Câu 'Nhìn sang Phước Tích, tủi thân Hội Kỳ' không biết có tự bao giờ, cũng không rõ ai là tác giả… nhưng hễ nhắc đến, đã làm cho người Hội Kỳ nói riêng và người Quảng Trị nói chung có chút thoáng buồn.
Vì sao ư, cách nhau mỗi dòng Ô Lâu, mà thân phận hai ngôi làng cổ khác nhau nhiều quá… Làng Phước Tích thuộc thôn Phước Phú (xã Phong Hòa, H.Phong Điền, Thừa Thiên-Huế), được nhà nước công nhận và trao bằng xếp hạng "Di tích quốc gia" làng cổ vào ngày 13.6.2009, nổi tiếng với nghề gốm cổ truyền. Còn Hội Kỳ cũng là ngôi làng cổ cách Phước Tích đúng 1 con sông Ô Lâu nhỏ bé, thuộc xã Hải Chánh (H.Hải Lăng, Quảng Trị). Tuy nhiên, vì nhiều lý do khách quan, chủ quan, làng cổ Hội Kỳ tưởng như chưa được đặt đúng vị trí xứng đáng nó vốn có.
Làng cổ có tự bao giờ?
Trên đường thiên lý bắc nam, rẽ ngoặt, đi xuyên qua chợ Mỹ Chánh rồi men theo con đường làng nhỏ đã được bê tông hóa thì tới làng Hội Kỳ. Ngôi làng trứ danh nằm khép nép bên sông Ô Lâu. Trong làng có nhiều ngôi nhà cổ kính cũ kỹ, những rặng tre vít sát bờ sông, những hàng rào chè the được cắt tỉa tỉ mỉ… khiến cho những người mới đến lần đầu tưởng như đang lạc vào một vùng nông thôn cách nay vài trăm năm hay ít nhất cũng vài chục năm về trước.
Và hẳn rồi, một mảnh làng xưa cũ như Hội Kỳ cùng sẽ có trong mình một quá khứ đầy trầm tích, bi hùng không dễ gì để người tìm hiểu tỏ tường hết thảy. Thậm chí trong cuốn Ô Châu Cận Lục của Dương Văn An, làng Hội Kỳ cũng không được nhắc đến là đã hình thành như thế nào. Có chăng chỉ có đôi dòng mô tả về dòng Ô Lâu: "Nước trời lấp lánh, hoa nở ngạt ngào, hương bay mười dặm, lá biếc lay động như hài vượt sóng...".
Trong khi đó, ở nghiên cứu “Sự thành lập các làng cổ ở Quảng Trị” từng đăng trên tạp chí Cửa Việt của Linh mục Stanislao Nguyễn Văn Ngọc thì làng Hội Kỳ trước thuộc tổng An Thư (phủ Hải Lăng) có từ đời chúa Nguyễn Hoàng về sau (khoảng từ 1558 đến 1776).
Về các bậc khai khẩn của làng Hội Kỳ, theo một số nguồn mà chúng tôi tiếp cận được thì có tài liệu nói làng Hội Kỳ được thành lập vào những năm cuối thế kỷ 15 đầu thế kỷ 16, có nguồn gốc từ người dân làng Hạ Cờ (xã Vĩnh Chấp, H.Vĩnh Linh, Quảng Trị) trong một hành trình nam tiến và dừng chân lập làng. Cũng có tài liệu khác chép, ngày xưa đây là vùng đất hoang vu, đến năm 1601 mới có ông tổ khai canh là người gốc Thanh Hóa đặt chân đến và đặt tên làng là Hội Kỳ. Cái tên đó có từ ngày đó đến nay.
Trong khi đó nhà nghiên cứu Lê Đức Thọ, Phó giám đốc Ban quản lý di tích tỉnh Quảng Trị thì làng Hội Kỳ có rất muộn, từ thế kỷ 17, lập thành từ quá trình di dân từ các xã Hải Tân, Hải Hòa (H.Hải Lăng) về phía tây do áp lực về dân số và đất đai tại đây là lớn.
Số phận của làng Hội Kỳ vào thời hiện đại cũng long đong khi được tách vô nhập lại nhiều lần. Cụ thể, ngày 25.10.1947, Hội đồng Chấp chánh Lâm thời Trung kỳ ra nghị định sáp nhập làng Hội Kỳ cùng 9 làng khác của phủ Hải Lăng (Quảng Trị) vào H.Phong Điền (Thừa Thiên-Huế). Đến ngày 30.4.1949, Chính phủ lâm thời Việt Nam ra nghị định số sáp nhập làng Hội Kỳ cùng 13 làng khác về lại phủ Hải Lăng (Quảng Trị) như cũ. Chính vì yếu tố lịch sử này, đến tận ngày nay, ranh giới Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế vẫn chưa rõ ràng, trồi ra sụt vào và có sự tranh chấp dai dẳng.
Chỉ biết cúng làng là ngày 20.8 âm lịch
Trầm tích của ngôi làng đẹp như một bức tranh thủy mặc này khó giải mã ngay cả với những người dân sống lâu đời trong ngôi làng, giữa những ngôi nhà cổ.
Ông Dương Văn Mạnh (62 tuổi, người được mệnh danh là “nhà Hội Kỳ học”, hiện đang là người thừa kế 1 trong 5 ngôi nhà cổ nhất làng Hội Kỳ với cái tên Tích Khánh Đường) cho hay ông cũng chưa tỏ tường về nguồn cội của làng. Ông chỉ nhớ mang máng rằng làng Hội Kỳ nguyên thủy không phải ở ngay bên mép sông Ô Lâu này mà ở khu vực dưới ruộng, có tên là Bụi Bèng. “Ông tổ khai canh đưa dân làng lên đây mà làng mới thì không có ruộng (chỉ được 2 mẫu) nên dân Hội Kỳ làm nông nhưng phải làm đồng xa tận quê gốc cũ, cách làng bây giờ cả chục cây số”, ông Mạnh nói.
Cũng theo ông Mạnh thì dù không rõ người khai khẩn là ai, gốc gác và cũng không có mộ nhưng dân làng Hội Kỳ vẫn có ngày cúng làng, tri ân những bậc khai khẩn vào ngày 20 tháng 8 âm lịch. Lễ cúng này thường diễn ra ở nhà thờ thánh của làng.
Ông Mạnh cho rằng 5 ngôi nhà cổ ở trong làng Hội Kỳ còn tồn tại đến bây giờ cũng là 5 cơ ngơi của 5 người là quan lại, thầy đồ hoặc điền chủ. “Năm gia đình có "máu mặt" này gồm ông nội tôi là chánh tổng tống An Thư tên Dương Văn Chương, ông Dương Quang Trì (còn gọi là Bảng Trì), ông Dương Quang Thùy (còn gọi là ông Giáo Dái), ông giáo Độ và nhà ông Ký. Hầu hết ruộng vườn ngày xưa của dân làng Hội Kỳ đều nằm trong tay những gia đình này. Dân làng chủ yếu đi làm thuê. Về sau, có cách mạng, ruộng đất mới được chia lại cho nông dân”, ông Mạnh cho biết.
Ngày nay, theo ông Nguyễn Bé, Trưởng thôn Hội Kỳ thì ngôi làng được bảo vệ bởi những rặng tre và vây quanh là dòng Ô Lâu này có diện tích đất tự nhiên là 258,4 ha, nghề nghiệp chính là làm nông. “Hiện làng chỉ có khoảng 110 hộ dân sinh sống, ai cũng biết mặt nhau nên nếp làng vẫn giữ”, ông Bé nói, giọng tự hào.
Trải qua hàng trăm năm tồn tại, ít chịu sự tàn phá của bom đạn, Hội Kỳ vẫn giữ được những nét cổ kính có dáng dấp kiến trúc ngôi làng xưa đặc trưng với những rặng tre dọc bờ sông ôm lấy làng; những bến nước và những tán cây cổ thụ rũ bóng trước sân đình... Ngoài ra, làng còn có 21 nhà cổ làm bằng gỗ quý, đa số là nhà ba gian hai chái hoặc nhà năm gian, 4 đền, miếu thờ và 2 nhà thời họ.
Có người bảo Hội Kỳ “tủi thân” là vì Hội Kỳ hiu quạnh hơn làng Phước Tích cạnh bên, thậm chí làng Hội Kỳ cũng nghèo hơn so với những ngôi làng khác. Tuy nhiên, người dân nơi đây hài lòng với cuộc sống bình lặng này. Ngày ngày trôi qua trong những ngôi nhà cổ… tồn tại từ thuở mới khai canh lập xứ.
Làng của những ngôi nhà cổ
Có rất nhiều du khách, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước khi đặt chân tới làng Hội Kỳ (xã Hải Chánh, H.Hải Lăng, Quảng Trị) đã phải trầm trồ không ngớt về những ngôi nhà cổ.
Nếp nhà trăm năm
Ở vùng đất Quảng Trị đầy nắng gió này, không nơi đâu có nhiều nhà cổ như làng Hội Kỳ. Đó là những mái nhà thấp lè tè, nấp dưới lũy tre hoặc những hàng chè tàu xanh mướt, được người dân nơi đây gìn giữ từ đời này sang đời khác như báu vật. Hội Kỳ bây giờ còn khoảng hơn 20 ngôi nhà cổ, có niên đại khoảng 100 năm và 5 ngôi nhà cổ đã bước qua tuổi đời hàng trăm năm. Đó là những ngôi nhà mang cốt cách, dáng dấp từ thời khai canh, lập ấp.
Các ngôi nhà rường cổ được người thợ mộc ngày xưa dựng nên, những người mà thậm chí không biết chữ nhưng với đôi tay tài hoa họ đã khiến cho người đời nay thán phục về tài nghệ. Tất cả hệ thống cột, kèo… trong nhà đều được chạm trổ hoa văn tinh xảo dựa trên mô típ rồng bay phượng múa vô cùng điệu nghệ.
Nhà cổ Hội Kỳ chủ yếu được làm bằng gỗ mít, kiền kiền theo kiểu 3 gian 2 chái (5 căn) hoặc 1 gian 2 chái (3 căn). Gian giữa nhà để thờ tự tổ tiên, hai gian hai bên được dùng để tiếp khách và không gian sinh hoạt. Còn hai chái thường gọi là tây phòng (nơi dành cho con trai) và đông phòng (để cho con gái ở). Trong mỗi nhà đều treo hoặc chạm trổ các bức hoành phi câu đối với nội dung răn dạy điều hay cho con cháu trong nhà. Các ngôi nhà này được lợp bằng hàng vạn viên ngói liệt, tùy vào kích cỡ và nhà luôn có gác lửng (gọi là tra) để chất lúa gạo hoặc và nơi ẩn nấp khi mùa mưa lũ đến. Để điểm tô cho nét đẹp của những ngôi nhà cổ, xung quanh thường có hệ thống hàng rào bằng cây xanh được cắt tỉa đẹp mắt và những vườn cây lâu năm tạo bóng mát.
Mỗi ngôi nhà cổ ở Hội Kỳ đều có tên riêng. Ví dụ như nhà bà Dương Thị Hường có tên là Đức Lưu Quang dựng vào năm Tân Mùi 1931. Nhà hình chữ nhất, cấu trúc 1 gian 2 chái, diện tích khoảng 60m2. Theo quan niệm người xưa, ngôi nhà trải qua 4 thế hệ kế tiếp sinh sống thì dòng họ đó được coi là phúc. Hay nhà ông Dương Văn Mạnh thì lại có tên là Tích Khánh Đường.
Hiện nay 5 ngôi nhà cổ nhất làng Hội Kỳ thuộc về sở hữu của 5 gia đình giàu có ngày trước gồm Chánh tổng tống An Thư tên là Dương Văn Chương, ông Dương Quang Trì (còn gọi là Bảng Trì), ông Dương Quang Thùy (còn gọi là ông Giáo Dái), ông giáo Độ và nhà ông Ký. Nhưng cũng có một ngôi nhà khác ở làng Hội Kỳ được mua từ nơi khác về, dựng lại, nhưng cũng có niên đại 200 năm của ông Dương Văn Ngọc, hiện còn nguyên vẹn.
Một số dân làng kể lại rằng từng có một ngôi nhà cổ ở Hội Kỳ được bán đi với giá hơn 10.000 đồng tiền miền bắc (quy ra giá trị ngày đó cũng được hai chục cây vàng).
Niềm tự hào... Tích Khánh Đường
Có thể nói đây là ngôi nhà cổ tiêu biểu nhất cho làng cổ Hội Kỳ khi giữ được những nét nguyên bản từ thuở sơ khai, ít bị tác động bởi thời gian và đặc biệt là được chủ nhân các đời chăm chút từng tí, xem như báu vật của gia đình, dòng tộc. Và nếu đã ghé làng Hội Kỳ mà chưa đến Tích Khánh Đường, chưa ngồi “đạm đạo” với chủ nhà thì như là chưa ghé Hội Kỳ.
Ngôi nhà này nguyên gốc là của ông Dương Văn Chương, rồi sau đó truyền lại thêm một đời nữa trước khi giao lại cho ông Dương Văn Mạnh ở và coi sóc. Ông Mạnh từng làm ở Ty bưu điện Quảng Nam - Đà Nẵng, sau giải phóng thì về sống ở quê. “Ngôi nhà của tổ tiên tôi để lại này từng được trả giá tới 18.000 đồng tiền miền bắc, quy ra giá trị ngang ngữa 50 cây vàng nhưng chúng tôi quyết giữ lại”, ông Mạnh chỉ tay về phía những cột kèo còn rất chắc chắn của ngôi nhà cổ hơn 200 năm, nói. Sau đó ông Mạnh đọc vanh vách những con số liên quan đến ngôi nhà mà ông đã sống trong đó mấy chục năm trời. Ông Mạnh cho biết để dựng nên ngôi nhà chiều ngang 12,3m, rộng 9,5m (3 gian, 2 chái) này phải cần tới 48 cột gỗ mít, mỗi cột phải đặt đúng quy định làm nhà ngày xưa khi cách nhau dưới 1,5m. Nhà có dãy cửa bảng khoa với 18 lá và mái được lợp từ 45.000 viên ngói, kết dính với nhau bằng đất sét hoặc vôi (thay cho xi măng ngày nay). Gian giữa là nơi thờ tự có treo bức hoành phi ghi “Tích Khánh Đường” bằng Hán tự. Hai bên có 4 bốn bức liễn chữ Hán mang tính giáo dục cháu con đời sau.
Ông Mạnh cũng tự hào Tích Khánh Đường giống như những nhà cổ khác, dù rất thấp nhưng chính vì thế lại chống được bão, đông ấm hè mát. “Kết cấu ngôi nhà bền chặt với xà thượng, xà trung, xà hạ như một con rắn vây quanh. Xà và cột lại tiếp tục được níu với nhau bằng đuôi én. Nên giờ lấy trực thăng mà câu lên cả nhà cũng được, chứ tường thì chỉ như cái phên, không kết dính gì”, ông Mạnh nói, giọng pha chút tiếu lâm.
Và sẽ thật thiếu sót nếu không nhắc đến công chăm chút của những người nhà họ Dương với sự tồn tại của Tích Khánh Đường đến ngày nay. Gia đình cũng đã đôi lần trùng tu, gần nhất là năm 1994, ông Mạnh được người anh sống ở nước ngoài “viện trợ” để mua mấy khối gỗ kiền kiền, hơn 1.000 viên ngói liệt để gia cố lại nhà. Đặc biệt hơn, một tay ông Mạnh tô vẽ thêm nét đẹp cho ngôi nhà khi trồng nhiều loại hoa kiểng xung quanh. “Tôi thích được ngắn Tích Khánh Đường. Ngày nào cũng ngắm, ngắm mấy chục năm rồi mà không chán. Bởi nhìn vào đó tôi nhớ về tổ tiên, về cha mẹ, về thuở thiếu thời của mình”, ông Mạnh nói, giọng trầm ấm.
Đừng bê tông... làng cổ
Làng Hội Kỳ (xã Hải Chánh, H.Hải Lăng, Quảng Trị) vẫn còn đó những ngôi nhà cổ kính, nhưng đâu đó quanh làng 'cái sự cổ' đã hư hao nhiều vì những mảng… bê tông.
Điều đó, phản ánh sự tất nhiên khi đời sống đi lên hiện đại hay là sự đáng trách của thế hệ sau đã xâm hại vào những giá trị của đời trước để lại…
Đi quanh làng cổ Hội Kỳ, nếu nhìn dưới góc độ một người yêu cái cũ rêu phong thì hẳn bạn sẽ thấy một “điểm nhấn” tưởng như không thuộc về ngôi làng bên dòng Ô Lâu này. Đó chính là sự bê tông hóa mà điển hình nhất là tại những bến nước có tuổi đời ngang ngửa với những ngôi nhà cổ.
Những người cao niên trong làng Hội Kỳ cho biết những bến nước của làng xưa kia luôn mang trong mình những câu chuyện riêng biệt. Bởi người xưa làm bến nước không phải như bây giờ. Mỗi cái bến nước đều khác nhau, không có cái nào giống cái nào. Trải qua hàng trăm năm những cái bến nước đấy càng mang hồn phách, trầm tích riêng… “Còn bến nước bây giờ người ta làm theo bản vẽ, cái nào cũng như cái nào, răm rắp đúng từng thước tấc thì cũng giống như những món hàng công nghiệp vậy đó”, một người dân làng Hội Kỳ cảm thán.
Nhưng không phải vô cớ mà chính quyền bê tông hóa những bến nước ở ngôi làng cổ. Chuyện rằng, mỗi năm, “hà bá” trên dòng Ô Lâu cứ tham lam ngoạm những mảng đất dọc sông, uy hiếp đến đường làng và những ngôi nhà cổ. Vậy nên, lãnh đạo thôn, xã đều phân bua rằng việc bê tông bến nước làng cổ và làm kè dọc bờ sông là việc chẳng đặng đừng và không thể không làm vì xói lở hoành hành, nếu chần chừ, bờ sông sẽ xâm thực càng sâu và ảnh hưởng đến cả những ngôi nhà cổ…
Vậy nên, năm 2017, dự án “Kè chống xói lở bờ sông Ô Lâu, xã Hải Chánh” do Ban quản lý dự án đầu tư và xây dựng thuộc Sở NN-PTNT tỉnh Quảng Trị làm đại diện chủ đầu tư, đã được thi công trên tổng chiều dài hơn 1km với kinh phí 10 tỉ đồng. Vậy nên, những rặng tre dọc sông vốn là hồn phách của làng, đã giữ làng suốt hàng trăm năm đã bị bức gốc. Và những bến nước cũ kỹ được đập đi xây lại bằng một diện mạo hoàn toàn mới.
Lúc dự án triển khai, đã có những tiếng xì xầm, những tiếng thở dài. Ông Dương Văn Mạnh (62 tuổi, người được dân làng mệnh danh là “nhà Hội Kỳ học”, hiện đang là người thừa kế 1 trong 5 ngôi nhà cổ nhất làng Hội Kỳ) đã tỏ thái độ bất hợp tác, không đồng ý thi công. “Gia đình tôi mấy đời chăm lo cho cái bến nước cũ, bỏ tiền túi để làm cái bến có hồn có phách. Có thể nó cũ kỹ nhưng nó hợp với không gian nhà cổ ở bên trên…”, ông Mạnh nói. Nhưng rồi, sợ mang tiếng là “thành phần chống đối”, ông Mạnh cũng xuôi tay và gần chục bến nước hao hao nhau trong làng Hội Kỳ đã ra đời như thế.
Những bến nước mới xây rất kiên cố, sạch sẽ và rất thuận lợi cho bà con trong sinh hoạt với những lan can, bậc cấp. Những bến nước này đẹp nhưng đó là vẻ đẹp hiện đại, cái vẻ đẹp mà chỉ cần có chút kinh phí thì tất thảy các làng quê của đất nước Việt Nam này đều có thể có chứ không đẹp theo kiểu... Hội Kỳ, thứ vẻ đẹp vốn đã được định danh bằng sự xưa cũ.
“Người ta cũng không thiết kế ra mẫu mã ra một dáng dấp bến nước sao cho vừa tầm với những ngôi nhà cổ, hay ít nhất là cũng phù hợp với kiến trúc chung mà chỉ là những mảnh ghép giữa gạch vữa và sắt thép. Lạnh ngắt và khô khốc”, ông Mạnh nói.
Trong khi đó, ý kiến của một nhà nghiên cứu lịch sử tại Quảng Trị cho rằng đây là minh chứng cho sự xung đột giữ bảo tồn và phát triển. “Đây là bài toán khó nhưng thường thì khi trùng tu, làm mới một thực thể cổ thì không được đập đi làm lại, mà phải vừa giữ lại những yếu tố gốc nguyên sơ mang nét biểu tượng cho một vùng đất vừa cho mọi thứ hài hòa với cảnh quan. Tiếc rằng, câu chuyện bến nước ở Hội Kỳ đã không thỏa mãn được điều đó”, nhà nghiên cứu này nhận định.
Trong khi việc xây dựng đại trà các bến nước theo kiểu hiện đại đã vấp phải nhiều ý kiến không đồng tình từ phía những người dân không muốn có sự can thiệp thô bạo vào kiến trúc cảnh quan của làng thì một thực tế khác vẫn đang diễn ra, đó là xói lở.
Đi bộ dọc bờ sông Ô Lâu chạy uốn quanh làng Hội Kỳ, mới thấy con sông xanh trong yên ả này cũng có lúc ngỗ nghịch khi “ngạm” không biết bao nhiêu mét đất của dân làng xuống đáy. Dù vẫn có sự hiện diện của hệ thống kè chống xói lở nhưng chừng đó tưởng như chưa đủ để “vá” những chỗ sạt lở. Đó là chưa kể những năm gần đây, tình trạng khai thác cát bữa bãi trên sông Ô Lâu, cùng với sự biến đổi khí hậu làm tình trạng sạt lở ngày càng nghiêm trọng.
“Dân làng nhiều lúc cũng rất mâu thuẫn vì biết rằng nếu không can thiệp bằng bê tông cốt thép thì đất làng khó giữ nhưng nếu can thiệp thì góp phần làm làng… bớt cổ đi. Vậy nên dân mong lắm chính quyền có sự tính toán cho những lần can thiệp. Bởi chỉ cần một hành động thiếu tính toán thôi cũng làm mất đi bao giá trị mà dân làng gìn giữ hàng trăm năm”, ông Mạnh phân trần.
Bên cạnh đó, chính người dân, những người đang sở hữu những ngôi nhà cổ đã vô tình hay vì những lý do khách quan mà cũng có những tác động nhất định trong quá trình sửa sang nhà cửa. Phần vì qua hàng trăm năm, nhà cổ đã xuống cấp, phần vì để phù hợp hơn với đời sống sinh hoạt hiện đại, nhiều người dân đã dùng nhiều loại vật liệu mới “đắp” vào những ngôi nhà cổ và biến những ngôi nhà này cũ không cũ mà mới không mới…
Ông Cáp Xuân Tá, nguyên Trưởng phòng văn hóa thông tin H.Hải Lăng (nay là Phó chủ tịch HĐND huyện) từng nói rằng cả huyện Hải Lăng chỉ có duy nhất làng Hội Kỳ có nhiều nhà cổ có giá trị. Ngoài những điều tốt đẹp ra thì cũng có chuyện người dân không có điều kiện tu bổ hoặc được tư vấn phương pháp lưu giữ tối ưu nên kiến trúc văn hóa bị ảnh hưởng không nhỏ…
Cái “nghiệp” của người được giao chăm lo nhà cổ
Nhiều người đang làm chủ nhà cổ ở Hội Kỳ bảo rằng họ mang cái “nghiệp” khi được cha ông giao lại trông coi nhà cửa. Điều đó vừa tự hào nhưng cũng rất trăn trở. Ông Dương Văn Mạnh cho biết nhà nhiều anh em nhưng ông đã được tiền nhân lựa chọn để giao lại nhiệm vụ chăm sóc ngôi nhà cổ. “Nhà gia truyền làm sao tôi dám bán, chưa nói ở đây còn có yếu tố tâm linh. Mấy chục năm ở đây quen rồi, tôi chỉ ngủ trong nhà cổ dù có cất ngôi nhà 2 gác kế bên. Mà tôi cũng chẳng muốn đi đâu xa chỉ thích quanh quẩn trong nhà. Bỏ nhà đi chơi đâu, cứ thấy… tồi tội. Cứ muốn nhà phải sáng lửa, sáng đèn”, ông Mạnh nói.
|
Dấu hỏi bảo tồn
Những giá trị tự có của làng cổ Hội Kỳ (xã Hải Chánh, H.Hải Lăng, Quảng Trị) đã được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước khẳng định nhưng định hướng bảo tồn ngôi làng này trong tương lai vẫn là một dấu hỏi lớn.
Mới dừng ở... chủ trương
Trả lời trên một tờ báo lớn vào năm 2013, ông Nguyễn Hữu Thắng khi đó là Giám đốc Sở VH-TT-DL tỉnh Quảng Trị cho hay đã giao Trung tâm Bảo tồn di tích danh thắng Quảng Trị lập hồ sơ về làng Hội Kỳ đề nghị Bộ VH-TT-DL công nhận di tích quốc gia. Nhưng nay là năm 2018, ông Thắng đã về hưu được gần 1 năm, mà cái hồ sơ của làng Hội Kỳ không biết đã “đi” tới đâu.
Trong khi đó, những ngôi nhà qua hàng trăm năm tuổi đã bị hư hại nặng nhưng vật liệu thay thế hiếm, kinh phí sửa chữa lớn, đòi hỏi thợ giỏi nên thật khó để đổ hết gánh nặng này lên vai các gia đình đang sở hữu nhà cổ. Chính vì thế, nhà cổ lại bớt cổ vì những vật liệu “lạ” xuất hiện ngày càng nhiều là bê tông, gạch men…
Dưới góc nhìn của một nhà nghiên cứu, ông Lê Đức Thọ, Phó giám đốc Ban quản lý di tích Quảng Trị khẳng định việc bảo tổn làng cổ Hội Kỳ là cần thiết và thậm chí là bức thiết trong lúc này. Theo ông Thọ, bảo tồn phải có khoa học và kết hợp giữa 3 nhân tố: người dân, người làm bảo tồn và cơ quan quản lý nhà nước… Có vậy mới giải mã được bài toán khó của việc bảo tồn và phát triển.
Liên hệ với làng Hội Kỳ, ông Thọ cho rằng điều may mắn là ý thức của người dân địa phương rất cao bởi có nhận thức bảo tồn thì họ mới không phá nhà sau bao năm qua. Thứ nữa, chính quyền địa phương, cấp thôn, cấp xã, cấp huyện cũng nhìn nhận ra giá trị của Hội Kỳ và mong mỏi làng cổ này được công nhận để từ đó tạo điểm nhấn cho địa phương, thậm chí để phát triển văn hóa, du lịch. Cuối cùng, các ban ngành cấp tỉnh (là Bảo tàng, Ban quản lý di tích, Hội khoa học lịch sử, Sở VH-TT-DL…) cũng không đứng ngoài cuộc khi cùng tổ chức nhiều đoàn nghiên cứu, khảo sát về thực địa. Nhưng vấn đề là tại sao Hội Kỳ đến bây giờ vẫn là ngôi làng… không danh phận?
Trả lời câu hỏi này, ông Thọ nói thẳng ra rằng các tổ chức hội, đoàn thể chỉ mang chức năng tư vấn phản biện còn trách nhiệm để lập 1 bộ hồ sơ nghiên cứu chi tiết trình chính quyền các cấp và Bộ VH-TT-DL thẩm định thì phải là Sở VH-TT-DL tỉnh chứ không thế đùn đẩy cho ai. “Khoảng 6 năm trước, câu chuyện về làng Hội Kỳ được đưa vào kế hoạch của Sở VH-TT-DL nhưng “tắc” từ đó đến giờ. Và việc để được công nhận là phải có kế hoạch, quy trình thực hiện từng bước một chứ không phải là chủ trương chung chung. Thực tế, đến bây giờ làng Hội Kỳ chỉ được gọi nôm na là “làng cổ” chứ chưa được công nhận là di tích, di sản cấp tỉnh thì làm sao mơ đến tầm quốc gia”, ông Thọ nói.
Dân e ngại với danh hiệu
Bên kia sông Ô Lâu, làng cổ Phước Tích, tỉnh Thừa Thiên-Huế được Nhà nước công nhận di tích cấp quốc gia, thu hút hàng triệu lượt khách du lịch đến tham quan, nghiên cứu, góp phần thúc đẩy sự phát triển ngành du lịch. Nhiều người cho rằng làng cổ Hội Kỳ nếu được khảo sát đánh giá và đầu tư đúng mức thì có thể trở thành một tuyến du lịch lý tưởng trên hành lang Đông - Tây, hoặc một điểm dừng của tuyến du lịch nhà thờ La Vang - Trằm Trà Lộc - bãi tắm Mỹ Thủy...
Thế nhưng, không phải tất cả người dân Hội Kỳ đều tỏ ra thích thú, lạc quan với những danh hiệu. Dẫu rằng, ai cũng sẽ thấy tự hào khi quê hương bản quán được vinh danh trên bản đồ làng cổ nước nhà, nhưng kèm theo đó là những lo ngại về những hệ lụy về sau, khi đã được công nhận.
Ông Dương Văn Mạnh, người đang giữ gìn nhà cổ “Tích Khánh Đường” cho rằng: “Có thể làng Hội Kỳ bây giờ không ồn ã nhưng lại yên bình. Phàm là nhà cổ thì cứ để thế đi, chứ ồn ào quá, rình rang quá thì không còn ra cái nếp nhà cổ nữa”.
Người đàn ông đã 62 tuổi này còn lo ngại rằng, sự công nhận sẽ đi kèm với hệ lụy khi du khách đến đông, mang theo những nếp sống hiện đại đến với nhà cổ. Điều nữa, ông Mạnh lo gia đình sẽ mất đi “quyền làm chủ” đối với ngôi nhà của tổ tiên để lại khi chịu sự quản lý của các cấp, nếu có muốn sửa chữa khi hư hỏng cũng rất rườm rà, phức tạp…
Tuy nhiên, ông Lê Đức Thọ, Phó giám đốc Ban quản lý di tích Quảng Trị cho biết sự e ngại của người dân là điều dễ hiểu và xung đột giữa bảo tồn - phát triển luôn nóng bỏng nhưng không phải là không thể giải quyết hài hòa. “Nếu cả người dân, du khách, chính quyền và ngành chức năng cùng nhìn về một hướng, cùng hướng tới điều tối thượng là bảo vệ những giá trị cổ ở Hội Kỳ thì mọi việc hẳn sẽ trôi tròn”, ông Thọ nói.
Như dòng sông Ô Lâu luôn phải chảy ra biển lớn, đời sống con người dù là ở Hội Kỳ hay bất cứ nơi nào đi nữa cũng không thể đứng yên mà cần phát triển, nhưng hi vọng rằng sự phát triển sẽ không làm vỡ vụn những gì còn sót lại ở ngôi làng này từ thời khai canh lập xứ. Để Hội Kỳ được đặt xứng đáng vị trí của nó chứ không chỉ đứng “tủi thân” bên dòng Ô Lâu.






















Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét