Xem triển lãm ảnh “
180 năm Tây Ninh hình thành và phát triển”. Thấy bức ảnh các nhà sư đứng trước một hang đá, có ghi chú là các nhà sư trên
núi Bà Đen năm 1900. Cảnh trí quen quen. Chợt nhận ra đây chính là nơi có ngôi Điện Bà trên núi mà lâu nay người dân Nam bộ vẫn coi là chốn linh thiêng, thành kính.
Điện Bà ngày Trung thu năm 2016
Ở Tây Ninh, trong nhiều chùa Phật đều có bàn thờ Bà Linh Sơn ở một vị trí ngang với bàn thờ Quan Thánh Đế (Quan Vân Trường), để phật tử và du khách có thể nhân dịp viếng chùa mà cúng Phật, cúng Bà. Tuy nhiên, lễ hội trọng thể nhất, có sự tham dự của đông đảo bà con phật tử nhất có lẽ là lễ vía Bà ngày 5.5 âm lịch tại Điện thờ Bà trên núi Bà Đen. Ngoài ra, lễ còn được tổ chức ở chùa Phước Lâm – một chi nhánh của chùa Linh Sơn trên núi Bà.
Hiện chùa nằm trên địa bàn phường 1,
thành phố Tây Ninh. Điểm thứ hai tại đền thờ Bà ở khu phố Lộc An, thị trấn Trảng Bàng, huyện Trảng Bàng. Một điểm nữa là ở ấp Hiệp Trường, xã Hiệp Tân, nơi có ngôi miếu thờ Bà
Linh Sơn Thánh Mẫu. Riêng miếu này lại có ngày vía Bà là ngày mùng 4 tết. Trong chiến tranh, giao thông giữa Trảng Bàng và thị xã Tây Ninh có nhiều nguy hiểm, bà con các tỉnh phía Nam và huyện Trảng Bàng có thể đến dự lễ vía Bà ngay tại miếu Lộc An.
Ngay cả ở khu vực phía Bắc tỉnh, khi cuộc “Chiến tranh đặc biệt” đang đến độ quyết liệt đầu những năm 1960 thì tăng ni ở núi cũng bị buộc chuyển về chùa Phước Lâm. Pho tượng Bà bị thất lạc do lính Pháp lấy đi đem bán. Khi tìm lại được cũng đem về lưu giữ tại chùa này. Từ đó cho đến ngày giải phóng miền Nam năm 1975, tăng ni, phật tử thực hiện nghi lễ vía Bà chủ yếu tại chùa Phước Lâm. Nói tóm lại, hơn 200 năm qua, hương khói thờ phụng trong lễ vía Bà chưa bao giờ dứt trên đất Tây Ninh, mặc cho vật đổi sao dời.
Điện Bà trên núi ở vào độ cao 250 mét trên mực nước biển, ở sườn mé Đông Nam của núi. Do tự nhiên và cả do công lao khai sơn phá thạch của nhiều đời tăng ni mà quanh ngôi Điện đã có một khoảng sân rộng trên 2.000 mét vuông. Quần tụ quanh đây còn có ngôi chùa Phật và chùa Tổ, là những ngôi chùa chính của hệ thống các chùa trên núi.
Theo cuốn sách nhỏ “Ngọn đuốc cửa thiền” tác giả Phan Thúc Duy viết trước năm 1937 (năm sư tổ Tâm Hòa tạ thế) thì hang Điện Bà trước chỉ là một hang tự nhiên do đá núi chồm ra che một mặt bằng rộng khoảng 30m2, trần hang cao từ 2,2 đến 2,5m. Vào năm 1872, sư tổ Thanh Thọ – Phước Chí từ chùa Phước Lâm lên núi để xây hang Điện. Tấm ảnh chụp hang Điện vừa kể cho thấy đã có những mảng tường vôi, vài ô cửa sổ và cửa đi, hai bên có đắp (hoặc viết) những câu đối.
Tuy nhiên, tường bao còn thụt vào trong gầm hang, có nghĩa là diện tích hang lúc ấy khá nhỏ. Đến năm 1957, do tường hang đã bị hư hại nặng, nên ban quản trị núi đã phá dỡ xây lại, phần cơ bản vẫn còn đến ngày nay. Sau giải phóng 1975, người ta mới tu sửa thêm bằng cách làm thêm ngôi võ ca ở trước hang và lắp đặt thêm ống thoát khói từ một góc trần hang, dẫn khói nhang thoát ra ngoài. Bên trái (nhìn từ ngoài vào), có một nhà nhỏ làm nơi trưng bày những bộ áo mão do nhân dân tín ngưỡng dâng cúng Bà. Hai bên còn có 2 ngôi miếu nhỏ, như kiểu miếu ông Tà, trong đó đặt một viên đá có hình thù giống một Linga – ngẫu tượng thờ theo tín ngưỡng Bà La Môn. Viên đá luôn được trùm khăn đỏ.
Ngôi võ ca xây theo kiểu thường thấy ở miếu, đình Nam bộ, diện tích khoảng 80m2, cũng cấu trúc theo lối tứ trụ, chỉ có cột mà không có tường bao. Bên trên là hai tầng mái bê tông giả ngói có 8 đầu đao vươn ra bốn phía. Bên trong hang Điện có bàn thờ Bà đặt chính giữa, trên có ngai tượng Bà và hai cô thiếu nữ đứng hầu. Hai bên còn có hai bàn thờ nhỏ thờ cậu Tài, cậu Quý. Dọc hai bên hang còn có bàn thờ tứ vị sơn thần. Trong ngôi võ ca có bàn thờ Diêu Trì Địa Mẫu, áp sát tường hang và ở ngoài còn thêm một tượng Phật Bà Quan Âm hướng ra thung lũng.
Cùng trên một mặt bằng sân chung với ngôi Điện Bà, có ngôi chùa Phật, thường gọi là chùa Bà, tên chính thức là Linh Sơn Tiên Thạch Tự. Ngôi chùa này nằm ở phía ngoài, trên sân hang Điện được xây trong khoảng cuối thế kỷ XIX dưới thời trụ trì của sư tổ Trừng Tùng- Chơn Thoại. Chùa này được cất hoàn toàn bằng gỗ cây sao, kèm theo còn có một nhà giảng. Đến năm 1922-1924, sư tổ Tâm Hòa dỡ ra xây lại bằng đá.
Trong chiến tranh, chùa Phật cũng đã bị sập đổ và cháy rụi hoàn toàn. Chùa được Ni trưởng Thích nữ Diệu Nghĩa chủ trì xây lại, hoàn thành năm 1996. Phía ngoài chùa Phật, ở khoảng sân thấp hơn gần một mét còn có ngôi chùa Tổ, chuyên thờ cúng các vị sư tổ trụ trì qua các thời kỳ. Trước mặt chùa Tổ, chếch về bên trái còn có một ngôi nhà trù, nhà nghỉ dành làm nơi phục vụ cơm chay và nghỉ lại qua đêm cho khách hành hương. Phía ngoài, thẳng với lối lên chùa là dốc Thượng, đỉnh dốc là mặt bằng sân chùa Tổ, có một cổng cũ từ xưa còn lại. Cổng chỉ có hai trụ cột và trên nóc xây tường hình cuốn thư có đắp nổi ba chữ Việt là Núi Điện Bà; một bảng đại tự 5 chữ Hán, có nghĩa là Linh Sơn Tiên Thạch Tự. Gần cổng nhất, đối diện với ngôi chùa Tổ còn có một tháp treo quả chuông đồng nặng hơn 6 tấn.
Còn có thể kể thêm, lên khỏi cổng chùa trên dốc Thượng, nếu rẽ về phía phải sẽ sang động Thanh Long. Động núi là một hang nhỏ nhưng khu vực này có cảnh trí đẹp bởi các khối đá chênh vênh xếp đặt mà nên. Đó đây còn là những cây rừng có gốc rễ xùm xòa, lạ mắt. Nhiều dây thanh long bò xoài trên mặt đá.
Ở khoảng giữa Điện Bà và ngôi chùa Phật có một lối dốc lên đã xây bậc đá và lan can sắt dẫn tới một mặt bằng nhỏ phía trên, cao hơn mặt bằng sân Điện chừng 20 mét. Tại đây có một cửa hang, lúc nào cũng thấy gió lùa ra mát lạnh nên được đặt tên hang Gió. Từng có một sự cố khiến hang không còn thông gió nữa nhưng giờ hang đã được phục hồi hun hút gió thổi. Trước hang có tượng Phật nằm dài 12 mét. Từ đây có lối đi xếp đá quanh co sang chùa Hòa Đồng như một chiếc ban công của núi. Từ các điểm cao ấy, ta có thể nhìn bao quát toàn bộ các kiến trúc quần tụ quanh sân Điện, xa hơn là những cánh đồng, nương rẫy trải dài suốt triền chân núi. Muốn sang bên chùa Hang và động núi Ba Cô, lại phải vòng trở xuống để đi qua trước Điện Bà.
Nhìn chung kiến trúc toàn cảnh đã tạo nên một hình ảnh “trùng thềm điệp ốc” với nhiều lớp mái bê tông giả ngói đỏ, với những đầu đao họa tiết hình rồng phượng hơi dày rậm. Các kiến trúc đều chú ý đến việc kế thừa vốn cổ truyền của kiến trúc dân tộc với phong cách đình chùa Nam bộ, hơi có chút khoa trương về hình thức nhưng lại có sức thu hút vì phù hợp với tâm lý nhân dân các tỉnh trên vùng đất mới phương Nam.
Theo TRẦN VŨ (Tây Ninh Online)
Tượng bà Linh Sơn Thánh Mẫu
Bà thì đen nhưng đá ngọc lại trắng có vân màu tím. Vì thế, mặt tượng phương phi, tươi sáng. Tượng ngồi trên ngai, áo mão đàng hoàng chạm khắc tinh vi, cao chừng trên dưới 1 mét.
Không còn nhớ năm, nhưng lại nhớ rõ ngày! Đó là ngày 4.6 còn năm thì vào khoảng 2011 đến 2012. Là thời điểm núi Bà có lễ rước rất trọng thể cỗ ngọc ấn của bà
Linh Sơn thánh mẫu. Lễ có các quan chức tỉnh và cả Trung ương về dự. Người hiến tặng cũng có tên tuổi lớn. Đó là gia đình Phó GS, Tiến sĩ Huỳnh Quang Thuận, nguyên viện trưởng một viện nghiên cứu. Gia đình này tự kể, rằng là hậu duệ đời thứ 5 của vua nhà Nguyễn – Gia Long. Sau khi xong các nghi thức đón rước, an vị rất là long trọng, thì ấn được mở ra đóng thử ngay tại điện Bà. Bằng con mắt của một người am hiểu chữ Hán cổ kim, một vị sư bảo: ngọc thì ngọc thật, nhưng chữ là mới khắc, vì người ta đã không còn dùng chữ Hán cổ, thường được khắc trên ấn tín thời xưa. Vậy đã có thể khẳng định, cỗ ngọc ấn kể trên không phải là ấn cổ. Mà nếu Bà Linh Sơn xưa có ấn (nghe nói được vua ban) thì ấn này cũng là mới chế trên một viên đá ngọc xanh màu lục bảo mà thôi!
Lần lên núi gần đây nhất, vào tháng 4.2016, mới thấy trong điện Bà, ngoài cỗ ngọc ấn còn thêm một pho ngọc tượng nữa. Các nhà sư bảo, đấy cũng là tượng của gia đình hậu duệ vua Gia Long từng cung hiến ngọc ấn trước đây đem hiến tặng khoảng năm 2013. Quả thật, pho tượng mới này làm sáng cả một ngai thờ.
Bà thì đen nhưng đá ngọc lại trắng có vân màu tím. Vì thế, mặt tượng phương phi, tươi sáng. Tượng ngồi trên ngai, áo mão đàng hoàng chạm khắc tinh vi, cao chừng trên dưới 1 mét. Nghĩa là cao bằng pho tượng Bà xưa cũ đứng cùng cậu Tài, cậu Quý ở phía sau. Nghe nói, khối đá ngọc ấy được tín chủ mua tận mỏ đá Myanmar, đem về thuê nghệ nhân chế tác.
Nhiều chùa Tây Ninh có gian riêng thờ Bà, có tượng. Phần lớn tượng Bà trước đây đều có dáng nét trầm luân khắc khổ. Chứ đâu được ánh nhìn thanh thản, rỡ ràng như trên pho ngọc tượng. Chợt nhớ đến pho tượng Bà tạo bằng đá núi Bà ở chùa Thiền Lâm – Gò Kén. Trong các pho tượng Bà hiện có ở Tây Ninh, pho ở Gò Kén chắc chắn là lớn nhất. Cao tới gần 2 mét, khối đá có tiết diện gần vuông với cạnh khoảng 1 mét, nên tượng ấy nặng đến 3 tấn. Điều đáng chú ý là cũng giống như pho ngọc tượng, pho này cũng tạc Bà trên ngai ngồi thanh thản, hai tay ung dung đặt trước gối. Cặp mắt mở to dưới đôi mày cong vút. Có lẽ để cho thêm phần sinh động, người ta đã sơn vẽ trên phần đầu từ cổ trở lên. Để mặt tượng có nước da hồng mịn với mắt mi đen và cả môi son… Như nhiều tượng cổ dân gian, tượng bà Gò Kén cũng được tạo hình cách điệu với sự trau chuốt chủ yếu trên gương mặt phúc hậu, biểu lộ một tinh thần sáng trong thuần khiết, một phong thái ung dung. Tuy vậy, khối thân tượng dù đơn giản hơn nhưng cũng đã chú ý đến từng nếp lượn và các chi tiết trên trang phục. Bà có đầu tóc bới cao như phụ nữ Nam bộ xưa, vận áo dài xưa. Tiếc rằng, cũng như nhiều pho tượng khác, Bà đã được phật tử sùng kính khoác thêm cho nhiều lớp áo khăn thêu ren lộng lẫy, cầu kỳ kể cả đội chiếc mũ miện có gắn kết hình chim phượng cùng nhiều chuỗi đá, pha lê lấp lánh. Vậy nên, tài năng của người nghệ sĩ dân gian tạc tượng được rất ít người biết đến. Được biết, pho tượng này do anh Sáu Phước, chủ một xưởng chế tác đá ở Long Thành Trung hiến tặng.
Hai pho tượng vừa kể chỉ là tượng mới! Thế còn tượng xưa của Bà có trong khá nhiều ngôi chùa, miếu Tây Ninh? Pho cổ nhất, theo truyền thuyết cũng như Huỳnh Minh chép trong sách Tây Ninh xưa là pho tượng do “vua Gia Long truyền cho quan địa phương đúc cốt bà Đênh bằng đồng đen mà thờ tại động trên non linh”. Nếu đúng vậy thì tượng đã có hơn 200 năm tồn tại. Số phận pho tượng này cũng rất long đong, lận đận. Mà sự lận đận này có khi lại bắt nguồn từ chính truyền thuyết về pho tượng. Ấy là vào khoảng năm 1945- 1946 khi lính Pháp tái chiếm Tây Ninh, chúng cho quân lên chiếm núi Bà. Nghe đồn tượng quý nên lính Pháp đã lấy đem về tỉnh bán. Chuyện không rõ vì sao mà sau đó tượng lưu lạc đến đền thờ Phật mẫu của Tòa thánh Cao Đài. Theo lời kể, cô Mười – một vị sư phụ trách điện Bà khi ấy đã về chùa Vĩnh Xuân lánh giặc, do được Bà mách bảo trong giấc chiêm bao, nên đã đi “xin” lại. Đến năm 1957, sau hơn 10 năm lưu lạc rồi pho tượng cũng được trở về an vị tại chùa Phước Lâm – chi nhánh của cụm chùa núi Bà Đen.
Sự thật là không có đồng đen, mà tượng bằng đồng đỏ, được đúc rỗng, cao khoảng 60cm. Phần đế phía sau bị móp, có lẽ do vết đạn bắn thời Pháp chiếm. Không một con số hoặc chữ nào để người xem biết tượng đúc năm nào. Nhưng cứ nhìn vào khối tượng, cũng có thể đoán là tượng xưa nhất. Bởi hình tượng còn gần gũi với người bình thường nhất. Cũng tóc bới cao với một vài vành khăn buộc giản đơn. Mũi thẳng, mày cong, mắt dõi xa xăm về phía trước. Tư thế ngồi vô cùng gần gũi, thân quen; chân trái xếp bằng, gối phải chống lên, tay phải đặt trên gối, tay trái nâng một cành sen. Trông bà y hệt một phụ nữ Nam bộ trên những trang sách xưa viết, vẽ về con người Nam bộ. Ngay sau tượng Bà trên cung thờ, còn có một bộ ba tượng gỗ. Ngoài pho chính, còn có 2 pho đứng hai bên, là các cậu Tài, cậu Quý – những người thân tín theo hầu. Ở pho tượng gỗ này, hình tượng về Bà đã được trau chuốt và “quan trọng hóa” hơn, bởi Bà đã “ngồi ngai” với mão áo, trang sức cầu kỳ lộng lẫy. Điều khác biệt lớn nhất là ở tay phải nâng một nhành hoa, không phải hoa sen.
Ngay trên điện Bà hiện nay, ngoài các pho tượng đã kể, vẫn cần biết một pho tượng mới. Đó là vào năm 2011, sau khi hoàn thành chuông lớn núi Bà nặng hơn 6 tấn, còn dư lại một khối lượng đồng. Ni trưởng Viện chủ mới đề nghị đúc thêm một tượng Bà, có thêm một số nữ trang vàng, bạc bỏ vào để nấu. Thế mới có một pho tượng đồng rất đẹp, được bày ngay phía trước cung thờ Bà trong điện. Đến lúc này chăng, hình tượng về Bà mới thật rõ ràng, sinh động. Tượng vừa có sự kế thừa pho tượng cổ xưa của núi, với tư thế chống gối phải, nâng cầm tay trái; lại vừa có sự minh triết trên nét mặt trầm tư tĩnh tại của một bậc chân tu.
Hoặc là Bà linh thiêng biến hóa. Hoặc là tượng luôn có gì đó gần gũi với con người tại thời điểm được sinh ra. Ngắm những pho tượng này thôi, cũng đủ để hình dung một phần lịch sử tu tụng ở núi Bà – đã một phần tư thiên niên kỷ trôi qua dưới trời mây trắng.
Theo Trần Vũ (Tây Ninh Online)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét