Thứ Bảy, 21 tháng 5, 2016

Quan niệm ăn chay của đồng bào đạo giáo Nam bộ

Nguyễn Hữu Hiệp 

(Dân Việt) Quan niệm về ăn chay mỗi đạo khác, không chỉ khác ngày, giờ mà còn khác cả cách ăn, thức ăn. Những điều cần tránh hoặc nên làm khi ăn cũng thế.

  
Nhưng chung nhất, ăn chay là dịp để thực hành lời khuyên dạy của "đạo trời" về ăn hiền ở lành; tiết chế sự đòi hỏi thái hóa của thân xác.

Những người theo đạo Phật, hạng xuất gia (nhà sư, ni cô), do phải chấp nhận cuộc sống kham khổ nên trong việc ăn uống, họ tuyệt đối không dùng “đồ mặn”, cũng cự tuyệt các loại rượu. Còn người tu tại gia (phật tử bình thường) thì “tự do”, hoặc tự nguyện ăn chay một số ngày nhất định. Thường thì họ ăn chay:

- 2 ngày, tức Nhị chay: mỗi tháng ăn chay các ngày mùng 1 và ngày Rằm.

- 4 ngày, tức Tứ chay: mỗi tháng ăn chay các ngày mùng 1, 8, Rằm, và 23.

- 6 ngày, tức Lục chay: mỗi tháng ăn chay các ngày mùng 1, 8, 14, Rằm, 23, 29 nếu tháng thiếu, 30 nếu tháng đủ.

- 10 ngày, tức Thập chay: mỗi tháng ăn chay các ngày mùng 1, 8, 14, Rằm, 18, 23, 24, 28, 29, 30 (nếu tháng thiếu ăn chay từ ngày 27, 28 và 29).

- 1 tháng, tức Nhứt nguyệt chay: mỗi năm ăn chay trọn 1 tháng Giêng hoặc tháng 7, bởi vì trong tháng Giêng có ngày Rằm tức lễ Thượng ngươn (nguyên) đầu năm, tháng 7 có ngày rằm lễ Vu Lan.

- 3 tháng, tức tam nguyệt chay: ăn chay trường liên tục 3 tháng Giêng, 7 và 10, bởi vì 3 tháng này có 3 ngày Rằm lớn Thượng ngươn, Trung ngươn và Hạ ngươn.

- Trường chay là người thọ chay liên tục, cũng như người xuất gia suốt đời, nhưng mỗi ngày ăn 2 bữa chứ không ăn Ngọ như các sư.
Các thức món trong bữa ăn chay.
Các thức món trong bữa ăn chay.
Vào những ngày ăn chay họ không dùng thịt, cá, trứng, kể cả nước mắm, mà chỉ dùng các loại rau quả (sống hoặc luộc, kho…), đắc dụng nhất là những món được chế biến từ đậu nành (tương, chao, tàu hủ…).

Bữa ăn chay của bà con theo đạo Phật (nhất là những người xuất gia) họ ít khi dùng các vị cay nồng (như ớt, tiêu, hành, tỏi…) vì cho rằng đó là những chất kích thích, có thể do chúng mà không “dằn” được dục tính. Chung nhất là đạm bạc. 

Tuy nhiên nếu có khách quý hoặc lễ tiệc, đôi khi họ cũng vẽ viên, cầu kỳ, nào “mắm lóc”, “thịt kho”, nào “gà rôti”, “sườn nướng”…, vừa khéo vừa ngon – nếu không được biết trước, có thể người dùng sẽ hơi bị lầm là món mặn.

Trong khi đó, những người tu theo phái tiểu thừa (tuyệt đại đa số là đồng bào Khơ me Nam Bộ) có phần thoáng hơn. Các vị sư sãi cũng thế. Bà con cúng dường món chi, dầu chay hay mặn đều trân trọng chứ không câu chấp, bởi đó là tấm lòng của thí chủ. 

Tất nhiên họ không xúi giục hay gợi ý người khác giết hại sanh vật để làm món ăn cho mình, vì sát sanh là một trong những giới luật của nhà chùa. Các sư độ Ngọ từ 11 - 12 giờ trưa, Cúng dường trong nghi thức cúng Ngọ...
Bà con theo đạo xá đũa trước và sau khi ăn.
Bà con theo đạo xá đũa trước và sau khi ăn.
Đặc biệt, bà con Phật tử Nam tông (tu tâm tại gia) khoảng từ 40 tuổi trở lên mỗi tháng nhịn ăn 4 bữa chiều vào các ngày mùng 8, Rằm, 22 và 30. Sáng đi chùa, chiều nhịn – tùy theo cái tâm của mình. Đó là những người lớn tuổi, tâm đạo, chứ không phải mọi người đều như thế.

Đối với Phật giáo Đại thừa, nếu thường ngày các sư chỉ “độ” một bữa ăn (chính) vào lúc giữa trưa, gọi “ăn cơm Ngọ” thì những người xuất gia theo phái Tiểu thừa không dùng bữa ngày hai lần: sáng sớm và trưa – từ 12 giờ trở đi chỉ uống chứ không ăn (tức không đưa vào miệng những món phải “nhai”).

Những người theo đạo Cao Đài thì “mở” hơn. Vào những ngày “trai kỳ” họ vẫn ăn những vật “không có máu” như trứng, tôm, cua, ốc… Các bà nội trợ tỏ ra khá khéo tay, nhất là có biệt tài trong việc chế biến các món “giả mặn”. Theo Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (Toà Thánh Tây Ninh) thì:

Nhập môn rồi phải tập trai giới, ban đầu ít nữa phải giữ Lục trai, lần lần tập đến Thập trai, nhưng trường trai được lại càng tốt.

Lục trai: Là ăn chay ngày 1, 8, 14, 15, 23 và 30 (tháng thiếu thì ăn ngày 29 thế cho ngày 30).

Thập trai: Là ăn chay ngày 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30 (tháng thiếu ăn thêm ngày 27).

Vị nào giữ được Thập trai trở lên thì sau khi qui liễu, được Hội Thánh đến làm phép xác, y như lời tiên tri: “Ai giữ trai kỳ từ 10 ngày sắp lên, được thọ truyền Bửu pháp”. Đến bữa ăn, họ đọc Kinh vào ăn cơm (giọng Nam Xuân). 
Các sư sãi độ Ngọ - không dùng đũa.
Các sư sãi độ Ngọ - không dùng đũa.
Đồng bào Công giáo thì ăn chay ít nhất mỗi năm hai lần vào ngày thứ tư “Lễ Tro” (tháng Hai) và thứ sáu “tuần Thánh” (tháng Ba) – “mùa chay” từ tháng Hai đến tháng Tư dương lịch, nhằm chuẩn bị lễ Phục sinh. Nếu muốn ăn chay nhiều hơn thì ăn mỗi tuần vào ngày thứ sáu để tự hãm mình. 

Ngày ăn chay, người theo Công giáo nhịn ăn và nhịn uống (ngoài nước lã) từ sáng sớm đến 11 giờ. Từ 11 giờ trở đi, được ăn no song phải cử thịt mỡ; chỉ được ăn một lần rồi nhịn cho tới 18 giờ, nhưng ăn ít hơn bình thường (lưng lửng), cho tới hai mươi bốn giờ là mãn ngày ăn chay.

Bà con theo Phật Giáo Hòa Hảo (toàn thể đều thuộc hạng tại gia cư sĩ) nên việc ăn uống, luật đạo “không ép ai ăn chay cũng chẳng xúi ai ăn mặn”, tuy nhiên cũng có “phép” định về việc “ăn chay kỳ: “Chay bốn bữa là quy tắc”. Song cũng có người “vượt rào”, ăn sáu bữa (ngày), thậm chí “ăn chay trường” để nhằm tránh sát sanh – thể hiện lòng nhơn của mình. 

Theo đó, về ăn chay: “Ăn chay ngày 14, 15, 29, 30 – tháng thiếu 29 và mồng một (…). Hằng năm đến ba ngày xuân nhựt thì ngày 29, 30 và mồng một phải ăn chay, trong mấy ngày ăn chay phải cúng chay, qua đến ngày mồng hai có chi cúng nấy cũng được, đến ngày mồng ba ra mắt không nên sát sanh loài vật mà cúng tế Trời Phật, chỉ dùng bông hoa mà cúng thôi”. Các thức món trong bữa chay cũng giống như người theo đạo Phật.
Ăn cơm chay với bà con người Khơ me.
Ăn cơm chay với bà con người Khơ me.
Nếu người tín đồ Cao Đài trước và sau khi ăn cơm đều có đọc kinh, thì cũng tương tự như thế bà con đạo Phật Giáo Hòa Hảo trước và sau khi dùng bữa đều không quên thủ tục “cúng nhanh” gọi “xá đũa”: Trước khi ăn, họ chấp hai bàn tay trước ngực, đôi đũa được kẹp giữa hai ngón trỏ và hai ngón cái; hoặc gác đôi đũa ngang trên miệng chén cơm rồi hai tay bưng cả chén và đũa đưa lên trán khấn vái (thầm).

Nội dung lời khấn vái là sự thể hiện lòng biết ơn ông bà, tiền nhân – những người nông dân lớp trước đã bỏ ra biết bao công lao khó nhọc khai phá, gieo trồng và truyền dạy, nhờ đó mà ngày nay mới có được “hạt ngọc” để ăn, áo lành để mặc. 

Họ cũng không quên thỉnh mời ông bà, tổ tiên, “đất đai viên trạch” về dùng cơm và cầu xin các vị phù hộ độ trì mọi người trong gia đình được mạnh giỏi, làm ăn mau khá. Xong (đặt chén cơm xuống xá nhẹ rồi ngồi yên, lim dim “tưởng” vào cõi xa xăm chừng vài mươi giây thì xem như đã thực hành xong “nghi lễ”, lúc này mọi người mới thực sự dùng bữa.

Ăn xong, họ cũng “xá đũa” để một lần nữa cảm ân tiền nhân đã làm ra hạt gạo – “dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần!”. Giáo lý không buộc khi ăn phải làm như thế, nhưng một bộ phận tín đồ – đa phần là những người lớn tuổi – đều thực hiện để nhằm thiết thực thể hiện đạo lý “Ăn trái nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước nhớ nguồn” – truyền thống tốt đẹp tự ngàn đời của dân tộc.

Bà con theo đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, đều là cư sĩ tại gia, nên cũng ăn chay như tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo. Đặc biệt, trong bữa ăn hàng ngày mọi người đều cữ kỹ 12 con giáp (“thập nhị chi”) tức không ăn thịt các con: chuột, trâu, cọp, mèo, rồng (!), rắn, ngựa, dê, khỉ, gà, chó, heo, vì cho rằng đó là những con vật “cầm tinh”, ăn nó chẳng khác nào ăn thịt người! Chính vì vậy mà việc ăn uống của bà con khá đơn điệu, gần như chỉ toàn tôm cá (thuỷ hải sản). Đặc biệt, trong mâm cơm cúng Ông bà, hầu như không bao giờ thiếu món “xôi xéo” (xôi nếp có nhưn đậu xanh). 

Cộng đồng người Chăm Hồi giáo thì ăn chay suốt một tháng. Nếu người Chăm ở miền ngoài hiểu Ramadan là tháng ăn chay với đặc điểm là kiêng ăn thịt các loài vật như trâu, heo, gà, vịt… (nhưng vẫn dùng bữa với các loài tôm, cua, cá…) và sự ăn uống diễn ra bình thường như mọi ngày thì, đồng bào Chăm Hồi giáo ở An Giang lại hiểu Ramadan là tháng bắt buộc “nhịn ăn” (nhịn cả uống, hút và quan hệ tình dục), nhưng chỉ nhịn vào ban ngày, còn đêm thì được ăn hai bữa: sụp tối và sắp sáng.

Tất nhiên không ăn thịt heo, vì theo họ, heo là con vật bẩn thiểu nhất trần gian! Nếu lỡ ăn phải thịt heo họ sẽ cảm thấy bị lợm giọng và có thể bị nôn mửa. Đứng về góc độ tôn giáo, người nào ăn thịt heo sẽ bị xem là thuộc loại “ha-răm”, tức bị coi như không còn là tín đồ Hồi giáo nữa. 

Ngay đến gia súc như dê, cừu, gà, vịt… khi cần giết thịt, bà con đặt con vật quay đầu về hướng Tây (Thánh địa La Mecque) và đọc từ 3 đến 7 lần câu kinh Tak – bir :“Bismil – lahil Allahu Akbar” để xác định rằng Thượng đế cho phép cắt cổ súc vật dùng làm thực phẩm cho loài người.

Nếu được mời dự tiệc hay ăn cơm tiệm, họ chỉ ăn khi biết chắc rằng những con vật ấy đã được giết đúng “thủ tục” như vừa nói. Trái lại, họ chỉ dùng những món được chế biến từ thuỷ sản.

Ngày cuối tháng Ramadan, cộng đồng người Chăm Hồi giáo hân hoan bước vào ngày hội “Rona Pittak” (mãn chay – mọi người mở tiệc, cùng nhau ăn uống thoải mái).

Thế là sau suốt một tháng khép mình theo luật đạo, tự tiết chế để “di dưỡng tinh thần”, bà con được phép trở lại trạng thái sinh hoạt bình thường ngay khi trời vừa sụp tối của ngày ấy.
Về “nhâm nhi”, nếu người theo Thiên Chúa giáo tỏ ra, rất bình thường đối với các loại rượu thì những vị chức sắc đạo Phật (xuất gia) cử triệt để, nhưng với phật tử (tại gia) thì tuỳ. 

Còn bà con tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, theo giáo lý “phải cử tuyệt; nhưng khi có tiệc lễ với người ngoài và không phải nhằm ngày chay lạt, có thể dùng một đôi chút rượu thật nhẹ để đừng có tỏ sự chia rẽ với kẻ ngoại Đạo. Nếu say sưa sẽ phải tội lỗi”.

Bà con theo Hồi giáo (người Chăm) tuyệt đối không ngó tới rượu và các thứ có chất men gây say. Tuy nhiên có người cho rằng nếu vì đau yếu bắt buộc phải dùng rượu thuốc để chữa trị, và nhờ nó mà thực sự khỏi bệnh thì không có tội. Trái lại, khi đã dùng mà bệnh vẫn không thuyên giảm, tất nhiên là … có tội (!). Thành thử khi muốn dùng phải cân nhắc thận trọng. Để “thủ”, bà con không bao giờ nghĩ tới cái “món của quỉ” này.

Trở lên, chỉ ghi nhận đại nét về việc ăn chay, và cũng chỉ kể tả đôi nét về sự kiêng cữ, hoặc nên làm trong ăn uống đối với đồng bào có đạo ở Nam Bộ. Đặc điểm cơ bản là vậy, song thực tế dường như nó chỉ được thi hành một cách nghiêm chính đối với những người ngoan đạo mà thôi. 

Cách ăn chay của người miền Tây Nam Bộ

authorÚt Tẻo 

(Dân Việt) Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam hay còn gọi là vùng đồng bằng Nam Bộ hoặc miền Tây Nam Bộ. Đây là một bộ phận của châu thổ sông Mêkông có diện tích khoảng 40.000 km2, với trên 17 triệu người dân cư ngụ.

   
Nơi đây, điển hình nhất là bốn dân tộc chính: Việt – Hoa – Khmer và Chăm cư ngụ. Trong đó, người Việt, người Hoa phần lớn theo Phật giáo Đại thừa Bắc Tông, người Khmer theo Phật giáo Tiểu thừa Nam Tông, còn người Chăm theo đạo Hồi.
Tàu hũ - món ít khi thiếu khi ăn chay
Tàu hũ - món ít khi thiếu khi ăn chay.

Ngoài những tín ngưỡng chính thống, người dân lao động miền Tây Nam Bộ còn thực hiện những nghi thức sinh hoạt văn hóa tinh thần đậm chất dân gian. Một trong những biểu hiện đó là ăn chay, ăn lạt.
1. Dân gian miền Tây Nam Bộ gọi ăn chay là ăn lạt, người ăn chay thường chỉ ăn thực vật như: lúa, bắp, khoai, đậu, rau, trái cây, không ăn thịt động vật từ tôm cá đến heo, gà, ...
Thực tế, khái niệm này cũng phức tạp bởi các hình thức thể hiện của nó. Bởi:
Một là, ăn chay là ăn những thứ ăn không qua chế biến. Có người ăn chay chỉ ăn toàn trái cây chín. Có người lại vừa ăn trái cây chín, vừa ăn những rau đậu nào mà xưa nay con người dùng ăn sống như rau má, dưa leo, cải bẹ, …
Hai dạng thức này không ăn thức ăn qua chế biến trên lửa vì họ quan niệm rằng đã nấu nướng thì không còn hạp với lẽ tự nhiên, hơn nữa nấu nướng làm cho cây trái giảm bớt tinh chất vốn có của nó.
Cà nướng
Cà nướng.

Hai là, ăn những loại thực vật kể cả còn tươi nguyên hay đã qua chế biến như xào, nấu, nướng, … Đến đây, lại có người giữ chính chắn không dùng ngũ tân. Ngũ vị tân là năm món gia vị có mùi cay nồng gồm: Hành (cách thông) hẹ (từ thông), tỏi (đại toán), kiệu (lan thông) và hưng cừ, tên khoa học là Allium fistulosum, là loại gia vị có hình dáng và mùi vị tương tự củ nén không có ở Trung Quốc và Việt Nam (Theo Từ điển Phật học Hán – Việt, Nxb Khoa học Xã hội, 2003, tr. 806).
Lý do người ăn chay không nên ăn, vì đặc tính của những thứ này chứa nhiều tố chất kích thích và mùi vị cay nồng, ăn nhiều, thân thể có mùi hôi, nóng nảy và bị kích dục.
Theo Kinh Lăng Nghiêm, quyển 8, Phật dạy: Các chúng sinh cầu Thiền định (Samadhi) không nên ăn năm món cay nồng của thế gian. Vì năm món cay nồng đó nếu ăn chín thì phát dâm, ăn sống thì sinh nóng giận. Người nào ăn năm món cay nồng ấy thì dẫu có tài giảng thuyết mười hai bộ kinh, chư Thiên mười phương đều chê bai hôi thúi và xa lánh...
Tuy vậy, cũng có người không kiêng kị các vị này.
Ba là, ăn thảo mộc cùng với những thứ không máu như mật ong, sữa bò, thậm chí cả tôm, tép, nghêu, vọp, đuông,… (dân gian cho rằng đây là những thứ không có máu, dù thực tế thì những loài sinh vật này có máu màu trắng, xanh, …). Xét cho cùng thì cách ăn này đã “vượt luật” Phật giáo, vì giáo lí cho rằng hễ động vật nào, thuộc tứ sanh (gồm: 1. Thai sanh: loài đẻ con/ 2. Noãn sanh: loài đẻ trứng/ 3. Thấp sanh: loại ở nước/ 4. Hóa sanh: loại hóa hình, như đuông, nhộng,…) biết bò, bay, bơi lội, đi đứng, cử động thì đều có sinh mạng, ăn thịt chúng, tức là phạm tội sát sinh.
Riêng về rượu, người ăn chay cũng không dùng. Rượu tuy không phải là vật mặn và là một vật không thể thiếu khi tiến hành các nghi lễ dân gian như đám cưới, đám giỗ, đám tang, …
Rượu đứng đầu tứ đổ tường (tửu, sắc, tài, khí) lại thuộc vào hạng ngũ giới cấm (sát sanh; du đạo; tà dâm; tửu nhục; vọng ngữ). Ngoài chức năng nghi lễ, dân gian cho rằng rượu có nhiều tác hại:
- Hại cho cơ thể: rượu vẫn là chất nóng, uống nhiều rượu sẽ làm cho tạng phủ mau chóng hao mòn, suy kém. Người nghiện rượu dễ mắc những căn bệnh hiểm nghèo.
- Hại về tinh thần: người uống nhiều rượu sẽ làm cho tinh thần bấn loạn, rối loạn hành vi, đi đứng lảo đảo, kẻ uống rượu nhiều thường hay lảng trí, tay chân tê bại, tai điếc mắt lờ.
- Hại về thuần phong mỹ tục, luận lí xã hội: người uống rượu không chỉ làm lụy cho thân mình, mà còn lưu hại đến người thân, gia đình, dòng họ và làng xóm. Tục ngữ có câu: Rượu vào lời ra, dễ gây mất niềm hòa khí.
Vì những lẽ đó mà người ăn chay cử rượu.
2. Có hai hình thức ăn chay là: Ăn chay trường và ăn chay kỳ.
Trường trai: là ngày nào cũng ăn chay
Kỳ trai, cách ăn chay này lại chia làm nhiều hình thức:
- Nhị trai: mỗi tháng ăn 2 ngày là mồng 1 và ngày rằm. Ngày xưa không có lịch, đặt ra cách ăn 2 ngày vào ngày trăng tròn (ngày vọng: ngày rằm) và ngày không trăng (ngày sóc: mồng một).
- Tứ trai: mỗi tháng ăn 4 ngày: mồng 1, 14, rằm, 30 (tháng thiếu thì ăn vào ngày 29).
- Lục trai: mỗi tháng ăn 6 ngày: mồng 1, mồng 8, 14, rằm, 23, 30 (tháng thiếu thì ăn vào ngày 29).
- Thập trai: mỗi tháng ăn 10 ngày là mồng 1, mồng 8, 14, rằm, 18, 23, 24, 28, 29, 30 (tháng thiếu ăn vào các ngày 27, 28, 29).
- Nhất nguyệt trai: ăn chay trọn tháng giêng hoặc tháng bảy.
- Tam nguyệt trai: ăn chay trọn tháng giêng, tháng bảy và tháng mười.
3. Ðối với tôn giáo, ăn chay tất khỏi sát sanh, mà sát sanh nằm trong những điều cấm kị của Ðạo Trời, Phật. Dân gian truyền rằng Phật đã dạy phàm làm người không ai nỡ ngồi nhìn con người vì miếng ăn mà hại mạng thú cầm. Cầm thú tuy không biết nói, chứ cũng biết muốn sống, sợ chết như mình, cũng biết đau đớn, buồn vui như mình, cũng biết tình nghĩa thân ái như mình. Một động vật là một mạng sống vậy. Mình nỡ nào vì ngon miệng mà hại mạng nó cho đành?
Theo học thuyết Nho giáo, Mạnh Tử nói: Quân tử chi, ư cầm thú giả, kiến kỳ sanh bất nhẫn kiến kỳ tử, kiến kỳ thinh bất nhẫn thực kỳ nhục. (Người quân tử đối với cầm thú, trông thấy sống mà không nỡ trông thấy chết, nghe tiếng kêu la mà không nỡ ăn thịt).
Dân gian miền Tây Nam Bộ còn truyền câu chuyện liên quan đến việc cúng chay và cúng mặn cho người đã khuất, chuyện kể rằng: Có một người nọ nhà giàu khi chết, con cháu làm ba bò bốn heo để đãi đằng khách khứa. Mấy năm sau nữa, đám giỗ cũng cúng rất to. Bỗng năm ấy, khi gần ngày giỗ, trưởng nam của người chết nằm mộng thấy cha hiện về hình hài xơ xác tay dắt theo nào bò, nào trâu, chó, gà, vịt, … 

Người cha than rằng: Bấy nhiêu súc vật cầm thú con làm cúng cha, nó không đi đầu thai được, Diêm Vương bắt cha phải giữ nó, cực thân cha quá, có thương cha con hãy làm đồ chay và vô chùa cầu cho linh hồn chúng mau siêu thăng, có vậy cha mới đi đầu thai kiếp khác được!
Tỉnh dậy, con lạnh toát mồ hôi, nguyện làm mâm cơm chay cúng cha để phụ thân sớm lên miền cực lạc!
4. Những người ăn chay vốn là những người đã tu tại tâm, nhờ ăn chay tánh tình sẽ hiền lành đối với mọi người, mọi loài, được mọi người thương yêu và kính trọng.
Người ăn chay là người hồi tâm hướng thiện, rèn luyện tính tình cư xử khiêm cung, ăn ngay ở thật, lửa giận biết dằn, lòng hay nhẫn nhịn, gặp việc phải thường chẳng bỏ qua. 
Dân gian còn khuyên nhau rằng, người ăn chay nên tránh những điều sau đây:
Thứ nhất, không nên kiêu ngạo, không khoe khoang rằng vì lòng từ với chúng sinh nên mới ăn chay, không nên tự cho là hay, giỏi, coi rẻ người chưa ăn chay sẽ gây ác cảm với người khác và làm tổn đức của mình.
Thứ hai, không nên ăn uống quá kiêng cữ, thiếu dinh chất, gây bệnh cho cơ thể.
Thứ ba, người ăn chay thì không nên giả mặn, không dùng tên gọi có xuất xứ từ dộng vật, không nắn thành hình con chim, gà, vịt hay thịt bò, thịt heo ...
Thứ tư, không nên gây phiền cho người khác. Đến nhà người ăn mặn thì nên chủ động chuẩn bị trước cho mình, hoặc giả cứ ăn tạm với những thức ăn có thể ăn được như rau cải, dưa leo, tương, muối, ...
5. Ăn hoa quả tươi có nhiều tác dụng tích cực cho sức khỏe con người. Nhờ lượng enzim mà rau quả mang đến, các độc tố sẽ bị đào thải khỏi gan, ruột, thận và các bắp cơ. Nó cũng làm lành sẹo, làm trẻ hoá các tế bào, phục hồi các bộ phận bị tổn thương hay nhiễm độc.
Ăn chay còn giúp cho cơ thể có thân hình cân đối bởi rau xanh và hoa quả cung cấp nhiều chất xơ giúp hệ tiêu hoá hoạt động tốt hơn, việc các năng lượng thừa tích trữ thành mỡ trong cơ thể cũng không có điều kiện xảy ra.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét