Thứ Hai, 4 tháng 6, 2018

Sính lễ đặc biệt trong đám cưới của người Bru Vân Kiều

Phong tục trao sính lễ trong lễ cưới là một nét văn hóa truyền thống độc đáo của người Bru-Vân Kiều.
Đến ngày cưới, nhà chú rể bày biện mâm cỗ để bà con, bè bạn ăn lót dạ lấy sức đi hết quãng đường đến nhà gái đón dâu. Ngày trước, giờ đón dâu nhất nhất phải là thời khắc tảng sáng bởi người Bru-Vân Kiều quan niệm bình minh là lúc vạn vật tràn trề nội lực, là buổi mới mẻ khởi sự cho mọi điều tốt đẹp. Bởi thế, vào ngày cưới của người Bru-Vân Kiều, nếu nhà trai cách xa nhà gái thì đoàn đón dâu phải khởi hành vào lúc đêm khuya để đến nhà gái cho kịp giờ. Lễ vật nhà trai mang đến thường có vòng tay bằng bạc, vòng cổ mã não, váy áo truyền thống và không thể thiếu chiếc nồi đồng, thanh kiếm và miếng bạc nén. Đó chính là ba lễ vật phải có để tiến hành tục trao kiếm trong ngày cưới, xác tín với mọi người rằng cô thanh nữ này đã đủ điều kiện “gánh vác giang sơn nhà chồng”.

Nồi đồng, thanh kiếm và miếng bạc nén - sính lễ bắt buộc để cưới vợ của đàn ông Bru-Vân Kiều


Sau nghi lễ vái lạy tiên tổ, bố mẹ hai bên và người mai mối, nghi thức trao kiếm bắt đầu. Chú rể tuốt thanh kiếm ra khỏi bao, đặt lên miệng chiếc nồi đồng, bên cạnh đó có thêm miếng bạc nén. Xuất xứ của miếng bạc nén có từ thời thuộc Pháp; ở bản làng Bru-Vân Kiều xuất hiện một vài nghệ nhân chuyên gia công loại khuôn đúc bạc nén bằng cách nung chảy đồng bạc Đông Dương (tức xu bạc “hoa xòe” là đơn vị đếm cơ bản của đơn vị tiền tệ mà thực dân Pháp phát hành và cho lưu thương tại ba nước Đông Dương từ năm 1885-1954) sau đó múc đổ vào khuôn thành miếng bạc nén phục vụ phong tục hỏi cưới của đồng bào mình. Tiếp đến, cô dâu sẽ tiếp nhận sính lễ của nhà trai và đưa tất cả cho mẹ mình. Mẹ cô dâu đặt chúng trang trọng trong một chiếc típ (đồ đan bằng mây tre, tựa như một chiếc gùi thu nhỏ) mang ra sau chái bếp. Bà từ từ khơi lửa trong bếp lên thật đượm, lấy sừng trâu múc nước trong thau nhôm đã chuẩn bị sẵn đổ vào nồi đồng rồi bắc nồi lên bếp nấu. Khi nước bắt đầu sôi, bà bỏ miếng bạc nén vào, đoạn bà tiếp tục đun lửa đến khi nước sôi cạn tới đáy thì ngưng. Để kết thúc nghi lễ trao kiếm, bà tuốt kiếm ra khỏi bao và đâm dứt khoát mũi kiếm xuống cạnh chiếc nồi đồng rồi lẩm bẩm đọc lời cầu khấn. Chừng 5 phút sau, mẹ cô dâu chỉ tay ra hiệu với bà con hai họ mọi thủ tục đã hoàn tất. Ngoài 2 mẹ con cô dâu ra, giây phút ấy ai cũng hớn hở vỗ tay chúc mừng.

Giải nghĩa lệ tục này, người Bru-Vân Kiều cho rằng mũi kiếm và chuôi kiếm là hai thực thể trong một thân thể, tượng trưng cho người chồng và người vợ. Cưới nhau rồi thì thề nguyện tương tri, gắn bó trăm năm. Ngoài ra, thanh kiếm còn là lời khẳng định đanh thép về khí khái và thể trạng của đàn ông Bru-Vân Kiều, ngầm xác tín với nhà gái về một tương lai yên bình của con cái họ. Chiếc nồi đồng và miếng bạc nén tượng trưng cho sự no đủ, là biểu tượng may lành sẽ tới với đôi tân hôn mai này. Tất cả sính lễ đó sẽ do nhà gái cất giữ. Nhà nào sinh toàn con trai cứ việc chuẩn bị chừng ấy đồ lễ để hỏi cưới cho con. Với nhà giàu có thì kiếm sẽ được khắc chạm tinh xảo từ lưỡi đến chuôi; còn nhà nghèo thì chỉ cần nung dẹt thanh sắt thành hình cái kiếm là được.

Phong tục trao kiếm, nồi đồng và bạc nén trong ngày cưới của người Bru-Vân Kiều vẫn được duy trì đến tận hôm nay, dẫu đã khác xưa nhiều. Giờ người ta có thể vô tư mượn lễ vật của nhau hoặc mỗi dòng họ chỉ việc chuẩn bị một bộ kiếm, nồi đồng và miếng bạc nén để phục vụ ngày cưới con trai, cháu trai của mình. Nhà gái giờ không giữ sính lễ lại làm của riêng nữa mà cho phép nhà trai “mượn” lại, nhờ thế mới nối dài được phong tục cưới hỏi đặc biệt này của tộc người đến tận ngày nay. 
Nguyễn Tiến Dũng
Tín vật kết duyên của người Vân Kiều
Bao đời nay, trong huyết quản của người Vân Kiều đã chảy tràn dòng máu khí khái được thừa hưởng từ sự hào hùng và vững chãi của dãy núi Trường Sơn nơi họ sinh sống.
Noi theo ông cha, trong thâm tâm con cháu dân tộc Vân Kiều luôn xác tín phải giữ gìn đời sống tinh thần phóng khoáng và tấm lòng rộng mở, chấp nhận phần thua thiệt sẵn sàng nhường cơm sẻ áo với anh em đồng tộc. Duy nhất một tín vật mà họ chỉ trao truyền cho con cháu ruột rà và chỉ khoác lên mình khi hỏi cưới, lễ lạt, đó là chiếc xi-lúc-thắc (áo thắc), tín vật trao duyên riêng biệt và độc đáo của người Vân Kiều.

Áo thắc là một dạng áo nữ được đồng bào Vân Kiều giữ gìn như bảo vật mà bây giờ số lượng chỉ đếm được trên đầu ngón tay ở mỗi làng bản. Dường như đã trở thành quy tắc bất di bất dịch, chỉ người nào bà con thực sự tin tưởng mới đem áo thắc ra cho xem, ngoài ra không mặc cả, không đổi chác, không bán mua. Áo thắc quý giá vì nhiều lý do. Trước hết, đây là chiếc áo được chính bàn tay phụ nữ Vân Kiều ngày xưa, cũng là tổ tiên của họ tự tay dệt vải, thêu thùa rồi tự may lấy bằng bàn tay khéo léo.
 
Áo thắc - báu vật thiêng liêng của phụ nữ Vân Kiều.

Áo thắc có cả giá trị kim tiền vì từ một vòng quanh cổ áo tới hai vạt cúc áo cho đến những điểm nhấn trên áo đều được đính hoàn toàn bằng đồng tiền Đông Dương (người Vân Kiều hay gọi là đồng bạc hoa xòe) làm bằng bạc (ra đời vào khoảng thời gian 1885-1954). Áo thắc còn giá trị ở chỗ, nó vẫn hiện diện thường trực trong sắc màu đa thần ở các lễ hội của người Vân Kiều xưa nay, trong đó không thể không nhắc đến lễ tục cưới hỏi.

Trong trí nhớ của các cụ bà người Vân Kiều, trước đây gia đình Vân Kiều nào cũng sở hữu một tấm áo thắc. Là vì ngày ấy, con gái về nhà chồng đều được mẹ tự tay may hoàn chỉnh cho một chiếc áo thắc, vừa làm của hồi môn vừa để con mình được xúng xính bằng bạn bằng bè, nở mày nở mặt với bà con hai họ trong đám cưới. Từ lâu, phụ nữ Vân Kiều luôn ý thức được áo thắc sẽ là tín vật kết ước duyên phận nhưng do chiến tranh, do đói khó nên ban đầu là bán đồng bạc Đông Dương đính trên áo để mua vải vóc, sau đó họ bán luôn cả tấm áo để đổi lấy lương thực. Áo thắc còn lại số lượng ít ỏi là vì thế. Giờ đời sống đồng bào khấm khá lên rồi, dấu ấn văn hóa thuở nào vẫn sống động trong tâm trí nhưng để tự tay dệt nên một tấm áo thắc, thêu hoa văn chỉn chu cũng như đính đầy đủ số lượng tiền đồng trên áo là điều không dễ. Và thế là những dòng họ nào, những gia đình nào may mắn giữ lại những chiếc áo thắc thì còn sung sướng hơn cả bắt được vàng. Ai không có thì đến ngày cưới con lại phải đi mượn để làm đẹp lòng tiên tổ.

Chiếc áo thắc linh thiêng và đặc biệt trong ngày cưới nên dẫu đang còn trẻ trung, phơi phới xuân thì nhưng mỗi thiếu nữ Vân Kiều sau thời khắc lãnh nhận chiếc áo truyền thống từ người thân sẽ phải khắc ghi lời dạy thủy chung trong hôn nhân gia đình của mẹ cha, rằng trái tim mình giờ đã có chủ, hãy vứt bỏ ngoài tai những lời ong mật từ những gã si tình ngoài kia để sống đời vợ chồng cho tốt. Ở bên nhà chồng, phụ nữ Vân Kiều ngoài chu toàn công việc nữ công gia chánh, vun vén tổ ấm còn phải gìn giữ chiếc áo thật cẩn thận, tránh rách gấu hay đứt mất khuy bởi theo quan niệm đó là những điều tối kị kéo theo nhiều hệ lụy xấu, có thể dẫn đến sứt mẻ tình cảm lứa đôi. Nếu gia đình nào có điều kiện muốn dệt vải, thêu thùa thêm một tấm áo mới cũng phải làm lễ cúng Giàng, bởi thay chiếc áo mới là công việc hệ trọng y như thay đổi vận mệnh cho bản thân người đó vậy.

Ngày nay, nếu đến thăm thú các bản làng Vân Kiều, nếu may mắn bạn sẽ được tận mắt chứng kiến đám cưới của đồng bào mà không khỏi trầm trồ về chiếc xi-lúc-thắc mà cô dâu xúng xính mặc trên mình. Cùng với thách thức hội nhập giữa miền ngược với miền xuôi, chiếc áo thắc là nét văn hóa độc đáo nổi trội và khác biệt của những người phụ nữ dân tộc thiểu số ở miền sơn cước. Chừng nào đồng bào còn cảm tình sắt son với tấm áo thì chừng đó sự linh thiêng của tình yêu đôi lứa và nền nếp tộc người vẫn mãi là những biểu tượng mới mẻ và đẹp đẽ giữa cuộc đời. 
Theo baodaklak.vn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét