Chủ Nhật, 1 tháng 11, 2015

Những chuyện kỳ bí khó giải về đền thờ thần Long Đỗ

Đền Bạch Mã thờ thần Long Đỗ đã được coi là một trong những vị trí trấn yểm hàng đầu của nước Nam thời bấy giờ.

Huyền tích về thần Long Đỗ
Trong lịch sử nước Việt, thân thế của thần Long Đỗ chưa được làm rõ ngoài một vài ý kiến, căn cứ vào những cuốn sách như Việt điện u linh, Báo cực truyện và Giao châu kí. Theo đó, thần Long Đỗ chính là Tô Lịch, sinh thời làm quan ở Long Đỗ, tiên tổ cư ngụ ở đó đã lâu đời, dựng làng bên bờ con sông nhỏ.
Nhung chuyen ky bi kho giai ve den tho than Long Do
Đền Bạch Mã. 
Huyền thoại và lịch sử đền Bạch Mã thờ thần Long Đỗ, hay còn gọi là Tô Lịch giang thần, Thành hoàng Hà Nội gốc không có nhiều dị bản. Tất cả những sử sách ghi lại đều cho rằng đền thờ thần Long Đỗ có liên quan mật thiết đến người được mệnh danh là nhà phong thủy Cao Biền.
Trong cuốn “Việt điện u linh tập” của Lý Tế Xuyên còn ghi lại nguồn gốc và thời điểm xây dựng đền thờ thần Long Đỗ rất rõ ràng. Câu chuyện này gắn liền với Cao Biền, một viên quan Bắc triều được phái tới đô hộ nước ta ở giai đoạn cuối thời kỳ Bắc thuộc. Do triều Đường ở phương Bắc bấy giờ đã vào thời kỳ mục ruỗng, suy yếu trầm trọng nên để duy trì sự cai trị đối với nhân dân ta, quân thần Đường Hàm Thông gắng sức xây lên hình ảnh một Cao Biền đầy tài phép, đưa sang nước ta, trấn yểm mọi bề để long mạch triều Đường không bị xâm hại.
“Việt điện u linh tập” chép rằng, năm 866 Cao Biền khi ấy đã đắp xong thành Đại La bèn ra cửa Đông dạo chơi. Bỗng đâu gió nổi, mây mù, một người cao lớn mặc áo gấm cưỡi rồng ẩn hiện. Cao Biền sợ hãi, ngay lập tức nảy sinh ý định lập bùa trấn yểm. Đêm đó, Cao Biền nằm mộng thấy vị thần cao lớn ấy hiện ra khoan thai nói: “Ta là tinh anh ở Long Đỗ. Nghe tin ông đắp thành nên đến chơi. Việc gì phải trấn yểm?”. Tỉnh dậy, Cao Biền bèn lấy vàng, đồng và bùa chôn xuống đất để trấn yểm. Việc vừa làm xong, một trận cuồng phong nổi lên, vàng, đồng và bùa của Cao Biền bị đánh tan thành tro bụi. Cao Biền hoảng hồn, than thở “Ta phải về phương Bắc mất thôi!” rồi lập tức cho người lập đền thờ thần Long Đỗ. Quả nhiên, sau đó ít lâu Cao Biền bị triệu về cố quốc và phải chết tức tưởi.
Trong thời Bắc thuộc, các thứ sử, thái thú khi đắp thành, trị nhậm vùng Long Đỗ đều phải cầu khấn, xin phép ngài. Ngài đã từng hiện lên phá nát đàn trấn yểm của Cao Biền khiến Cao Biền phải thở than và trở về Bắc quốc. Thần hiệu của thần thời Lý phong là Quốc đô Thành hoàng Đại vương. Nhà Trần gia phong là Bảo quốc Trấn linh Định bang Quốc đô Thành hoàng Đại vương. Kết quả kết hợp Thần và Phật trong thờ tự để làm nên tên gọi Bạch Mã linh từ chắc diễn ra ở đầu thế kỉ XI, khi xây dựng kinh thành Thăng Long.
Nhung chuyen ky bi kho giai ve den tho than Long Do-Hinh-2
Ngựa trắng được thờ trong điện. 
Đền Bạch Mã – Đông trấn Thăng Long
Theo cuốn Việt sử giai thoại của nhà sử học Nguyễn Khắc Thuần, tương truyền khi Lý Công Uẩn dời kinh đô từ Hoa Lư đến Đại La, đổi tên là Thăng Long. Sau khi dời đô ra Thăng Long, để tiện việc phòng bị giặc giã, Lý Công Uẩn, vị vua khai sáng triều Lý bắt tay ngay vào việc đắp luỹ xây thành. Tuy nhiên, điều kỳ lạ là thành xây đến đâu, dù gia cố thế nào cũng vẫn bị sụp đổ. Thấy việc dựng thành gặp khó khăn, Vua Lý Thái Tổ bèn tới đền thờ thần Long Đỗ - được dân gian coi là thần cai quản chốn Đại La – cầu đảo, xin được phù trợ. Đêm đó, Nhà Vua nằm mộng thấy thần Long Đỗ nói rằng, cứ theo dấu chân ngựa mà đắp thì thành tất sẽ vững vàng. Thần vừa dứt lời, một con ngựa trắng từ trong đền đi ra, thủng thẳng bước từ hướng Tây, rẽ qua hướng Đông một vòng rồi lại biến mất vào trong đền.
Hôm sau, Lý Thái Tổ cho đắp thành theo dấu chân bạch mã trong giấc mộng. Quả nhiên, thành Thăng Long không bị lún sụt nữa. Nhà Vua cảm kích trước sự phò trợ của thần Long Đỗ bèn ban sắc phong thần làm Quốc đô Định bang Thành hoàng Đại vương, lại cho tạc một bức tượng ngựa trắng để thờ trong đền và đặt tên cho ngôi đền thờ thần Long Đỗ thành Bạch Mã linh từ (đền thiêng Ngựa Trắng).
Hiện tại đền có 13 hoành phi, văn bia nói về thần Long Đỗ và Bạch Mã, ngoài ra còn nhiều hiện vật có giá trị khác như Cỗ Long ngai có hàng chữ ghi tên vị thần được thờ chính, ở đây là “Long Đỗ Thần quân quảng lợi Bạch Mã Đại vương”, bức hoành phi “Đông trấn linh từ”.
Đến đời Lý Thái Tông, Nhà Vua cho mở phố chợ về Cửa Đông, hàng quán chen chúc, sát tới bên đền, rất huyên náo. Vua muốn dựng đền ra một chỗ khác song lại nghĩ rằng một ngôi đền cổ không nên dời đi, bèn sửa sang lại đền liền với các nhà ngoài phố, riêng để một ngôi nhà bên trong làm nơi thờ thần. Đêm đến, thần hiển linh nổi trận gió bắc rất to, các nhà bên đều đổ, duy chỉ đền thờ thần là nguyên vẹn. Vua Thái Tông lấy làm lạ hỏi, có người biết, tâu rõ việc hiển linh của thần từ trước. Vua mừng nói: “Đó thật là vị thần coi việc nhân gian”.
Thấy đền linh thiêng, là nơi có thể dựa vào để bảo vệ dân, giữ nước, Đức Vua đã xuống chiếu cho sửa lễ tế đền và đặt lệ mỗi năm cứ đầu mùa xuân lại đến làm lễ cầu phúc cho dân an hưởng thái bình, đất nước vững bền, thịnh trị. Ông cũng sắc phong thần là Quảng Lợi vương.
Một điều lạ lùng mà rất nhiều sử sách ghi lại, thậm chí Thái sư Trần Quang Khải cũng đã từng làm thơ nói về vấn đề này là sự trường tồn cùng thời gian của đền Bạch Mã. Theo đó, dù xung quanh đền đã phải hứng chịu tới 3 cuộc hỏa hoạn lớn nhưng đền đều… vô can. Ngoài ra, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, bom B52 rải thảm ở miền Bắc, mọi thứ xung quanh đền đều bị tàn phá, riêng ngôi đền Bạch Mã vẫn uy nghi, vững chãi. Trong lịch sử, từng có bài thơ của Thượng tướng, Thái sư Trần Quang Khải với 2 câu tỏ ý kinh ngạc trước sự linh thiêng của đền Bạch Mã như sau: “Lửa bốc ba lần không cháy đến/Gió lừng một trận chẳng hề nghiêng!”.
Có thể thấy, khí phách linh diệu của tinh thần dân tộc mấy nghìn năm được thể hiện qua những lần thần Long Ðỗ - Bạch Mã che đỡ cho oai phong đất Rồng chống lại các thế lực hắc ám, mưu toan nô dịch hoặc cản phá sự dựng xây kinh đô Ðại Việt, còn tài tình hiển hiện trong ba lần hỏa tai mà đều phải khựng lại lại càng chứng tỏ được vị thế “tứ trấn Thăng Long” của đền Bạch Mã.
Theo Báo Pháp Luật

Ly kỳ cuộc đấu phép giữa Cao Biền và thần Long Đỗ

(Kiến Thức) - Thế kỷ 9, Cao Biền được triều Đường cử sang làm Tiết độ sứ ở An Nam. Đây là một viên quan được cho là rất giỏi phong thủy, đã trấn yểm nhiều long mạch của nước ta. Tuy nhiên Cao Biền đã phải chịu thất bại khi gặp linh khí đất Thăng Long. 

Thần Long Đỗ là một trong bốn vị thần linh thiêng ở Thăng Long – Hà Nội. Ngày nay, đền thờ thần còn gọi là đền Bạch Mã nằm ở số 76 phố Hàng Buồm, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đền Bạch Mã cũng chính là một trong Thăng Long Tứ Trấn nổi tiếng ở đất kinh kỳ. Sự tích về thần Long Đỗ gắn chặt với các sự kiện lớn của đất Thăng Long. Bởi thế, ngài còn được coi là Thành hoàng của kinh đô. Một trong những sự tích ly kỳ nhất về thần Long Đỗ được dân gian truyền tụng là việc phá sự trấn yểm của Cao Biền. 

Cuối thời Đường, sự phản kháng của nhân dân ta ngày càng tăng lên. Những cuộc khởi nghĩa của Phùng Hưng, Mai Thúc Loan tuy cuối cùng đều bị đàn áp song đã làm lung lay thêm cái nền đô hộ mấy trăm năm của giặc phương Bắc. Trong bối cảnh ấy, Cao Biền được triều Đường cử sang làm tiết độ sứ cai trị dân ta (năm Bính Tuất – 866 theo Đại việt sử ký toàn thư, kỷ thuộc Tùy Đường). 
 Đền Bạch Mã – nơi thờ thần Long Đỗ.
Sử sách và cả truyện dân gian truyền miệng nói khá nhiều về viên Tiết độ sứ này. Xung quanh nhân vật này hiện lên những ánh hào quang lung linh thần thoại. Người ta truyền rằng, sau khi đã yên vị chức Tiết độ sứ ở An Nam, Cao Biền bèn cưỡi chim thần đi khắp nước Việt để xem hết các phúc địa. Hễ thấy chỗ đất nào có “long mạch” (chỗ đất tốt khi táng mồ mả ông bà vào đó thì con cháu sau này phát đế vương) thì dùng tà phép trấn yểm hết để người Việt mãi mãi không vùng lên được. Nào là chuyện vãi hạt đậu thành binh lính, nào là việc trồng cây, đào hào để phá long mạch. Các câu chuyện cổ tích, thần thoại thì luôn luôn hấp dẫn về sự tài phép và luôn được người kể thêu dệt thêm cho nên lại càng lung linh huyền ảo. 

Cao Biền tài phép là thế nhưng rồi y cũng phải bó tay chịu thất bại ở ngay trong chính đất Đại La – thủ phủ mà y chọn để cai trị nước ta. Trong sáchViệt Điện U Linh có một giai thoại kể rằng: Khi Cao Biền đang cho đắp thành Đại La thì thấy trời đất tối đen lại, một vị thần ngồi trên lưng rồng vàng lượn quanh thành mới đắp một vòng. Y rất là run sợ, vội đem vàng và đồng đúc thành một tượng theo hình dáng vị thần trong mơ rồi dùng bùa để trấn yểm. Đêm đó, Cao Biền nằm mơ thấy vị thần ấy nói rằng: Ta là thần Long Đỗ, tinh anh của khí thiêng sông núi nơi đây việc gì mà phải trấn yểm. Sáng hôm sau, Cao Biền sai người đi xem lại những chỗ đã trấn yểm thì thấy đồng sắt đều tan nát cả. Sau đó, Cao Biền sợ hãi lập đền Long Đỗ thờ thần ở trong thành. Đánh giá về giai thoại này, nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Thuần cho rằng, đó là một biểu hiện phản kháng trong lĩnh vực văn hóa. Nếu như nhà Đường cố tạo cho Cao Biền nhiều tài phép để hù dọa dân ta, thì "vỏ quýt dày có móng tay nhọn", dân ta cũng có một vị thần không sợ tài phép của Cao Biền. 

 Tranh mô tả Cao Biền bay đi quan sát sông núi nước ta để trấn yểm các long mạch.
Gần 200 năm sau, khi Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long (1010) cũng lại có một giai thoại nữa liên quan đến thần Long Đỗ. Khi nhà vua đi thuyền từ Hoa Lư ra đến thành Đại La, thuyền vừa cập bến thì thấy rồng vàng bay lên bèn đổi tên Đại La thành Thăng Long. Việc đầu tiên Thái Tổ quan tâm là xây dựng Thăng Long thành một trung tâm kinh tế, chính trị của cả nước. Triều đình đã xuất nhiều tiền của, huy động nhiều sức dân để đắp thành Thăng Long. Nhưng quái lạ là thành cứ đắp xong thì lại bị sụt lún. Nghe tiếng thần Long Đỗ linh thiêng, nhà vua đến cầu khấn. Sau đấy, vào một buổi sáng từ đền thờ thần Long Đỗ hiện ra một con ngựa trắng đi từ đền ra quanh khu vực thành đang đắp. Ngựa đi một vòng để lại dấu chân rồi trở về đền và biến mất. Nhà vua y dấu chân ấy xây thành thì thành không bị sụt nữa. Từ đấy đền có tên nữa là đền Bạch Mã.

Thực ra đây là một mô típ đã có từ thời cổ. Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ngoại kỷ còn chép chuyện An Dương Vương xây thành Cổ Loa. Khi ấy, thành cứ xây xong lại đổ xuống. Sau thành chỉ đứng vững được khi xây theo dấu chân thần Kim Quy. Nhà chép sử nổi tiếng Ngô Sĩ Liên đã có lời bàn rằng: chuyện rùa vàng có đáng tin không? …. An Dương Vương hưng công đắp thành có phần không dè dặt sức dân, cho nên thần minh nhập vào rùa vàng để răn bảo, thế chẳng phải là làm cho dân oán trách quá mà đến thế ư?

Thần Long Đỗ hay thần linh nào nữa cũng đều ở tâm linh con người mà ra. Đó chẳng qua là sự phản ánh những tâm tư nguyện vọng và cả sự phản kháng của người dân trước những thực tế xã hội. Chính người dân Thăng Long đã gắn bó với thủ đô ngàn năm tuổi này. Và cũng từ thế giới tâm linh của họ mới xuất hiện những vị thần linh luôn có mặt mỗi khi Thăng Long nói riêng và dân tộc nói chung đứng trước những bước ngoặt quyết định.
Vũ Tiến Đức


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét