổ Viên Quang Chân nhân chống gậy thiền vượt suối trèo non cùng cư dân vào xây dựng thảo am thờ Phật, khai sáng thiền môn Thiên Trù tự.
Sau thời kỳ ba vị hòa thượng khai sáng, chùa Hương gián đoạn trụ trì ngót một trăm năm. Mãi tới niên hiệu Chính Hòa năm thứ 7 (1686) thời vua Lê Trung Hưng, Hòa thượng Trần Đạo Viên Quang (tương truyền cũng là một vị quan chức trong triều đình đã treo ấn từ quan để đi tu) mới lại tiếp tục công việc tạo dựng.
Đến thế kỷ 18, trong chuyến tuần du của chúa Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm vào năm Canh Dần 1770, ông đã khắc 5 chữ “Nam thiên đệ nhất động” – nghĩa là động đẹp nhất trời Nam vào cửa động Hương Tích và lưu lại một số minh văn bia ký. Rồi kể từ đó, quá trình xây dựng chùa Hương được liên tục qua rất nhiều đời chư Tổ.
Đến đời trụ trì của Đại Sư Thanh Tích, công việc xây dựng kiến thiết Thiên Trù vẫn được tiếp tục, để rồi đến năm 1942 nơi đây như một tòa lâu đài nguy nga tráng lệ “Biệt chiếm nhất Nam thiên”. Nhưng đáng tiếc thay vào ngày 11 tháng 2 năm Đinh Hợi - 1947, thực dân Pháp đã vào đây đốt phá, biến Thiên Trù thành đống gạch vụn tro tàn.
Đến năm 1948, giặc lại vào đốt phá một lần nữa, rồi năm 1950 chúng lại cho máy bay thả bom khiến cho cao chất ngất mấy tòa cổ sái của Thiên Trù bị san phẳng. Dấu vết xưa của Thiên Trù hiện nay chỉ còn lại vườn Tháp, trong đó có Bảo Tháp Viên Công, một công trình nghệ thuật đất nung của thế kỷ 17 và cây Thiên Thủy Tháp.
Năm 1951, cố Hòa thượng Thanh Chân đã cho dựng lên từ đống tro tàn đổ nát 6 gian nhà tranh để có nơi tu hành và nhang khói. Vào mùa xuân năm 1989, cố Hoà thượng trụ trì Thích Viên Thành, Ban xây dựng chùa Hương đã khởi công tái thiết lại chùa Thiên Trù, đến năm 1991 thì khánh thành.
Năm 1994, cổng Nam Thiên Môn cũng được hoàn thành, đứng sừng sững giữa núi rừng Hương Sơn. Những năm sau này - từ 2002 đến nay - Thượng tọa Thích Minh Hiền kế đăng trụ trì, tiếp tục mở mang kiến thiết thêm nhiều công trình mới, chẳng hạn như “Triều Sơn Lộ” – con đường lát đá rộng rãi, từ Bến Trò lên Thiên Trù thuận tiện cho hàng vạn du khách hành hương mà không lo tắc đường.
Đồng thời, chư Tăng đệ tử của Thầy đã tốn nhiều tâm sức tìm tòi tại các thư viện và các trung tâm lưu trữ dữ liệu tại Pháp và Việt Nam và vừa qua đã tìm thấy nhiều ảnh tư liệu lịch sử về chùa Hương trước khi bị người Pháp tàn phá trong chiến tranh. Đây là một sự kiện đại hy hữu, bởi sau bao nhiêu năm đằng đẵng Thượng tọa Thích Minh Hiền đi tìm trong ký ức muôn nhà, như đứa con thơ lưu lạc đi tìm nguồn cội, đến giờ mới thấy.
Số ảnh tư liệu này chủ yếu do người Pháp chụp từ tháng 3.1927 đến năm 1955 tại quần thể danh lam thắng cảnh cổ tự Hương Tích. Đây là những tư liệu rất quý, lưu lại kiến trúc của quần thể chùa Hương, khách hành hương lễ Phật... có giá trị lịch sử hết sức to lớn.
Chiêm ngưỡng bộ ảnh xưa, ta thấy suối Yến xưa cũng không khác mấy so với suối Yến ngày nay, nhưng thuyền đò chở khách du xuân thưa thớt hơn và suối Yến có vẻ hoang vắng. Chẳng bù cho ngày nay, với gần 5.000 con đò chở khách, từ trên cao nhìn xuống đò còn nhiều hơn cả lá tre.
Tâm điểm của khu danh lam thắng tích Phật giáo Hương Sơn là động Hương Tích. Theo Phật thoại thì đây là nơi tu hành và đắc đạo của Phật bà Quán Âm Diệu Thiện. Phật Bà là con gái thứ ba của vua Trang Vương, nước Hưng Lâm.
Lớn lên, hai cô chị của chúa Ba lập gia đình, ngán nỗi toàn gặp phải những chàng phò mã ham chơi. Vua ép chúa Ba lấy chồng, những mong kén được người tài cho nối ngôi. Chúa Ba không tuân lời, nhất định xin đi tu để cứu gia đình và chúng sinh thoát khỏi tai ách. Trang Vương nổi giận sai đốt chùa, sát hại chúa Ba.
Ngọc hoàng bèn sai thần núi hóa thành chúa sơn lâm nhảy xuống cứu nạn chúa Ba. Thần hổ cõng chúa Ba về núi Hương Sơn, để bà tu hành ở am Phật Tích. Chúa Ba đắc đạo hóa thành Phật Bà ngàn mắt ngàn tay.
Nơi đâu chúng sanh mắc nạn, Quan Âm Diệu Thiện ở chùa Hương Tích cũng nhìn thấy, vươn tay ra để cứu độ. Từ đó hàng năm du khách thập phương hành hương đến Hương Tích để chiêm bái đức Quán Âm. Thưởng lãm những bức ảnh đen trắng chụp động Hương Tích và đường lên cổng động cách đây hơn 60 năm, thấy quang cảnh thiên nhiên giống hệt như ngày nay.
Chỉ có khác là những năm trước đây, đoạn đường vào cổng động Hương Tích vô cùng chật hẹp, suốt những ngày mùa lễ hội luôn xảy ra ách tắc bởi dòng người quá tải. Đường đá cheo leo trên vách núi nguy cơ có thể sụt lở bất cứ lúc nào. Bởi vậy Thượng tọa Thích Minh Hiền đã thiết kế, tổ chức xây dựng một đường cầu cạn vĩnh cửu trước cửa động Hương Tích để nhân dân vào lễ Phật, đặt tên là Quán Âm Kiều, hoàn thành vào năm 2009. Đây là một đường cầu cạn dài tới 108m, nhưng không có các mố cầu mà được đỡ bằng các dầm cầu được xây dựng trổ ra từ một bên vách núi.
Từ xưa, các vị Tổ sư đã tổ chức Khánh đản đức Phật chủ chùa Hương Quán Thế Âm Bồ Tát vào ngày 19.2 âm lịch. Ngày nay, cứ từ 11h đêm 18.2 đến 1h sáng 19.2 âm lịch, hàng nghìn ngọn nến được thắp lên trong động Hương Tích trong lễ “Ngũ Bách Danh” (niệm 500 danh hiệu đức Quán Âm) với hàng nghìn Tăng Ni và Phật tử tham dự.
Lòng động Hương Tích bao la, ôm chứa hàng ngàn Phật tử. Dòng người ngồi tụng niệm cứ nối nhau kéo dài ra mãi. Những người không vào được động thì ngồi xuống tụng niệm ở Quán Âm Kiều. Những tiếng niệm Phật, tụng kinh hòa âm vào nhau tạo thành bản giao hưởng khổng lồ cơ hồ có thể lay động cả vũ trụ.
Trong động Hương Tích xưa còn tọa lạc những pho tượng quý như thấy ngày nay, trong đó nổi tiếng nhất là pho Phật Bà Quan Âm toạ sơn bằng đá xanh an vị chính giữa tòa Tam bảo, tượng do gia đình võ quan Nguyễn Huy Nhật tạc vào thời Tây Sơn năm Cảnh Thịnh thứ 02 (1793) để cúng dàng công đức.
Thưởng lãm ảnh để thấy động Hương Tích vẫn ngàn năm muôn vẻ cũ, chỉ dòng người đến lễ Phật là ngày càng đông đúc thêm lên nhưng lòng thành kính tín tâm thì không đổi khác. Đúng như câu thơ xưa: “Tượng đá trong hang mãi chẳng già/ Trăm năm rung động nét tài hoa/ Mắt người chưa thấy dung nhan Phật/ Mà tự tay người Phật hiện ra”.
Hà thành, xuân Mậu Tuất
Theo cố Hòa thượng Thích Viên Thành, quần thể thắng cảnh chùa Hương bao gồm 18 đền, chùa, hang động, nếu có đủ thời gian phải đi ba ngày mới hết. Phật thoại truyền rằng, công chúa Diệu Thiện đã tu hành 9 năm và thành đạo quả ở động này nên đặt tên là động Hương Tích (dấu vết thơm hương).
Theo TS Khổng Đức Thiêm, Tổ Thích Thanh Quyết sinh năm 1844 tại Hà Nam, hiệu Đôn Mẫn, trụ trì tại chùa Hương Tích (Động chủ Hương Sơn đời thứ 08), từng là thủ lĩnh trong cuộc khởi nghĩa chống Pháp do Đề Yêm tổ chức, hoạt động mạnh ở vùng Kim Bảng (Hà Nam), Mỹ Đức (Hà Đông). Sau khi phong trào bị tan rã, Tổ cùng một số thủ hạ tìm đường lên Yên Thế theo Đề Thám... Khoảng năm 1907, Tổ trở lại Hương Sơn. Theo bi ký được khắc trên tấm bia bốn mặt khổ lớn hiện còn tại chùa Thiên Trù do Tú tài Trần Văn Độ phụng soạn vào tháng 11.1929 thì vào năm 1908, dù còn đau yếu nhưng Tổ đã bắt tay ngay vào việc khởi công xây dựng lại chùa, cho tạc tượng và chế tác đồ thờ, san nền gọt đất, lấp hố khai quang để tiện đường kiến thiết. Mọi nhà cửa, điện thờ, trai phòng, khách xá đều được xây bằng gạch ngói thay thế nhà tranh lụp xụp. Nhờ vậy Thiên Trù ngày một trang nghiêm tú lệ. Thuận theo lẽ vô thường, ngày 31.8.1912, ngài an nhiên thị tịch, tăng ni Phật tử và dân chúng Hà Đông đã xưng tụng ngài là bậc Tăng trung hào kiệt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét