Tín ngưỡng thờ bà Chúa Xứ xuất phát từ người Chăm trong khi tục lệ thờ ông Tà lại từ người Khmer. Ngay cái tên Tà Ben cho thấy miếu thờ ông Ben, không phải thờ bà. Trên số báo ngày 30-7, Pháp Luật TP.HCM có bài viết Rộ tin đồn bà Chúa Xứ về miếu Tà Ben. Bài viết đề cập đến tin đồn khách thập phương cúng lễ vật bằng đồ giả nên bà Chúa Xứ (núi Sam, Châu Đốc, An Giang) đã nổi giận và rời núi Sam về miếu Tà Ben (Thạnh Lộc, Châu Thành, Kiên Giang). Sau khi có tin đồn, miếu Tà Ben từ một ngôi miếu ít người biết đến bỗng dưng có hàng ngàn lượt người đổ về mỗi ngày. Bài viết này xin cung cấp rõ hơn đến bạn đọc về nguồn gốc tục thờ bà Chúa Xứ cũng như nguồn gốc thờ ông Tà.
Bà Chúa Xứ có rất nhiều tên
Trao đổi với Pháp Luật TP.HCM, nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng cho biết: “Bà Chúa Xứ là một loại tín ngưỡng dân gian thờ nữ thần, các nhà nghiên cứu thường gọi là thờ Mẫu. Bà Chúa Xứ là một vị thần có nguồn gốc từ người Chăm. Người Chăm gọi là Pô Inư Nagar, tức Bà Mẹ Xứ Sở. Trong quá trình giao thoa văn hóa Chăm, người Việt đã thờ Pô Inư Nagar với nhiều tên gọi khác nhau: thần Yna, thần Thiên Y Ana, bà Chúa Tiên, bà Chúa Ngọc…”.
Nguyễn Đăng Duy trong quyển Văn hóa tâm linh Nam Bộ hay Sơn Nam trong quyển Đình miếu & lễ hội dân gian cũng khẳng định nguồn gốc của bà Chúa Ngọc nương nương (bà Hồng, cô Hồng ở Nam Bộ), Thiên Y Ana, bà Đen, bà Chúa Xứ… đều bắt nguồn từ người Chăm.
Đông đảo khách thập phương đến viếng bà Chúa Xứ hằng năm. Ảnh: CTV
Dấu ấn của vị nữ thần này thể hiện mạnh mẽ nhất là vào năm 1069 khi vị nữ thần được thờ ngay tại Thăng Long: “Trong Việt điện u linh có truyệnỨng thiên hóa dục Nguyên trung, Hậu thổ địa kỳ nguyên quân kể về vị nữ thần vốn là tinh của đại địa Nam quốc; thác sinh vào cây ở chốn mây nước phò trợ cho vua Lý Thánh Tông trong cuộc chinh chiến với Chiêm Thành đã được rước về thờ ở làng An Lãng thuộc kinh đô Thăng Long sau khi thắng trận. Đây là chứng cứ xác nhận niên đại sớm nhất của sự hội nhập thần Chiêm Thành vào hệ thống thần linh Việt” (trích Từ Nữ thần Pô Nưga đến bà Chúa Xứ - Huỳnh Ngọc Trảng)
Sau đó dấn ấu vị nữ thần này tiếp tục phát triển với các đền thờ ở Bắc Trung Bộ với tên gọi phổ biến là Thiên Ana. Dần dần vào Nam Trung Bộ với tên Thiên Y Ana - là một vị nữ thần có uy linh bao trùm bảo hộ cho người dân trong khu vực. Thời nhà Nguyễn đã sắc phong cho vị thần này là Hồng nhân phổ tế linh ứng thượng đẳng thần. Và miền Nam thờ nữ thần này với tên gọi bà Chúa Xứ (Chúa = chủ, Chúa Xứ = chủ một xứ, trùm một xứ).
Tại miền Nam có rất nhiều nơi thờ bà Chúa Xứ. Miếu bà Chúa Xứ ở núi Sam (Châu Đốc, An Giang) được coi là lớn nhất. Xếp thứ tự nhì, ba, tư… thuộc về các miếu bà Chúa Xứ ở Nhà Bè, quận 9 (TP.HCM) và Dĩ An (Bình Dương).
Ông Huỳnh Ngọc Trảng khẳng định: “về lịch sử chưa chắc miếu bà Chúa Xứ ở nơi này lâu năm hơn nơi kia hay nơi nào linh hơn… Bởi phần lớn miếu thờ dạng này do người dân tự lập ra. Ngay tại quận 4, người dân cũng dựng lên một miếu thờ nhưng không ai đến. Có thể do làm quảng bá dở!”.
Tà Ben là ông Ben theo tiếng Khmer
Tục thờ bà Chúa Xứ xuất phát từ người Chăm thì tín ngưỡng thờ Tà (Tà = ông) lại có nguồn gốc từ người Khmer dưới tên gọi Niêk Tà (hay Neak Ta, Ta = người đàn ông đứng tuổi, Neak = người). Niêk Tà gần như tín ngưỡng thờ thổ thần của người Việt hay thờ thần Thành Hoàng của người Hoa. Dân gian từng có câu nói cho tín ngưỡng này: “Ông Địa giữ nhà, ông Tà giữ ruộng”. Vì vậy ngay cái tên miếu Tà Ben ở Châu Thành, Kiên Giang - nơi có nhiều người dân tộc Khmer sinh sống - đã cho thấy đây là miếu thờ ông Ben, không thể thờ bà.
Hơn thế nữa “Người Khmer cũng có thờ bà nhưng là bà A Răk (A Rặc) như là nữ thần bảo hộ thị tộc, dòng họ, truyền thống gia đình. Họ không thờ Bà Mẹ Xứ Sở. Vì vậy nếu đem bà Chúa Xứ (nguồn gốc người Chăm) thờ vào miếu Tà Ben (miếu thờ ông Ben) có nguồn gốc từ Khmer là vô lý và chướng” - ông Trảng khẳng định.
“Đất có thổ công, sông có hà bá”, sống ở đâu người ta cũng biết trên đầu có những vị thiêng liêng chứng giám, phù hộ. Tuy nhiên, chứng giám với cách hiểu của người chánh tín có nghĩa là “vị thiêng” đó chứng kiến những việc làm thiện, ác của con người để trừng trị hay ban phước. Tức chứng giám để hướng thượng (hướng đến chân, thiện, mỹ; chân giá trị đạo đức) cho con người. Việc chứng giám gắn với phù hộ có nghĩa là khi con người hoạn nạn, “vị thiêng” chứng giám và phù hộ để tai qua nạn khỏi. Đó cũng là niềm tin trong đời sống của mỗi người.
Còn việc cầu số, cầu tài… có lẽ không “vị thiêng” nào chứng giám. Mê tín hay chánh tín nằm ở điểm này. Người mê tín có thể đem lễ vật đến hối lộ thần linh để phù hộ cho những việc tà ám, sai trái, ăn cướp, tham ô… Và thực tế, những người mê tín thường là những người làm bậy, họ sống tuyệt vọng và không có niềm tin.
Dẫu biết con người kiến tạo thần linh nhưng đạo đức cá nhân kém thì sẽ sa vào con đường mê tín, tín thần, khó mà chánh tín.
Nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng
|
QUỲNH TRANG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét