hùa Diệu Đế là một trong ba ngôi quốc tự dưới triều Nguyễn còn lại trên đất Huế. Trên trần chính điện ngôi chùa còn có bức tranh 9 con rồng ẩn hiện trong mây lớn nhất Việt Nam.
Phía Đông kinh thành Huế, có một khu vườn rất đẹp. Năm Đinh Mão (1807), trong căn nhà giữa khu vườn, Hoàng tử Miên Tông, con vua Minh Mạng ra đời. Sau này lên ngôi lấy niên hiệu là Thiệu Trị.
Năm 1844 nhà vua cho xây dựng lại nơi ở của mình thành một ngôi chùa và đặt tên là Diệu Đế Tự, sắc phong làm Quốc tự. Chùa Diệu Đế cảnh quan rất đẹp, vườn tược rộng rãi, cây cối xanh tươi. Chùa toạ lạc bên bờ sông Hộ Thành (người Huế gọi là sông Gia Hội, sông Đông Ba, nay là số 100B đường Bạch Đằng, gần cầu Gia Hội).
Khuôn viên chùa nằm gọn giữa bốn con đường: phía trước là đường Bạch Ðằng chạy dọc theo một nhánh sông Hương, phía sau là đường Tô Hiến Thành gần chùa Diệu Hỷ, bên trái là con đường mang tên chùa Diệu Đế và bên phải là đường chùa Ông. Chùa trở thành một danh lam của đất kinh đô Huế.
Kiến trúc ban đầu của chùa rất qui mô, có vẻ độc đáo rất riêng. Chùa có bốn lầu (hai lầu chuông, một lầu trống và một lầu bia). Chính điện là đại giác, tả hữu chính điện là Thiền Đường, phía trước điện dựng gác Ðạo Nguyên hai tầng ba gian, sau gác Ðạo Nguyên có hai lầu chuông trống xây cân đối ở hai bên, chính giữa là lầu Hộ Pháp, sân trong có La Thành, sân trước có hai nhà lục giác, nhà bên tả đặt hồng chung, nhà bên hữu dựng bia lớn khắc bài văn do vua Thiệu Trị soạn.
Chính giữa điện thờ là tượng Phật sắc vàng cháy của nước vàng thếp ngày xưa còn lại. Và có một pho tượng của ngài A-Nan, một tượng của ngài Ca-Diếp, và đặc biệt là pho tượng Chuẩn Đề có nhiều tay rất mỹ thuật. Tượng Quan Âm nghìn tay nghìn mắt, nghìn tay bằng đồng tượng trưng cho Phật pháp và thần lực của nhà Phật cứu độ chúng sinh được đặt trước gian thờ. Phía sau sát vách điện có án thờ Thần vị của vua. Thần vị này được sơn son thiếp vàng và chạm hình rồng cuộn quanh mặt trăng. Bên cạnh là di ảnh và nơi thờ những người từng trú ngụ và qua đời tại cổ tự này. Bức hoành “Diệu Đế Quốc Tự” của chùa bằng chữ Hán được sơn son thiếp vàng làm năm Thiệu Trị thứ 4 và có sơn sửa lại dưới triều vua Bảo Đại.
Chùa Diệu Đế còn có Bức tranh “Long vân khế hội” hay “Cửu Long ẩn vân” do họa sĩ Phan Văn Tánh, dưới triều Nguyễn vẽ hình 9 con rồng vờn trong mây trên trần và 4 cột giữa chính điện. Bức họa này từng được Trung tâm sách Kỷ lục Việt Nam công nhận là bức tranh trần lớn nhất Việt Nam vào 3/2008. Mỗi con rồng một vẻ, tất cả đều oai phong lẫm liệt toát lên cái thần của con vật linh thiêng.
Hệ thống La Thành ngoài chùa Diệu Ðế xây dựng kiên cố, bề thế, trước có Phượng Môn ba cửa, hai bên có cổng nhỏ, ngoài bờ sông có xây bến thuyền khoảng mười bậc lên xuống. Trước đây, chùa Diệu Ðế có nhiều tượng Phật do được chuyển từ chùa Giác Hoàng, sau sự kiện Kinh đô thất thủ (1885). Cuối năm này, chính phủ Nam Triều đặt sở Đúc Tiền ở Cát Tường Từ Thất, phủ đường Thừa Thiên ở Trí Tuệ Tịnh Xá và một tăng phòng làm nhà lao của tỉnh, một tăng phòng làm trụ sở cho Khâm Thiên Giám. Năm 1887 phần lớn các ngôi nhà trong chùa đều bị triệt hạ… về sau, ngoài cổng La Thành xây thêm bốn trụ biểu.
Hiện nay, chùa chỉ còn chính điện, hai bên chính điện đặt Bát Bộ Kim Cang, phía sau có một nhà khách, một bếp. Sân ngoài có nhà bia, nhà chuông, ngoài cùng là cổng Tam Quan hai tầng, phía trên có lầu Hộ Pháp.
Chùa Diệu Đế có một vị trí quan trọng trong lịch sử Phật Giáo ở Huế. Ngày rằm tháng tư hàng năm, chùa Diệu Đế là điểm bắt đầu của lễ rước Phật đản. Lễ rước và tắm phật được thực hiện theo nghi thức cung đình có từ thời của đức Từ Cung (mẹ vua Bảo Đại).
Được biết hiện tại có nhiều tranh cãi xoay quanh việc xây dựng lại mới hoàn toàn chính điện, không giữ lại chính điện cũ. Có người cho rằng ứng xử như vậy là có lỗi với tiền nhân, với nhân dân kinh thành Huế vì đã trải qua 174 năm tồn tại, nơi đây không những là di tích lịch sử văn hóa Mỹ thuật mà còn là chỗ dựa cho phật tử, người dân kinh thành.
Đăng lại có chỉnh sửa từ Facebook Thành Cao Mpa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét