Thanh Lan - dang dở tình cuồng
Thanh Lan trên bìa băng Nhạc trẻ 6 và trong phim Xin đừng bỏ emẢNH: TƯ LIỆU
Khoảng đầu năm 1971, Lệ Thu hết hợp đồng với Jo Marcel, đi Nhật du lịch và khi trở về hát ở Tự Do thì “tiếng hát học trò” Thanh Lan đã làm mưa làm gió tại Ritz.
Theo nhận xét của báo giới thì Thanh Lan đi hát phòng trà không thành công bằng khi hát trên ti vi trong các chương trình Tiếng tơ đồng, Hoa thời đại, Tiếng hát 20 và nhất là khi đóng phim.
Thanh Lan thuộc loại có trình độ và xinh xắn so với “mặt bằng” nữ ca sĩ lúc bấy giờ. Từ năm 9 tuổi, cô học dương cầm với các sơ ở Trường Saint Paul (Sài Gòn), sau đó được vợ nhạc sĩ Thẩm Oánh và nhạc sĩ Nghiêm Phú Phi hướng dẫn. Ngoài giờ học nhạc, Thanh Lan còn là nữ sinh của Trường Marie Curie, bắt đầu hát trong ban Việt Nhi của nhạc sĩ Nguyễn Đức. Khi phong trào nhạc trẻ phát triển mạnh, Thanh Lan tham gia vào ban Hải Âu của nhạc sĩ Lê Hựu Hà.
Sau này, Thanh Lan xuất hiện nhiều trên đài truyền hình. Có đêm, trên ti vi Thanh Lan hát trong hai chương trình của hai ban nhạc khác nhau. Một cây bút chuyên “điểm mặt ti vi” của báo Kịch Ảnh đã nhận xét: “Khi còn là ca sĩ “tài tử”, Thanh Lan đến với khán giả với khuôn mặt sáng, ánh mắt long lanh, nụ cười thật xinh với nốt ruồi nhỏ bên bờ môi hồng. Người ta mê nàng khi nàng cười, người ta thương nàng khi nàng nhỏ lệ trong một bài ca sầu muộn. Thanh Lan có lối trang điểm nhẹ nhàng, mái tóc, quần áo nàng cho ta thấy dáng dấp một sinh viên trường đầm nhưng hát nhạc Việt thật hay. Từ ngày nàng xuất hiện đều đều trong rất nhiều show trên ti vi để trở thành một ca sĩ nhà nghề, một tài tử điện ảnh, người ta thấy Thanh Lan diêm dúa hơn với những trang sức tòn ten trên tai, trên cổ, chiếc áo dài ngắn hơn, hippy hơn và nhất là gương mặt nàng được trang điểm khác đi. Người ta “buồn năm phút” khi thấy nhan sắc Thanh Lan xuống dốc chỉ vì một sự vụng về”.
Bi kịch từ người chồng ghen tuông
Có phải vì hát dưới ánh đèn phòng trà khiến cho Thanh Lan quen với lối trang điểm rực rỡ không phù hợp với ti vi? Hay là sự trang điểm này để che bớt những giọt lệ sầu đau của cuộc hôn nhân giữa nàng và người chồng mang tên D.Long Biên. Theo báo chí thuật lại thì ông P.M.D là một người chồng ghen kinh khủng. Lúc Thanh Lan đóng một cảnh khỏa thân trong phim Tiếng hát học trò đã gây cho ông sự bực tức và khi nàng đóng những cảnh yêu đương táo bạo với Huy Cường và Huỳnh Thanh Trà trong Xin đừng bỏ em thì D. đã tát Thanh Lan hai bạt tay nảy lửa. Thanh Lan sợ và chán nên sống gần như ly thân với chồng, về sống với ba má tại căn nhà ở Đa Kao, Sài Gòn.
Ghê nhất là khi Thanh Lan đậu cử nhân văn khoa, có tổ chức tiệc tại quán bò bảy món Ánh Hồng (Phú Nhuận) vào tối 9.8.1972, mời đại úy không quân L. đến dự. Vừa thấy viên đại úy, D. đã giựt con dao ở xe bánh mì chém ông này.
Dù chỉ là một chuyện hiểu lầm, theo Thanh Lan phân trần, nhưng có phải vì sự ghen tuông quá cỡ mà cuộc hôn nhân của hai người đã tan vỡ. Nhưng cũng “may” cho ông D., nếu như giữa ông và Thanh Lan không chia tay thì chắc chắn ông sẽ chịu đựng một xì căng đan vì Thanh Lan đã đóng những “cảnh” trăm phần trăm với tài tử Nhật Bản và chắc gì ông chịu nổi.
Thanh lan “hở” trăm phần trăm (?)
Vào những ngày cận tết năm 1974, Thẩm Thúy Hằng ra mắt sự kiện hợp tác điện ảnh của hai hãng phim Amino (Nhật) và Viliphim của nữ nghệ sĩ này, thực hiện bộ phim Tình khúc thứ 10.
Người đóng vai chính phim sẽ là Thẩm Thúy Hằng? Các ký giả có mặt trong buổi họp báo đều nghĩ như thế vì cô đang là nữ minh tinh nổi tiếng, lại đóng phim cho hãng nhà. Nhưng không. Khi Thẩm Thúy Hằng công bố vai nữ chính là Thanh Lan với thù lao đóng phim khá lớn, hơn 1 triệu đồng thời đó, ai cũng ngạc nhiên.
Sau này, các ký giả mới hiểu lý do là trong phim có những cảnh yêu đương, nữ diễn viên VN phải cởi đồ hoàn toàn trước tài tử Nhật mà nữ tài tử họ Thẩm không muốn mang tai tiếng. Báo Sân khấu mới, số 214, ra ngày 26.3.1975 có viết một đoạn về bộ phim này: “Dư luận xôn xao vụ phim playboy VN - Thanh Lan làm tình thiệt và chấp nhận cởi tuốt luốt. Và càng táo bạo hơn, phái đoàn quay phim đã ra tận ngoài miền Trung thực hiện một cảnh gọi là “lắc lư con thuyền trôi”, từ ngày 2 - 10.3.1975. Nghĩa là trong khoảng thời gian này, có đoạn vào những đêm, Thanh Lan và chàng tài tử Nhật phải mướn thuyền trên sông Hương, rồi trong khoang thuyền, Thanh Lan với thân thể tuốt luốt để mặc cho chàng tài tử hành sự... trước ống kính của nhà thu hình và ông đạo diễn người Nhật. Cảnh quay đó kéo dài mỗi bận từ hai đến ba tiếng đồng hồ. Trong chuyến đi này, ngoài Thanh Lan là người Việt còn có nghệ sĩ Tú Trinh, Đoàn Châu Mậu, Tùng Phình. Những người này được lệnh của đạo diễn Nhật phải ở trên bờ ngó xuống... chớ không được phép tới gần để biết trong khoang thuyền xảy ra những gì”.
Khi bị dư luận báo chí lên tiếng, phía Nhật đã trấn an ngay bằng cách cho biết phim Tình khúc thứ 10, nếu có chiếu ở VN thì không bao giờ có cảnh Thanh Lan sexy và làm tình. Những đoạn phim “đắt giá” đó chỉ chiếu ở Nhật thôi. Khán giả Nhật rất mê khi Thanh Lan qua đó hát cùng với Phạm Duy và Ngọc Chánh. Cũng may vì thời gian hoàn thành bộ phim đã gần đến ngày 30.4.1975, nếu không thì chẳng biết Thanh Lan sẽ chịu búa rìu dư luận như thế nào? Hay đây chỉ là một nghi án của báo chí, nhưng dù sao cũng đã rầm rộ trên diễn đàn công luận một thời.
Những người đẹp của Đêm Màu Hồng
Phòng trà Đêm Màu Hồng có “độc quyền đặc chủng” ban hợp ca Thăng Long, tam ca Đông Phương.
Đúng, nhưng chỉ có như vậy thì chưa đủ sức cạnh tranh với các phòng trà đình đám khác. Bởi vậy, nhạc sĩ Hoài Bắc đã sử dụng ca sĩ - mỹ nhân để chiêu dụ khách thập phương.
Giọng hát Hà Nội vào thu
Mai Hân đến với Đêm Màu Hồng là do nhạc sĩ Hoài Trung bảo đến hát cho vui. Đúng là phòng trà Đêm Màu Hồng “thích” những ca sĩ đã từng hát trên đất Hà Nội, như trường hợp của Mai Hân.
Mai Hân đã đến với ca nhạc khi còn là thiếu nhi và chuyên hát trên làn sóng điện từ khoảng năm 1953 tại Hà Nội. Khi vào Sài Gòn, cô gia nhập ban Tuổi Xanh của Kiều Hạnh, tiếp tục sở thích ca hát trên làn sóng Đài phát thanh Sài Gòn. Cô bé Mai Hân dần lớn lên cùng với giọng ca ngọt ngào và ngoại hình xinh xắn. Tiếng hát của nàng mỗi ngày lại thêm vững vàng và điêu luyện, rồi cho đến một ngày nàng... biến mất. Nàng đã “theo chồng bỏ cuộc vui”, để nhiều chàng ái mộ giọng ca ra ngẩn vào ngơ.
Tuy lấy chồng nhưng Mai Hân vẫn thiết tha nghề ca hát. Thỉnh thoảng, cô chớp - xẹt, chớp - ló trên đài phát thanh và màn ảnh ti vi. Tên tuổi đó, giọng ca đó mặc dầu không thường xuyên đến với công chúng nhưng người sành nhạc vẫn nhận ra rằng nàng là một trong những nữ ca sĩ có tiếng hát căn bản, vững vàng của nền ca hát Sài Gòn lúc ấy.
Rồi bỗng một đêm của năm 1971, giới yêu nhạc phòng trà thấy Mai Hân xuất hiện tại Đêm Màu Hồng. Và cô chỉ hát riêng ở đây thôi vì không khí ấm cúng hơn những phòng trà khác. Ở phòng trà này, Hân thường hát nhạc của Văn Phụng với hai bài Chung thủy và Trên phím đàn, cùng những bài của Phạm Duy và Y Vân. Mai Hân trở thành một giọng hát đinh không thể thiếu của Đêm Màu Hồng - một giọng hát mang âm sắc Hà Nội những ngày vào thu đẹp đẽ.
Nữ ca sĩ thuộc nhiều bài hát nhất
Đó là lời khen của Jo Marcel dành cho ca sĩ Mỹ Thể. Còn nhạc sĩ Phạm Duy khi giới thiệu về Mỹ Thể đã nói: Một giọng ca phong phú nhất hiện nay (1971).
Trong giới ca sĩ, ai cũng công nhận Mỹ Thể có hai đặc điểm là giọng ca phong phú và thuộc nhiều bản nhạc nhất. Việc thuộc nhiều nhạc phẩm, với nhiều người, cũng là một yếu tố quan trọng vì nhiều ca sĩ chỉ thuộc chừng năm ba bài “tủ đứng, tủ nằm”, khách yêu cầu bản nhạc lạ thì chỉ biết cười trừ. Còn Mỹ Thể thì bản nào nàng cũng “chơi” một cách điệu nghệ. Còn giọng ca phong phú ở đây có thể hiểu theo nghĩa Mỹ Thể có một làn hơi “khỏe”. Báo Kịch Ảnh số 456 đã nhận xét: “Mỗi lần Mỹ Thể bước lên máy vi âm là tiếng hát của nàng tỏa ra, bao trùm khắp căn phòng, như cuốn hút, như bó buộc mỗi người phải lắng tai nghe”.
Ít ai biết để có được sự thành công đó, Mỹ Thể đã trải qua những ngày dài đắng cay. Trước đó, Mỹ Thể đã từng hát ở Li Lan, Anh Vũ, Hòa Bình nhưng nàng chỉ là ánh đèn mờ nhạt sau hào quang của Thanh Thúy, Minh Hiếu. Thất vọng, nàng trở lên Đà Lạt để “tu luyện” theo gương của Khánh Ly, Kim Vui. Hình như Đà Lạt là nơi “rèn giũa công phu” tái khởi nghiệp cho những giọng ca lận đận. Sau khi đắc đạo, nàng rời khỏi xứ hoa đào và tái xuất một cách rực rỡ ở phòng trà Sài Gòn với những bản Chiều tà (Serenata), Yêu em, Đường xưa lối cũ...
Ngọc Minh - Nàng ca sĩ đóng phim
Khởi đầu sự nghiệp ca hát của Ngọc Minh là vào năm 1964. Nàng ca sĩ người dân tộc Thái trắng này đã ra mắt thính giả lần đầu tiên tại Trường Quốc gia Âm nhạc với bài Tình ca của Phạm Duy và Anh về một chiều mưa của Duy Khánh - Anh Thy. Trước đó chị đã có dịp theo học nhạc một thời gian ngắn với nhạc sĩ Mạnh Đạt, cho đến khi tương đối tạo được tên tuổi thì còn nhận được sự dìu dắt của những nhạc sĩ Hoàng Nguyên, Nguyễn Hậu và Lan Đài.
Hai bài hát khiến khán giả chú ý tới Ngọc Minh là Ngàn thu áo tím (Hoàng Trọng - Vĩnh Phúc) và Nụ cười sơn cước (Tô Hải). Từ khi Đài truyền hình Sài Gòn bắt đầu hoạt động, Ngọc Minh đã góp mặt trong nhiều chương trình ca nhạc của ban Hương Thời Gian, Lan Đài, Hoa Thời Đại. Với gương mặt ăn ảnh, Ngọc Minh cũng xuất hiện trong nhiều vở kịch của một số ban và tham gia diễn xuất trong một số bộ phim. Tuy nhiên Ngọc Minh đã xác định ca hát vẫn là con đường chính trong cuộc đời nghệ thuật của mình.
Lê Văn Nghĩa
Bà bầu bất cần đời và phòng trà đại gia
Phòng trà Maxim’sẢNH: T.L
Theo báo chí, Khánh Ly là một bà bầu bất cần đời và hay thay đổi chương trình. Điều này làm cho Queen Bee độc đáo và không giống những phòng trà khác...
Từ giã thời đi hát chân đất, Khánh Ly “lừng khừng” (báo chí gọi cô là ca sĩ lừng khừng nhất nước) đặt chân vào lĩnh vực phòng trà để làm bầu Queen Bee, sau khi Jo Marcel tạo dựng cơ ngơi Ritz. Đây là sự làm “bầu phòng trà” một cách bốc đồng.
Khánh Ly kể trên một tờ báo rằng khi thấy Jo Marcel trả lại Queen Bee để xây dựng Ritz thì cô liền chộp lấy cơ hội này vì đang bắt đầu chán hát cho Tự Do. Cô hùn tiền với một người bạn để ký hợp đồng thuê Queen Bee và khai trương phòng trà vào tháng 3.1970.
Ngày khai trương Queen Bee chật ních khách nên khách mời và khách mua vé vô cùng lộn xộn. Queen Bee nằm trên tầng hai của khu Thương xá Eden. 7 giờ tối thì chiếc thảm đỏ lót chân được trải ra để mời khách sành điệu đến thưởng thức giọng ca “không còn đi chân đất”.
Queen Bee bên cạnh giọng ca Khánh Ly, Thái Thanh, Thanh Thúy còn có các ca sĩ Xuân Sơn (nổi tiếng với bài Mùa thu cho em), Bạch Lan Hương (xuất thân từ ban nhạc Tuổi Xanh của Kiều Hạnh), Phương Hồng Hạnh - một đệ tử của nhạc sĩ Nguyễn Đức - ban Việt Nhi.
Ngoài những giọng ca chủ lực trên, Queen Bee còn có một dàn nhạc “bao”: The Shotguns - thường được gọi vui là ban “sút gân”, được xem là ban nhạc duyên dáng sống động của sân khấu phòng trà Sài Gòn. Trước đây, The Shotguns là một ban nhạc trẻ chơi trong các club Mỹ, đã nhiều lần trình diễn trên đài truyền hình Mỹ (tại VN). Ngọc Chánh - trưởng ban sử dụng organ, là người có công chuyển hướng toàn ban chơi nhạc Mỹ sang nhạc Việt. Ban nhạc còn có Nguyễn Ánh 9, người gầy ốm đánh đàn piano, Hoàng Liêm: lead guitar, Duy Kiêm: bass guitar, Lưu Bình: trống.
Theo báo chí, Khánh Ly là một bà bầu bất cần đời và hay thay đổi chương trình. Điều này làm cho Queen Bee độc đáo và không giống những phòng trà khác, dù trang trí không bằng Ritz, vì bà bầu ca sĩ 26 tuổi này hết lòng vì khách: “Bỏ ra 700 đồng tới đây cũng xót ruột lắm chứ nên bổn phận của bà bầu là phải làm cho khách quên sự xót ruột đó đi”.
Dù là “một bà bầu đau khổ”, nhưng bà bầu kiếm cũng “khẳm địa”. Trừ mọi chi phí và tiền cát sê cho các ca sĩ, trong đó trả nhiều nhất cho Thái Thanh là 110.000 đồng, thì mỗi tháng Queen Bee cũng lời gần một triệu.
Maxim’s - phòng trà đại gia
Phòng trà Maxim’s tọa lạc ngay địa điểm của nhà hàng Maxim’s bây giờ. Phòng trà này không chỉ có ca nhạc mà còn có ăn uống dành cho giới thượng lưu, sang trọng lúc đó. Dưới sự điều khiển của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, phòng trà này có những màn nhạc kịch có chất lượng nghệ thuật cao.
Độc đáo của Maxim’s là mỗi đêm, chương trình văn nghệ của Hoàng Thi Thơ đều cống hiến cho khán giả những màn vũ dân tộc độc đáo. Những chiếc nón quai thao thi đua bay lượn, xoay tròn theo điệu hát dân ca cổ truyền, những cô gái Việt ngày xưa mặc áo tứ thân đang hát đối đáp cùng những chàng thư sinh áo the, khăn nhiễu. Đó là nét đặc biệt của Maxim’s với tài dàn dựng của Hoàng Thi Thơ.
Maxim’s có cái dáng và không khí của sân khấu nước ngoài. Có nhiều màn vũ cũng như ca kịch có tính cách Á Đông như tiết mục Cô gái điên (Xuân Dung, Mỹ Phương, La Thoại Tân và Ngọc Đức). Thường xuyên cho thay đổi một tháng một chương trình. Có nhiều phòng trà đến chỉ uống nước và xem ca nhạc. Với những giọng hát tốt nơi đó thu hút khách nghe nhạc, thờ ơ với món ăn. Có những nơi người ta chỉ ăn. Nhưng đến Maxim’s người ta vừa ăn và vừa xem.
Với những gương mặt ca sĩ và kịch sĩ ấn tượng như La Thoại Tân, Ngọc Đức, Túy Hoa, Phi Thoàn, Khả Năng, giọng ca tenor của Cao Thái và dàn vũ nữ xinh đẹp, thực khách tha hồ mãn nhãn và cười thoải mái. Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ từng tự hào là tại miền Nam này không ai viết nhạc kịch như ông. Nhạc kịch, hài hước, vũ nữ xinh như mộng đã tạo cho Maxim’s một thương hiệu và là nơi chỉ giới nhà giàu mới đặt chân vào.
Vào tháng 5.1972, trên một tờ báo ở Sài Gòn chạy một cái tít rất thương cảm “Phòng trà ca nhạc bị đóng cửa. Giao Linh bán phở, Chế Linh Út Bạch Lan bán cà phê”.
Không phải tờ báo này giựt tít thê thảm như trên để bán báo mà do sau khi ban hành tình trạng thiết quân luật chính quyền đã ra lệnh cấm tổ chức các buổi trình diễn ca vũ nhạc và đóng cửa phòng trà ca nhạc. Biện pháp này làm tê liệt các sinh hoạt của giới nghệ sĩ, đặc biệt là các nghệ sĩ thuộc bộ môn tân nhạc và một thiểu số thuộc bộ môn cổ nhạc, vì một số ít phòng trà có tổ chức các chương trình cổ nhạc.
Thế là một giai đoạn thịnh hành của phòng trà ca nhạc phải chấm dứt và các ca sĩ, nhạc công phải đi hát nhiều cho các đại nhạc hội, còn các ông, bà bầu phòng trà thì ngáp vắn, ngáp dài để chờ thời mở cửa phòng trà trở lại.
Lê Văn Nghĩa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét