Thứ Sáu, 2 tháng 3, 2018

Vài nét về Tết trong cung Vua phủ Chúa nước ta thời phong kiến


Lễ tế Nam Giao thời Nguyễn. Ảnh: Tư liệu Pháp/VOV
Tết Nguyên Đán trong cung đình thể hiện nổi bật nhất, trang trọng nhất nghi thức của Tết Việt Nam xưa. Ngoài những nét cổ truyền và phổ biến như Tết trong dân chúng, Tết nơi cung đình mang dáng vẻ độc đáo riêng của sự tôn nghiêm và quyền lực.

Trong cung đình ngày xưa, tính chất linh thiêng của ngày Tết rất quan trọng, vì Vua và triều đình là đại diện cho hưng thịnh quốc gia, bình an ấm no dân chúng nên những nghi lễ cúng bái đầu năm rất tôn nghiêm, chưa kể tính xa hoa, lộng lẫy chứng tỏ quyền lực “Thiên tử”. Một chút phác thảo về Tết cung đình thời Trần – Lê – Nguyễn như vài trang lịch sử lật xem trong những ngày Tết.
Tết trong Hoàng gia thời Trần
Tết trong cung đình thời Trần được tổ chức rất trang trọng và kéo dài từ ngày đầu năm tới đầu tháng 2 âm lịch với nhiều nghi lễ cúng tế khác nhau.
Ngay từ ngày 28 tháng Chạp, các quan tháp tùng Vua ra tế đền Đế Thích ngoài thành Thăng Long. Sáng 30 Tết, Vua ngự trên Đoan Cung, các quan vào làm lễ rồi xem múa hát. Buổi chiều Vua sang cung Đông Nhân bái yết Thái Thượng Hoàng. Đêm Giao thừa, mời sư vào Đại Nội tụng kinh và làm lễ Khuna (lễ đuổi ma quỷ).
Mùng 1 Tết, khoảng canh 5, Vua ra điện Vĩnh Thọ cho con cháu và quan tướng làm lễ bái hạ. Sau đó Vua đến cung Trường Xuân, hướng về các lăng tổ tiên làm lễ vọng bái. Sáng ra, Vua ra điện Thiên An, Hoàng Hậu, phi, tần, các quan nội thần trên điện, nhạc công tấu nhạc trước sân rồng, các hoàng tử hoàng tôn, thân tướng và quan tướng xếp hàng làm lễ bái và dâng 3 tuần rượu. Xong các hoàng tử lên điện, các quan nội thần ngồi ở tiểu điện phía Tây, các quan ngoại thần ngồi hai bên tả hữu.
Vua và tất cả mọi người dự yến tiệc đến trưa. Lúc này Vua ngồi trên Đài Chúng Tiên hai tầng, được trang trí vàng bạc lộng lẫy để các quan quỳ lạy dâng 9 tuần rượu chúc thọ. Mùng 2, quan tướng ăn Tết tại nhà. Mùng 3, Vua ngự trên lầu Đại Hưng xem hoàng tử, các con quan đánh cầu – trò chơi được ưa chuộng nơi cung đình.
Mùng 5, làm lễ Khai Hạ, Vua ban Yến, du ngoạn đền chùa… Rằm tháng Giêng, giữa sân trong cung dựng cây đèn Quảng chiếu, thắp hàng vạn ngọn đèn, các sư đi quanh tụng kinh, còn quan tướng làm lễ Triều Đăng…
Tết trong cung Vua phủ Chúa thời Lê – Trịnh:
Tết Nguyên Đán trong cung Vua phủ Chúa thời này ngắn hơn và nặng về nghi lễ, ít trò vui chơi.
Mùng 1 Tết, Tiết Chế phủ (con trai cả Chúa Trịnh) theo lệnh Chúa dẫn quan tướng mặc lễ phục vào chầu Vua Lê, làm lễ chúc mừng năm mới. Trước đó, ngày 30 tháng Chạp, Ty Thượng thiết đã đặt ngự tọa ở điện Kính Thiên, bày hương án phía trước. Ty Viễn giá cắm tàn vàng hai bên ngự tọa. Ty Giáo phường chuẩn bị Thiều nhạc, Đại nhạc phía Đông – Tây sân rồng. Ty Thủ vệ dàn cờ quạt, khí giới theo đúng nghi thức.
Giữa công đường, bộ Lễ, ty Nghi chế đặt một cái án trên đó để tờ biểu của Sử Ty Đô Tổng bình, Thừa chính cùng Ty Hiến sát các xứ chúc mừng Vua. Các quan bộ Lễ và Ty Thừa đến canh năm rước án biểu vào cung, trên che tàn vàng, cờ trống và nhạc đi trước, văn võ theo sau. Cục Thừa dụ khiêng án biểu đến cửa Đoan Môn, đặt ở phía Đông sân rồng.
Trống nghiêm hồi thứ nhất, các quan xếp hàng ngoài cửa Đoan Môn. Trống đánh hồi hai, viên Đạo Lễ dẫn Tiết chế phủ vào điểm trước sân rồng ngồi chờ. Trống hồi ba, các viên chấp sự vào điện Vạn Thọ lạy 5 lạy 3 vái rồi rước Vua ra điện Kính Thiên. Viên Đạo Lễ dẫn Tiết Chế phủ vào đứng ở sân rồng, quan văn võ xếp hàng hai bên Đông – Tây, quan ty Thừa và triều yết đứng ngoài cửa Đoan Môn.
Vua lên ngự tọa, Giáo phường tấu nhạc, quan Tuyên biểu quỳ tâu và dâng biểu chúc mừng, quan Đại Trí từ đọc lời cầu chúc của Tiết Chế phủ và bách quan văn võ. Nhạc điểm nhịp và các quan theo lời viên Thông tán mà quỳ, vái, lạy… Quan Truyền chế đọc lời đáp của Vua, các quan lạy tạ 4 lần, nhạc tấu khúc Hưu Minh, Vua lên kiệu về cung, kết thúc buổi chầu.
Ở phủ Chúa, viên Tư Thiên giám chọn giờ tốt để Chúa đi lễ Thái Miếu. Mùng 1 Tết, hiệu Thiên hùng bắn súng, hiệu Thị trung đánh trống, quân cấm vệ đứng đầu hoặc đi tuần xung quanh. Chúa lễ xong, phiên Bình ban thưởng tiền xuân cho quan tướng. Tiết Chế phủ dẫn các quan xếp hàng tiến vào lạy mừng. Chúa ban Yến. Dự yến xong, các quan làm lễ tạ ơn rồi sang phủ Tiết Chế chúc mừng năm mới. Sau đó về ăn Tết ở nhà.
Tết trong cung Vua triều Nguyễn
Tết trong cung nhà Nguyễn diễn ra rất sớm, từ 20 tháng Chạp làm lễ Phát thức (rửa ấn). Các quan mặc áo xanh ra chầu ở điện Cần Chính. Vua đến, mọi tủ chứa ấn đều được mở. Ấn rửa bằng nước thơm, rồi niêm phong cẩn thận không dùng vào dịp Tết. Ngày 22 tháng Chạp, làm lễ Hạp hương – lễ mời các Tiên đế về ăn Tết ở điện Thái Miếu.
Lễ dựng cây nêu ngày Tết thời Nguyễn. Ảnh: Tư liệu/VOV
Ngày 30 tháng Chạp, làm lễ Thượng tiên – lễ dựng cây nêu. Vua ra điện Thái Hòa dựng nêu xong, dân chúng mới được dựng nêu ở nhà mình. Cũng ngày này tổ chức thiết triều cuối năm. Tại điện Thái Hòa, đặt một hoàng án để tờ biểu của quan lại Trung ương, một hoàng án để tờ biểu của quan lại địa phương chúc mừng Vua. Giữa điện trải chiếu bái cho các Hoàng tử, Hoàng thân, hai bên là chỗ bái của các quan văn võ từ tam phẩm trở lên, các quan tứ phẩm trở xuống đứng dưới sân rồng hai phía Đông – Tây có tám hàng quân cấm vệ dàn hầu và đội nhạc cung đình tấu nhạc.
Sáng mùng 1 Tết, đầu canh năm, trống hồi 1, viên Quản vệ dàn bày cờ quạt, nghi trượng,… Trống hồi 2, các quan mặc lễ phục vào trực sẵn sân điện Thái Hòa. Mờ sáng, trống hồi 3, trên kì đài cờ đại, các sắc cờ khánh hỷ, quan Khâm Thiên giám báo giờ, Vua đội mũ Cửu Long, mặc Hoàng bào, cầm hốt trấn khuê ngự ra điện Cần Chánh rồi lên kiệu rước sang điện Thái Hòa.
Nhã nhạc tấu, chín phát súng thần công lệnh nổ, Thái giám đốt hương trầm, quan nội các tiến lên hoàng án lấy biểu chúc mừng trao cho quan Tuyên đọc, đọc xong các quan lạy tạ. Quan phụng chỉ đọc lời đáp của Vua. Nhạc tấu khúc Hòa bình, Vua về điện Cần Chánh. 
ại đây các hoàng tử, hoàng thân, các quan văn võ từ tứ phẩm trở lên lạy mừng. Vua ban yến và thưởng tiền cho mọi người. Mùng 1-2 Tết Vua ban yến cho hoàng tộc và các quan tướng. Mùng 4 Tết cử hành lễ Triều minh – Vua đi tế lễ các đền miếu quốc gia.
Mùng 5 Tết, Vua tổ chức lễ Tịch điền – Vua đích thân cày ruộng và cầu cho mùa màng. Lễ này tồn tại từ thời Lý và như một tục lệ không thể thiếu trong nghi thức lễ Tết đầu năm trong cung.
Từ mùng 6 tết, Vua sẽ làm các lễ khác, Nghênh xuân, Tiến xuân, Xuất binh rất tưng bừng, chủ yếu là tham gia cùng dân gian vui tết.
Theo như trong sử sách, Tết trong cung phải diễn tiến theo những nghi thức được ấn định trong “Hội Điển Sự Lệ” do sự sắp đặt của bộ Lễ và chọn ngày của Khâm Thiên Giám. Và có rất nhiều quy tắc phức tạp khác, để tỏ rõ sự tôn nghiêm, linh thiêng, quyền uy chốn cung đình.
theo Hoài Hương/VOV

Tệ biếu quà quan trên dịp Tết của người Việt trong mắt phương Tây

Điện Thái Hòa mỗi dịp Tết
Ngay từ thế kỷ 16-17, người phương Tây đã đến Việt Nam và ghi chép cẩn thận về văn hóa nước ta. Ngoài những ghi nhận về phong tục tốt đẹp của người Việt trong dịp Tết thì họ cũng không ngại nêu ra những thói xấu.

Samuel Baron, một thương nhân Hà Lan từng đến Thăng Long hồi thế kỷ 17 khi viết cuốn A Description of the Kingdom of Tonqueen có tả: "Lệ đi lễ và cách đem biếu quà cáp của người dưới đối với người trên hôm đầu năm có từ ngày xưa thì bây giờ bắt buộc và có một đạo luật rất nghiêm khắc chế định nên không ai có thể bỏ đi được. Các quan tùy theo phẩm trật của mình (có nhiều người lại tùy theo phẩm trật mình muốn đạt) mỗi năm gửi phẩm vật quý giá về dâng vua... Hạ quan gửi tặng vật về biếu thượng quan; học trò tết thầy, con cháu biếu gia trưởng, và như thế người dưới biếu người mà mình nhận là người đứng ngay hàng trên mình. Vì lễ vật nhận được rất nhiều và đủ các thứ, nên các quan có tục vào những ngày tất niên đem thết bà con và thân hữu một phần to; còn lại thì cho lính tráng, đầy tớ để cho ai cũng có cảm tưởng là được dự vào tết và mọi người được vui mừng sung sướng.
Marini, nhà buôn người Ý, sống ở Đàng Ngoài từ 1647-1658 viết: "Đi Tết ai, thường cũng tết thêm mấy bánh pháo to nhỏ tuỳ theo cấp bậc, địa vị; vừa xướng Tết xong, người ta liền đốt pháo cho ran nhà, cho tà ma bỏ chạy, để hạnh phúc tràn tới. Người dưới phải đem đồ, hoặc cho người đại diện đi tết người trên. Con cháu phải tết ông bà, cha mẹ, chú bác; trò phải tết thầy… Các quan cấp dưới cũng phải gửi đồ tết quan trên. Vì vậy nhà các đại quan tràn ngập đồ tết. Thường thường các vị đó lại đem tặng bạn bè, hoặc cho quân lính, kẻ hầu hạ, để mọi người được hưởng lộc. Tất cả các quan lại không buộc dâng đồ Tết vua chúa.
Đồ tết của người dưới đối với người trên hầu hết là thực phẩm: gạo, heo, gà, vịt, cau, đường, trái cây, bánh, mứt… Nếu là quân lính, sẽ họp nhau cùng tết viên quan chỉ huy trực tiếp. Họ mang đồ Tết đến nhà quan bằng một nghi thức trang trọng: đi đầu là cai đội (chỉ huy từ 2 đến 6 thuyền, mỗi thuyền từ 30 đến 60 lính) rồi đến lính bưng một quả (hộp) gạo), và khênh con heo mới giết đặt trên bàn, để trước mặt quan. Viên quan ngồi giữa nhà thật oai nghiêm. Quân lính lạy quan sát đất ba lần. Quan nhận đồ Tết, rồi bảo người hầu đem cất đi; sau đó ban quà mừng tuổi cho lính tương xứng với đồ Tết. Còn quà mừng tuổi của vua chúa cho các quan là một bộ phẩm phục, đặt trong quả (hộp) áo sơn son vẽ rồng, cùng một mẫu. Vua chúa sai người bưng quả áo đến nhà viên quan, đi theo có lính che lọng quà mừng tuổi. Việc che lọng trên không có ý tránh mưa nắng, nhưng chỉ là tỏ sự cung kính món quà vua chúa ban".
Một giáo sĩ người Pháp là Jean Baptiste Tavernier sống ở Thăng Long vào thế kỷ 17 cũng xác định chuyện này trong cuốn sách có tên “Recueil de Plusieurs Relations et Traites Singuliers et Curieux" và viết chuyện dùng quà xin xỏ được thực hiện rất công khai và sòng phẳng: "Khi các quan đi chầu hoặc tết vua chúa, phải mặc áo tím, đội mũ lục lăng và phải lạy sát đất 4 lần. Riêng nữ giới chỉ buộc lạy một lần theo kiểu lạy của họ (ngồi mà lạy). Dịp này cũng như các dịp khác ai muốn dộng (là tiếng để nói với chúa Trịnh; cũng như khi nói với vua thì dùng tiếng tâu (tâu vua, dộng chúa); nói với đại quan dùng tiếng bẩm; với quan nhỏ, tiếng trình; với vai trên, thưa. Như vậy trong thuật ngữ xưng hô đẳng cấp xã hội, tiếng dộng ở cấp thứ hai) xin ân huệ gì, thì đội của lễ lên đầu, hoặc bưng cao ngang trán, tiến gần tới chúa để nói. Nếu chúa nhận lời, ngài sẽ bảo người hầu cất của lễ đi; bằng không, thì chúa cũng không nhận của lễ".
Không chỉ quan lại, mà dân chúng cũng vậy. Giáo sĩ Benigme, người Pháp, tác giả của Vingt ans en Annam (Hai mươi năm sống ở An-nam) viết: Những kẻ dưới đi Tết người trên thì đem theo lễ vật và quỳ lạy ít ra là một lễ , không bao giờ người ta đi chúc Tết người trên mà lại đi tay không. Sau đó họ được phép tha hồ bê tha cờ bạc trong ba ngày Tết, say mê đến nỗi thua sạch cả quần áo. Nhưng họ không được phép chơi ở gìan nhà chính mà chơi ở dưới mái hiên và với điều kiện chỉ nói cười khe khẽ. Ðáng phục là điều kiện này đến cả các bà cũng tuân theo!”.
Ngoài tệ biếu lễ dịp Tết thì người phương Tây cũng nói rằng Tết là dịp người Việt chè chén bê tha. Courtois Edmondl, giáo sĩ- bác sĩ Pháp viết: "Nhưng Tết không phải chỉ là lễ cúng tổ tiên, nó còn là cái cớ để người ta tiệc tùng, chè rượu thả cửa, tất cả những đĩa đồ ăn bầy la liệt trên bàn thờ mỗi ngày thay mấy lần, có thể nói là họ ăn uống từ sáng đến tối. Chiều mồng một hiếm khi gập một người An-nam nào không chuếnh choáng hơi men, say khướt thứ rượu “choum choum”, (không rõ rượu gì) rượu trắng cất bằng gạo, rất dở mà khắp xứ Bắc đâu đâu cũng có...Thế rồi lại ca hát ê a, và Tết kéo dài khoảng một tuần ở nhà giầu, nhà nghèo thì ngắn hơn. Số tiền nhỏ mọn họ dành dụm ky cóp đã tiêu sạch".
Baron cũng nhận xét như vậy khi ông cho rằng: "Ðây là thời gian người ta mặc sức ăn ngon, phóng túng, ai mà không cố tiếp đãi họ hàng, bạn bè chu tất thì mang tiếng là bủn xỉn, bần tiện, nên dẫu họ biết rằng tiêu hoang vào dịp này thì rồi sẽ khánh kiệt, cả năm đến phải sống bằng cách đi ăn xin cũng không quản ngại".
T.H

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét