Bài, ảnh: Hiền Lê
(Dân Việt) Đến Châu Đốc lần nào, tôi cũng tự nhủ lòng phải đến viếng mộ cụ Thoại Ngọc Hầu, còn gọi là Sơn Lăng, nằm trong cụm di tích Núi Sam, phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc (tỉnh Anh Giang). Người dân đất phương Nam luôn tự hào và và biết ơn cụ, một danh thần kiệt xuất và là người đã góp phần khai kênh, mở làng vùng đất Nam Bộ này.
Theo ghi chép tại Sơn Lăng, cụ Thoại Ngọc Hầu (1761 – 1829), tên thật là Nguyễn Văn Thoại, quê làng Diên Phước, tỉnh Quảng Nam (nay thuộc thành phố Đà Nẵng). Từ nhỏ, ông đã theo gia đình sống định cư tại làng Thới Bình nằm trên cù lao Dài, sông Cổ Chiên (nay thuộc xã Thanh Bình, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long). Nguyễn Văn Thoại có chánh thất phu nhân là bà Châu Thị Tế, người phụ nữ nổi tiếng nhân hậu, đảm đang được người làng Thới Bình ngày xưa vô cùng ngưỡng mộ.
Căn cứ vào Quốc sử quán triều Nguyễn chép, năm 17 tuổi ông đầu quân cho Nguyễn Ánh tại Ba Giồng (Định Tường) và có mặt trong nhiều trận đánh giữa quân của Nguyễn Ánh và quân Tây Sơn. Trong thế trận giằng co đó, nhiều lần Nguyễn Ánh phải bỏ thành Gia Định lưu vong. Nguyễn Văn Thoại có mặt trong đoàn phò giá Nguyễn Ánh chạy trốn sự truy đuổi của quân Tây Sơn, được Nguyễn Ánh tin dùng cử đi sứ sang nước Lào… nhằm tìm kiếm sự cứu viện để giành lại vùng đất đã mất vào tay đội quân Tây Sơn.
Khoảnh khắc lưu niệm bên lăng cụ Thoại Ngọc Hầu. (ảnh: Hiền Lê)
Năm 1802 (Nhâm Tuất), Nguyễn Ánh lên ngôi, lấy niên hiệu Gia Long, thăng thưởng cho bề tôi. Nguyễn Văn Thoại được thăng chức Khâm sai Thống binh Cai cơ, rồi Khâm sai Thống binh Chưởng cơ, quản suất biền binh lưu thủ Bắc Thành. Ông được vua giao Trấn thủ Lạng Sơn (1803) một thời gian rồi được triệu về kinh và được vua Gia Long (niên hiệu của Nguyễn Ánh) cử làm Trấn thủ Vĩnh Thanh.
Năm 1819, vua truyền cho Gia Định thành lo việc đào kinh từ Châu Đốc thông ra Hà Tiên (đặt tên là kinh Vĩnh Tế), lệnh cho quan Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại chỉ huy dân binh khởi công vào ngày Rằm tháng Chạp. Đây là công trình ghi dấu ấn quan trọng trong cuộc đời của cụ Thoại Ngọc Hầu, phải huy động đến khoảng 80.000 nhân công, lúc cao điểm có mặt hàng chục ngàn người, đào kinh chỉ với công cụ thô sơ, trong điều kiện hết sức gian khổ. Có tài liệu ghi nhận số người chết do dịch bệnh, tai nạn lên đến 6.000 người. Đến tháng 5 năm Giáp Thân (1824) thì hoàn thành con kinh dài hơn 90 km nối từ sông Hậu (Châu Đốc) thẳng ra biển Hà Tiên.
Ông là người đầu tiên có công khai phá vùng đất Nam bộ, khai khẩn đất hoang hóa, cải tạo đồng hoang thành làng mạc, lập nên 10 làng, ấp và xây nhiều đình chùa ở tỉnh Vĩnh Long và An Giang. Trong đó, nổi bật nhất là tiến hành đào hai con kênh Vĩnh Tế và Thoại Hà dài trên 100 km từ An Giang ra tận Biển Tây, tạo thành tuyến thủy lộ nội địa quan trọng để vận chuyển hàng hóa, giúp dân đi lại dễ dàng, giao thương mua bán, chấm dứt tình trạng đi đường vòng bằng đường biển, đặc biệt là đảm bảo an ninh quốc phòng và phát triển du lịch.
Để tưởng nhớ công ơn của ông, sau khi danh thần Thoại Ngọc Hầu mất, nhân dân tỉnh An Giang đã an táng, lập đền thờ ông tại phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc và đưa di tích lăng cụ vào quần thể di tích kiến trúc lịch sử văn hóa cấp quốc gia gồm: Lăng Thoại Ngọc Hầu, Miếu Bà Chúa Xứ, chùa Tây An, chùa Phước Điền (còn gọi là Chùa Hang). Đối với người dân Châu Đốc nói riêng và người dân Nam Bộ nói chung luôn tự hào và biết ơn vị danh tướng thời xưa có công khai kênh, lập làng tại vùng đất phương Nam này để người dân được an cư lạc nghiệp.
Kho báu trong mộ cổ: Cổ vật châu Âu làm đồ tùy táng
Kho báu tìm thấy trong lăng Thoại Ngọc Hầu (An Giang) có rất nhiều hiện vật mang nguồn gốc châu Âu thế kỷ 18, 19.
Đồ pha lê lần đầu tìm thấy ở VN
Đây là những hiện vật pha lê lần đầu tiên tìm thấy ở VN được làm rõ nguồn gốc xuất xứ, niên đại chuẩn, thuộc loại hình đồ gia dụng: tô bát, thố, đĩa, bình rượu, lọ nước hoa, dầu thơm, dầu gió, lọ hít thuốc... với nhiều màu sắc: trắng, xanh, tím biếc... Nhiều hiện vật khắc mài đề tài hoa lá, dát vàng hoa văn rất tinh xảo, màu sắc, độ trong và bóng không khác xa so với các sản phẩm thủy tinh pha lê hiện nay. Nhiều nhà khoa học đánh giá đây là những sản phẩm cao cấp nhất của đồ thủy tinh pha lê châu Âu đương thời. Nhóm hiện vật thủy tinh pha lê tìm thấy trong khu lăng Thoại Ngọc Hầu hiện nay được coi là quý hiếm và chứa đựng rất nhiều giá trị về lịch sử văn hóa.
Niên đại của nhóm di vật này được xác định muộn nhất là năm 1829 - năm mất của Thoại Ngọc Hầu. Do tính chất vật lý, vật liệu thủy tinh pha lê rất mong manh, dễ nứt vỡ do ngoại lực tác động trong quá trình sử dụng, nên cho đến nay, việc tồn tại các loại hình cổ vật thủy tinh pha lê giai đoạn thế kỷ 17 - 19 là rất ít. Vì thế trước đây, đại đa số nghiên cứu khi tiếp cận các di vật thủy tinh pha lê đều né tránh, hoặc giám định, định niên đại một cách tương đối mơ hồ: xếp chung niên đại của các đồ thủy tinh vào cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20 và xác định nguồn gốc của chúng là từ sau khi Pháp xâm lược VN (1858).
Sự xuất hiện đồ thủy tinh ở VN vào giai đoạn thế kỷ 18 lần đầu tiên được sử liệu ghi chép qua tác phẩm Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn. Sản phẩm có nguồn gốc xuất xứ từ các quốc gia châu Âu, theo chân các nhà truyền giáo và các nhà ngoại thương, đặc biệt là các công ty Đông Ấn châu Âu đem đến
Đàng Trong thời chúa Nguyễn và phổ biến ở thời Nguyễn. Thậm chí, những sản phẩm thủy tinh pha lê dưới thời Nguyễn ở VN một số còn được coi là đồ thượng phương. Tháng 6.1824, Tổng trấn Lê Văn Duyệt khi trên đường trở về Gia Định, vua Minh Mạng sai Trung sứ mang cho một cái ống điếu bằng pha lê màu biếc bịt vàng là đồ thượng phương.
TS Phạm Hữu Công - Thư ký Hội đồng Khoa học giám định - cho biết nhiều hiện vật có màu sắc và kỹ thuật tạo dáng giống với những vật phẩm thủy tinh pha lê đã được chính sử triều Nguyễn ghi chép liên quan đến việc vua Minh Mạng dâng tặng thái hậu, ban tặng cho công chúa, các quan lại đại thần và những vật phẩm bang giao. Các hiện vật pha lê thủy tinh trong khu lăng Thoại Ngọc Hầu cho thấy đời sống sinh hoạt của gia đình danh tướng nơi biên viễn và đặc biệt là nguồn gốc xuất xứ của chúng đã góp phần xác nhận sản phẩm giao thương của cảng thị Hà Tiên trong thời gian dài ông Kiêm quản trấn thủ. Điều này đã góp thêm một nguồn sử liệu vật chất quan trọng trong việc nghiên cứu và làm rõ những hoạt động của cảng thị Hà Tiên trong lịch sử - một cảng thị nổi tiếng ở khu vực châu Á thế kỷ 17 - 19.
Những đồng tiền quý của châu Âu
Bên cạnh những di vật pha lê thủy tinh có nguồn gốc từ châu Âu tìm thấy trong lăng Thoại Ngọc Hầu, còn có những đồng tiền quý của các công ty Đông Ấn châu Âu rất quý hiếm trên thế giới.
20 đồng bạc Tây Ban Nha hình tròn dẹp bằng bạc có chữ Latin và các hình chạm trên cả 2 mặt. Đường kính: từ 3,5 - 3,8 cm. Dày: 0,1 - 0,2 cm. Loại này cũng được phân chia bằng nhau: bà và ông mỗi người sở hữu 10 đồng. Niên đại của các đồng này ghi trên mặt các đồng tiền gồm những năm trong thời kỳ trị vì của 4 vị vua Tây Ban Nha là: Ferdinand đệ Lục (trị vì 1747 - 1759), Charles đệ Tam (1760 - 1778), Charles đệ Tứ (1797 - 1799), Joseph (1812). Các đồng tiền này được cho là lưu thông trên toàn thế giới vào thời bấy giờ.
Trong di vật của Chính thất phu nhân Châu Thị Tế có 2 đồng tiền vàng Bồ Đào Nha đường kính 2,9 cm, dày 0,25 cm. Vòng ngoài rìa có hàng chữ nữ hoàng Bồ Đào Nha Joannes. Trong là hình nữ hoàng nhìn nghiêng. Mặt lưng hình quốc huy Bồ Đào Nha với vương miện trên khiên tròn xung quanh là hoa lá dây. Đồng vàng này được phát hành tại Lisbon. Chưa biết được tại sao 2 đồng tiền vàng này lại là sở hữu của gia đình Thoại Ngọc Hầu mà chỉ có trong di vật của bà bên phía ông hoàn toàn không có. Có thể là một phái đoàn Bồ Đào Nha nào đó đã ghé thăm gia đình quan Án thủ Châu Đốc - Kiêm quản trấn cảng Hà Tiên và tặng 2 đồng vàng này.
TS Phạm Hữu Công xác định: Bộ sưu tập tiền của ông bà Thoại Ngọc Hầu để lại hầu như hoàn toàn trùng lắp với một số phát hiện khảo cổ gần đây tại Nam bộ, điển hình là Tiền Giang và Kiên Giang. Điều đó chứng tỏ có sự giao lưu hoặc buôn bán thương mại giữa cư dân Nam bộ với châu Âu hoặc Công ty Đông Ấn châu Âu thông qua các cơ sở ở Ấn Độ và vai trò của quan Án thủ Châu Đốc Thoại Ngọc Hầu có thể là khá tích cực. Tuy nhiên sau khi Thoại Ngọc Hầu mất vào năm 1829 không có hoạt động ngoại thương nào được ghi nhận, có lẽ chính sách “bế quan tỏa cảng” của thời Minh Mạng đã tác động mạnh mẽ, dập tắt đi những mầm chồi mới nở đó.
Cho đến nay về khảo cổ học tuy chưa có ghi nhận cụ thể về việc tàu thuyền hoặc thương nhân thuộc Công ty Đông Ấn châu Âu đã từng đến Nam bộ và cũng chưa tìm ra địa điểm giao dịch trao đổi hàng hóa ở Nam bộ thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19 nhưng loại tiền nói trên là dữ liệu quý báu để có thể tiếp tục nghiên cứu vấn đề này.
Lương Chánh Tòng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét