Là đại thi hào, danh nhân văn hóa thế giới, một trong 14 anh hùng dân tộc, nhưng Nguyễn Trãi từng phải chịu án oan thảm khốc và về sau được vua Lê Thánh Tông khôi phục danh dự.
Tranh vẽ chân dung Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi sinh năm 1380, hiệu là Ức Trai, quê ở Chi Ngại (Chí Linh, Hải Dương), sau dời đến làng Nhị Khê (Thường Tín, Hà Nội). Cha ông là Nguyễn Ứng Long tức Nguyễn Phi Khanh, mẹ là Trần Thị Thái, con gái của Trần Nguyên Đán, thuộc dòng họ tôn thất.
Vì sớm mồ côi mẹ nên từ nhỏ ông sống với cha ở làng Nhị Khê. Vốn thông minh, hiếu học, lại được cha rèn cặp nên chẳng bao lâu kiến thức uyên thâm của ông nổi tiếng khắp vùng. Sử gia Phan Huy Chú về sau ca ngợi Nguyễn Trãi “Tuổi trẻ đã văn chương nổi tiếng. Kinh sử, bách gia, binh thư thao lược, đều am hiểu cả”.
Năm 1400, Nguyễn Trãi tham dự khoa thi đầu tiên dưới triều Hồ và đỗ Thái học sinh, sau đó ra làm quan, được trao chức Ngự sử đài Chính chưởng. Nguyễn Phi Khanh cũng ra làm quan cho nhà Hồ, làm đến chức Hàn Lâm viện học sĩ kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám.
Năm 1406, nhà Minh đem quân xâm lược Đại Ngu, cha con Hồ Quý Ly tổ chức kháng chiến, nhưng thất bại và bị bắt. Nhiều bề tôi nhà Hồ chịu chung số phận, trong đó có Nguyễn Phi Khanh. Trần Huy Liệu ghi lại trong tác phẩm Nguyễn Trãi - một nhân vật vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam, rằng khi cha bị giải sang Trung Quốc, Nguyễn Trãi cùng em là Nguyễn Phi Hùng theo cha lên cửa ải và tỏ ý muốn đi theo hầu hạ, nhưng Nguyễn Phi Khanh không đồng ý và khuyên Nguyễn Trãi nên về lo cứu nước báo thù nhà.
Sau khi nước Đại Ngu rơi vào tay nhà Minh, Nguyễn Trãi tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo. Ông trở thành mưu sĩ của nghĩa quân Lam Sơn. Về sau, khi nhà Hậu Lê lên nắm quyền, ông làm quan dưới triều đại này.
Về thời gian Nguyễn Trãi yết kiến Bình Định Vương Lê Lợi, tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, hiện các tài liệu chưa thống nhất. Có tài liệu ghi Nguyễn Trãi có mặt từ hội thề Lũng Nhai vào năm 1416, có tài liệu lại ghi ông tham gia từ năm 1418 hay năm 1420.
Mặc dù thời gian tham gia nghĩa quân Lam Sơn của Lê Lợi không rõ ràng, nhưng tất cả tài liệu đều thống nhất sau khi gặp Lê Lợi ở Lam Sơn, Nguyễn Trãi đã đưa bản Bình Ngô sách và được Lê Lợi hoan nghênh. Sử gia Trần Huy Liệu nhận xét “Đó là một công trình nghiên cứu lâu năm của Nguyễn Trãi trước khi bắt tay vào công việc cứu quốc”.
Bình Ngô sách nay không còn, nhưng theo Ngô Thế Vinh đời vua Tự Đức thì trong bài sách đó, Nguyễn Trãi đã không nói đến việc đánh thành mà chỉ chú trọng đánh vào lòng người, kháng chiến dựa vào nhân dân.
Phương châm đánh vào lòng người của Nguyễn Trãi đã được thực hiện triệt để trong bước đầu xây dựng lực lượng nghĩa quân cũng như trong toàn bộ quá trình phát triển và đã đem lại kết quả rực rỡ. Theo đánh giá của sử gia Trần Huy Liệu, ở một khía cạnh khác, phương châm này của Nguyễn Trãi đã vạch ra nguyên nhân thất bại của những cuộc khởi nghĩa trước đó.
Việc đưa ra phương châm này cho thấy Nguyễn Trãi đã có cái nhìn bao quát cả một thời đại. Ông không những căm thù chính sách tàn bạo của quân xâm lược nhà Minh mà còn thấy rõ cả những thối nát của phong kiến quý tộc trong nước. Nhà Trần, nhà Hồ bị mất nước chính vì đã bị mất lòng dân.
Nhờ Bình Ngô sách, Nguyễn Trãi được ngày đêm dự bàn việc quân, bày mưu tính kế đánh quân xâm lược. Sau này, vua Lê Thánh Tông viết trong phần chú thích bài thơ Minh lương: “Nguyễn Trãi theo đến phò tá ở Lỗi Giang, bên trong thì giúp việc trù hoạch mưu lược ở nơi màn trướng, bên ngoài thì thảo văn từ chiêu dụ các thành”.
Tham gia nghĩa quân Lam Sơn, Nguyễn Trãi đã đề xuất một diệu kế nhằm tuyên truyền thanh thế cho nghĩa quân. Theo nhiều tài liệu như sách của Trần Huy Liệu hay của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Nguyễn Trãi đã nảy ra sáng kiến dùng mỡ viết vào lá cây trên rừng tám chữ “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” (Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi). Kiến ăn mỡ khoét thành chữ trên mặt lá, rồi lá rụng theo dòng nước trôi đi các ngả mang tin Lê Lợi và Nguyễn Trãi khởi nghĩa đến với mọi người khiến tất cả tin tưởng vào nghĩa quân.
Ngoài việc định ra chiến lược, chiến thuật đánh Minh, Nguyễn Trãi còn làm tất cả công việc giao thiệp với nhà Minh bằng việc soạn thảo văn thư ngoại giao. Tháng 6/1423, Lê Lợi cử sứ giả mang lễ vật cùng thư do Nguyễn Trãi viết đi cầu hòa để có thời gian củng cố lực lượng. Lời lẽ trong thư rất mềm dẻo và khôn khéo khiến quân Minh chấp thuận ngay.
Năm 1424, khi nghĩa quân Lam Sơn tiến vào nam, tấn công đồn Đa Căng, thành Trà Lân và bao vây thành Nghệ An, kết hợp các hoạt động quân sự, Nguyễn Trãi đã viết nhiều thư cho tướng nhà Minh là Phương Chính để khiêu chiến nhằm khiến quân Minh sơ hở.
Đầu năm 1427, Lê Lợi phong cho Nguyễn Trãi là Triều liệt Đại phu Nhập nội Hành khiển Lại bộ Thượng thư, kiêm chức Hành khu mật viện sự. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Bấy giờ, vua dựng lầu nhiều tầng ở dinh Bồ Đề bên sông Lô, cao bằng tháp Báo Thiên, hàng ngày vua ngự trên lầu nhìn vào thành để quan sát mọi hành vi của giặc, cho Trãi ngồi hầu ở tầng hai, nhận lệnh soạn thảo thư từ qua lại”.
Tại đây, Nguyễn Trãi đã viết hàng chục bức thư vào thành Đông Quan nhằm chiêu dụ Vương Thông, gửi đi Nghệ An, Thuận Hóa, Tân Bình và nhiều thành trì khác để dụ hàng các tướng lĩnh nhà Minh. Bản thân Nguyễn Trãi cũng nhiều lần đích thân đi dụ hàng quân Minh.
Lam Sơn thực lục chép: “Ngày 14/4, nhà vua lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Thuận thiên. Bèn sai Nguyễn Trãi làm bài Bình Ngô đại cáo”. Theo đó, Bình Ngô đại cáo được Nguyễn Trãi soạn thảo vào mùa xuân năm 1428, thay lời Lê Lợi tuyên cáo kết thúc cuộc kháng chiến chống quân Minh và khẳng định sự độc lập của Đại Việt.
Trong bài cáo, Nguyễn Trãi nhắc đến vai trò của người dân trong lịch sử và cách giành chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn. Bài cáo cũng là câu trả lời cho câu hỏi tại sao nghĩa quân Lam Sơn có thể chiến thắng quân đội nhà Minh. Đó là chính sách dựa vào nhân dân.
Bài cáo được mở đầu như sau: “Từng nghe: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo/ Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu/ Núi sông bờ cõi đã chia/ Phong tục Bắc Nam cũng khác/ Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập/ Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương/ Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau/ Song hào kiệt thời nào cũng có…”.
Bình Ngô đại cáo là tác phẩm văn học với chức năng hành chính quan trọng đối với lịch sử dân tộc và là tác phẩm có chất lượng văn học tốt. Đến này, tác phẩm này không những được coi là bản “Thiên cổ hùng văn” mà còn được xem là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam sau bài Nam Quốc sơn hà thời Lý.
Vô tình vướng vào vụ án Lệ Chi Viên và bị khép vào tội âm mưu giết vua, Nguyễn Trãi cùng vợ là Nguyễn Thị Lộ và dòng họ ba đời phải chết. Sự kiện này diễn ra vào tháng 8/1442.
Đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông ban chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng tước Tán Trù Bá, ban cho con trai ông là Nguyễn Anh Vũ chức huyện quan. Sau đó, vua còn ra lệnh sưu tầm di cảo thơ văn Nguyễn Trãi. Nhờ đó, một phần quan trọng các di sản văn hóa của Nguyễn Trãi còn tồn tại đến ngày nay.
Các tác phẩm của Nguyễn Trãi được viết bằng cả chữ Hán và chữ Nôm, và trải rộng ở nhiều lĩnh vực như văn học, lịch sử, địa lý, luật pháp, lễ nghi…
Ngoài Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi còn nhiều tác phẩm nổi tiếng khác. Ở thể văn chính luận, nổi tiếng nhất phải kể đến Quân trung từ mệnh tập. Đây là tập sách gồm những văn thư do Nguyễn Trãi thay mặt Lê Thái Tổ gửi cho các tướng tá nhà Minh trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Ở lĩnh vực lịch sử, Nguyễn Trãi là người soạn bài Vĩnh Lăng thần đạo bi - bài văn bia ở Vĩnh Lăng, lăng của vua Lê Thái Tổ để kể lại thân thế và sự nghiệp của vua. Ở lĩnh vực địa lý, ông là tác giả bộ Dư địa chí, bộ sách về địa lý học cổ nhất còn lại của Việt Nam.
Đặc biệt ở lĩnh vực thơ phú, Nguyễn Trãi để lại rất nhiều tác phẩm như Ức Trai thi tập (tập thơ bằng chữ Hán, gồm 105 bài thơ), Quốc âm thi tập (tập thơ bằng chữ Nôm, gồm 254 bài thơ), Chí Linh sơn phú (bài phú bằng chữ Hán), Băng Hồ di sự lục (thiên tản văn bằng chữ Hán)…
Năm 1980, nhân dịp kỷ niệm 600 năm ngày sinh của Nguyễn Trãi, tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc UNESCO đã công nhận ông là danh nhân văn hóa thế giới và đứng ra tổ chức lễ kỷ niệm một cách trang trọng tại Việt Nam và nhiều nước khác.
Với tư cách là nhà văn hóa lớn, ông đã có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp phát triển văn học và tư tưởng của Việt Nam. Ngoài danh hiệu UNESCO trao tặng, ông còn được vinh danh là một trong 14 vị anh hùng dân tộc được ca ngợi mãi mãi, một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam.
Sau này, khi nhận xét về Nguyễn Trãi, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết: “Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc, văn võ song toàn. Văn là chính trị: Chính trị cứu nước, cứu dân, nội trị ngoại giao, mở nền thái bình muôn thuở, rửa nỗi thẹn nghìn thu. Võ là quân sự: Chiến lược và chiến thuật, yếu đánh mạnh ít định nhiều… thắng hung tàn bằng đại nghĩa. Văn và võ đều là võ khí, mạnh như vũ bão, sắc như gươm dao”.
Thanh Tâm
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét