
Điển tích con ngựa thành Troy của người Hy Lạp kể trên có nhiêu phần là sự thật thì không quan trọng nhưng nó trở thành bài học rất hay về việc dùng gián điệp. Trong quá trình chinh phạt về phía Tây, người Nguyên Mông có thể đã tiếp thu được tinh hoa từ điển tích này để dựng lại thành âm mưu ám hại hoàng tử Lý Long Tường.
Trong phần trước, chúng tôi có kể câu chuyện Mông Cổ đánh Cao Ly thứ 2 vào năm 1253 dưới thời Đại hãn Mông Kha. Quân Nguyên Mông do Đường Cơ chỉ huy tấn công Hoàng Hải cả đường thủy lẫn đường bộ. Lý Long Tường lãnh đạo quân dân trong vùng chống trả quân Nguyên Mông suốt 5 tháng ròng bằng binh pháp của Đại Việt do ông truyền dạy. Binh pháp của Lý Long Tường quả thật lợi hại nên khiến quân Mông Cổ tốn nhiều thời gian, tiền bạc và máu xương cũng không hạ nổi thành.
Sau người Mông Cổ dùng kế tặng cho Lý Long Tường 5 hòm vàng với đề nghị cầu hòa. Trong bối cảnh đánh nhau giằng co mệt mỏi rồi đối phương muốn cầu hòa thì nhiều người chủ quan sẽ rất dễ mắc mưu vì cho rằng đối phương đã hết bài. 5 hòm vàng mà quân Nguyên Mông tặng cho Lý Long Tường không đơn giản chút nào mà ẩn chứa trong đó cả một mưu kế.
Theo sử liệu Hàn Quốc, người Mông Cổ đã đặt trong đó thích khách nhằm mục đích ám sát Lý Long Tường (có lẽ nghĩ rằng Lý Long Tường thấy hòm vàng sẽ nảy lòng tham rồi đưa về tư dinh chăng?). Một khi Lý Long Tường bị hạ thì quân lính không người cầm đầu sẽ chẳng đánh cũng tự tan. Và cho dù không hạ Lý Long Tường thì các thích khách này cho một mồi lửa vào đại doanh trại làm hiệu cho quân bên ngoài đánh vào thì hậu quả cũng rất khó lường.
Trong thần thoại Hy Lạp, cái kế này đã rất nổi tiếng với điển tích con ngựa thành Troy. Theo điển tích này, quân Hy Lạp kéo sang đánh chiếm thành Troy để cướp lại nàng Helen xinh đẹp bị hoàng tử thành Troy là Paris cướp về (thật ra thì Helen đồng lòng cùng Paris trốn khỏi Athens về Troy). Cuộc chiến này kéo dài suốt 10 năm với sự tham gia của nhiều vị thần. Dù quân Hy Lạp có nhiều chiến thắng quan trọng và hạ được người anh hùng số 1 thành Troy là Hector (anh trai của Paris) nhưng vẫn không hạ được tòa thành kiên cố này. Sau, người Hy Lạp dùng kế đã ra lệnh xây một con ngựa khổng lồ bằng gỗ, bên trong có các khoảng trống, quân Hy Lạp núp vào trong đó. Cả toán quân còn lại vờ nhổ trại, lên tàu rút lui ra khơi, để lại con ngựa khổng lồ. Người dân thành Troy tò mò đã lôi ngựa vào thành. Cả thành liên hoan ăn mừng chiến thắng, và tối đó khi mọi người đã say ngủ vì uống rượu và nhảy nhót suốt ngày, thì các binh lính của Hy Lạp đã phá ngựa, chui ra và mở cửa thành cho quân đội Hy Lạp vào. Thế là quân Hy Lạp đã đánh phá tan tành quân đội thành Troy và đốt cháy thành.
Điển tích con ngựa thành Troy của người Hy Lạp kể trên có nhiêu phần là sự thật thì không quan trọng nhưng nó trở thành bài học rất hay về việc dùng gián điệp. Trong quá trình chinh phạt về phía Tây, người Nguyên Mông có thể đã tiếp thu được tinh hoa từ điển tích này để dựng lại thành âm mưu ám hại hoàng tử Lý Long Tường.

Chẳng dè Lý Long Tường lại sai người đục lỗ phát hiện mưu gian nên tương kế tựu kế đổ nước sôi vào lỗ giết chết thích khách rồi đem trả lại hòm vàng. Việc đó khiến tướng Mông Cổ tức giận nên xua quân trả thù và rơi vào mai phục của quân Lý Long Tường. Trận đó, quân Mông Cổ đại bại.
Sau chiến công này, vua Cao Ly đổi tên Trấn Sơn thành Hoa Sơn, phong Lý Long Tường làm Hoa Sơn Tướng Quân. Vua Cao Ly cũng cho lập bia tại đây để ghi công ông, bia chép: " Văn bia chép: Đời An Hiếu vương nước Cao Ly năm Quý Sửu 1253 đại quân Mông Cổ tiến đánh quốc đô, đánh tiếp sang Ủng Tân phía tây gây tình thế nguy cấp. Vì nghĩa khí và chí anh hùng sắn có trong máu người quân tử Lý Long Tường đem quân giao chiến với quân Mông. Năm tháng trường kỳ kháng chiến, quân Mông Cổ thua hàng rút chạy. Nhà vua khen ngợi sai đổi Trấn Sơn Thành thành Hoa Sơn, phong cho Lý Long Tường làm tướng quân Bạch Mã, lại sai dựng Thụ Hàng môn để ghi nhớ công đức Hoàng thúc Lý Long Tường”.. Còn người Hàn Quốc thì nhớ mãi sự khôn ngoan, lòng dũng cảm và chiến công của Lý Long Tường. Thậm chí, họ còn đưa điển tích này lên màn bạc để ca ngợi vị hoàng tử nước Việt.
Năm 1958, trong dịp viếng thăm Việt Nam Cộng hòa, Tổng thống Hàn Quốc khi ấy là Lý Thừa Vãn đã tuyên bố rằng tổ tiên ông là người Việt. Theo nhà nghiên cứu Trần Đại Sỹ thì Lý Thừa Vãn là hậu duệ đời thứ 25 của Lý Long Tường. Báo chí Sài Gòn trước năm 1975 đã đưa tin tổng thống Hàn Quốc lúc bấy giờ là Lý Thừa Vãn đã tuyên bố rằng tổ tiên ông là người Việt. Dòng họ Lý gốc Việt tại Hàn Quốc thừa nhận cựu tổng thống Lý Thừa Vãn là hậu duệ đời thứ 25 của hoàng tử Lý Long Tường. Chuyện này vẫn gây tranh cãi nhưng cứ ghi tạm ra đây để cho thấy ảnh hưởng lớn của hậu duệ hoàng tử Lý Long Tường.
Sau này còn có một người khá nổi tiếng là hậu duệ của hoàng tử Lý Long Tường về Việt Nam nhận dòng họ. Đó là ông Lý Xương Căn, Đại sứ Du lịch Việt Nam tại Hàn Quốc. Ông từng kể về dòng họ Lý trên đất Hàn được báo TTVH đăng hồi đầu năm nay như sau: " Trải qua 800 năm, con cháu họ Lý ở Hàn Quốc hiện có tới khoảng 2.000 người, các hậu duệ họ Lý đã có nhiều người tìm về cố hương. Tôi là con trưởng, là hậu duệ đời thứ 31 của dòng họ, tôi phải có trách nhiệm tìm về nguồn cội, tìm lại quê cha đất tổ, về cúng tổ tiên như nỗi mong đợi nhiều thế kỷ của dòng họ. Gia phả các dòng, các đời trong dòng họ Lý Long Tường được ghi lại rất tỉ mỉ, công phu, cẩn thận và luôn nhắc tới tâm nguyện được trở về thăm quê của ông tổ. Tôi không thể nào quên được cảm giác xúc động, tự hào khi có mặt ở Đền Đô, Bắc Ninh đúng vào ngày trọng lễ hằng năm”.
Được viết thành tiểu thuyết ở Hàn Quốc từ nửa thế kỷ trước
Có thể nói Lý Long Tường có một cuộc đời nhiều bi kịch nhưng vẻ vang lẫm liệt, người đã trở thành anh hùng cả khi ở xứ lạ. Đó là một cuộc đời sóng gió và oanh liệt của một vị hoàng tử nước Việt.
Dù có thể có tình tiết chưa được thẩm định, nhưng cuốn tiểu thuyết lịch sử Hoàng thúc Lý Long Tường của Khương Vũ Hạc xuất bản ở Hàn Quốc cách nay hơn bốn mươi năm đã cho thấy vị hoàng tử Đại Việt ấy thật là một đấng anh hào, một người tài hoa, hào hoa nhất bậc. Người rất được mọị người quý mến nể trọng bởi nhân cách, bởi tâm hồn trí tuệ trác việt.
Cũng theo cuốn sách trên, Lý Long Tường còn là một người đàn ông đào hoa. Hình ảnh ông bao giờ cũng rất đẹp đẽ trong mắt những giai nhân quốc sắc, dù ở Đại Việt hay khi đã sang Cao Ly… Hai mối tình với tiểu thư mạt vận Ngô Anh Cơ và cô tiểu thư đài các đất Cao Ly Trịnh Anh Cơ đã cho thấy cuộc đời vị Hoàng tử ấy thật đẹp và thật bi hùng…
theo TTVH
Anh Tú
Hình tượng Lý Long Tường cầm gươm rất oai phong
Tướng quân người Việt giúp Hàn Quốc chống quân Nguyên

Hiện tại HLV Park Hang-seo đang giúp đội tuyển Olympic Việt Nam viết những trang sử đáng nhớ tại Asian Games. Nhưng cũng đừng quên là trước đó, có một danh tiếng Đại Việt dùng binh pháp của người Việt để chặn đứng đà xâm lăng của vó ngựa Nguyên Mông bằng chính binh pháp của người Việt.
Hoàng tử Lý Long Tường sinh năm 1174 (Giáp Ngọ), là con thứ 7 của vua Lý Anh Tông (trị vì 1138-1175) và Hiền Phi Lê Mỹ Nga. Đến thời vua anh Lý Cao Tông, ông được ban chức Thái sư Thượng trụ quốc, Khai phủ nghị đồng tam tư, Thượng thư tả bộc xạ, lĩnh đại đô đốc hải quân, tước Kiến Bình vương (Theo Trần tộc Vạn thế Ngọc phả của dòng dõi Chiêu quốc vương Trần Ích Tắc để tại từ đường thuộc thị xã Lãnh Thủy, huyện Chiêu Dương, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc).
Năm 1225, Lý Chiêu Hoàng, cháu gọi Lý Long Tường là ông trẻ, đã nhường ngôi cho Trần Cảnh khiến ngai vàng chuyển từ họ Lý sang Trần. Lúc đó, binh quyền ở triều đình rơi vào tay của người nhà họ Trần cả. Trần Thủ Độ là người có chủ trương sắt máu nên không dung người họ Lý trong triều đình. Sở dĩ Lý Long Tường chưa bị động đến sớm là do ông giữ binh quyền bên ngoài mà thôi. Tuy nhiên, Lý Long Tường là người cơ trí nên ông hiểu tình thế lúc đó là "tẩu vi thượng sách".
Năm 1226, để bảo toàn tính mạng, Lý Long Tường đã bí mật về Kinh Bắc, vái lạy tạ biệt lăng miếu Đình Bảng, tới Thái miếu thu gom các bài vị, các đồ tế khí, rồi trở lại Đồ Sơn cùng sáu ngàn gia thuộc qua cửa Thần Phù, Thanh Hóa chạy ra biển Đông trên ba hạm đội. Một cuộc sơ tán lớn như vậy phải có sự chuẩn bị rất kỹ càng thì mới có thể đưa được 6.000 người đi. Nhà Trần có thể biết điều đó nhưng vẫn không có động thái ngăn cản hay truy đuổi gì vì suy cho cùng, Lý Long Tường xuất bôn lại là điều có lợi với nhà Trần.
Cái hay của Lý Long Tường là ông không dừng chân tỵ nạn ở đất Tống dù từ Đồ Sơn sang Tống rất gần. Lý Long Tường chắc hẳn cũng biết nhà Tống khi ấy suy yếu trước áp lực của Kim, Mông ở phương Bắc nên e dè nhà Trần. Nếu sang Tống, có khi lại bị chính quyền nhà Tống dẫn độ về Đại Việt giống như trường hợp của Trần Doãn sau này. Chính vì thế Lý Long Tường không ghé thuyền vào Tống mà dong thẳng lên phía bắc.
Sau một tháng lênh đênh trên biển, đoàn thuyền gặp bão lớn phải ghé vào đảo Đài Loan. Khi Lý Long Tường quyết định lên đường thì con trai là Lý Long Hiền ốm nặng nên phải ở lại cùng 200 gia thuộc. Trên đường đi tiếp đoàn thuyền bị bão dạt vào Trấn Sơn, huyện Bồn Tân, tỉnh Hoàng Hải, trên bờ biển phía tây Cao Ly.
Vua Cao Tông của nước Cao Ly đã tiếp đón vị hoàng tử và đoàn tùy tùng lánh nạn từ Đại Việt sang. Bút đàm bằng chữ Hán đã giúp họ hiểu hoàn cảnh của nhau. Nhà vua cấp cho họ vùng đất ở Ung Tân để làm ăn sinh sống. Có tương truyền rằng trước đó Vua Cao Tông của Cao Ly nằm mơ thấy một con chim cực lớn bay từ phương Nam lên, vì vậy ông lệnh cho chính quyền địa phương tiếp đón ân cần, và đồng ý cho Lý Long Tường ở lại dung thân.
Lý Long Tường đã 52 tuổi, ông cùng gia nhân và binh sĩ bắt đầu cuộc sống mới trên xứ người với mọi nghề để sinh sống: vỡ đất, trồng rau, trồng cây, chăn nuôi, đánh cá... Mang nặng niềm thương nhớ cố quốc và ngày khôi phục lại giang sơn họ Lý, ông cho mở Độc thư đường dạy văn (thi phú, lễ nhạc, tế tự) và Giảng võ đường dạy võ (binh pháp, võ thuật).
Khi quân Mông Cổ còn chưa tiêu diệt xong nhà Kim, chưa ra mặt chiến tranh với nhà Tống và tất nhiên chưa giao phong với quân nhà Trần trên đất Việt thì đã được nếm mùi chiến tranh với người Việt trên đất Cao Ly. Thực vậy, Năm 1232, vua Mông Cổ là Ögedei (Oa Khoát Đài) chia quân hai đường thủy - bộ đánh sang Cao Ly.
Đường bộ, quân Mông Cổ tách làm hai, một cánh đánh thẳng vào kinh đô Khai Kinh, trung tâm nước Cao Ly, và một cánh quân đánh các tỉnh miền tây. Thủy quân Mông Cổ vượt giữa Trung Hoa và Cao Ly, tiến đánh tỉnh Hoàng Hải. Cuộc tấn công này đã bị đẩy lui. Lý Long Tường là một trong những tướng chỉ huy góp công đánh lùi quân Mông Cổ ở tỉnh Hoàng Hải. Khi ra trận, ông thường cưỡi ngựa trắng đôn đốc quân sĩ, nhân dân gọi ông là Bạch Mã Tướng quân.
Trong lần Mông Cổ đánh Cao Ly thứ 2 vào năm 1253 dưới thời Đại hãn Mông Kha thì vai trò của Lý Long Tường mới thật sự nổi bật. Quân Nguyên Mông do Đường Cơ chỉ huy tấn công Hoàng Hải cả đường thủy lẫn đường bộ. Lý Long Tường lãnh đạo quân dân trong vùng chống trả quân Nguyên Mông suốt 5 tháng ròng bằng binh pháp của Đại Việt do ông truyền dạy.
Tài liệu người Hàn còn chép Lý Long Tường cho xây pháo đài với 3 mặt dựng tường cao, một mặt để rào chắn. Quân Mông Cổ đánh vào nơi có rào chắn vì cho rằng chỗ đó dễ công phá nhất nhưng cứ vượt rào chắn là bị dội nước sôi và đá hộc. Quân Mông Cổ bắn pháo vào thì trong thành bắn pháo ra. Suốt 5 tháng, vó ngựa Nguyên Mông không thể vượt qua phòng tuyến của Lý Long Tường. Sau chiến công này, Vua Cao Ly đổi tên Trấn Sơn thành Hoa Sơn, phong Lý Long Tường làm Hoa Sơn Tướng Quân. Nơi quân Nguyên Mông đầu hàng gọi là Thụ hàng môn và Vua Cao Ly cũng cho lập bia tại đây để ghi công ông.
Ngoài Lý Long Tường là ông tổ họ Lý gốc Việt tại Hàn Quốc và Triều Tiên, tại đây còn có một họ Lý gốc Việt khác mà ông tổ là Kiến hải vương Lý Dương Côn con nuôi của vua Lý Nhân Tông.
Khoảng năm 1127 (gần 100 năm trước khi Lý Long Tường sang Cao Ly), Đô đốc Thủy quân Lý Dương Côn đã cùng tông tộc dùng thuyền sang Cao Ly tị nạn để tránh bị giết trong cuộc tranh giành ngôi báu lúc bấy giờ. Như chúng ta đã biết, Lý Nhân Tông không có con nên chọn nuôi khá nhiều người con trong hoàng thất trong đó có Lý Dương Hoán và Lý Dương Côn (sử chép: năm 1117, Thái hậu từ trần rồi mà Nhân Tông vẫn không có hi vọng về huyết mạch duy trì, bèn viết chiếu ban ra trong hoàng tộc, nói rằng: Trẫm cai trị muôn dân mà lâu không có con nối, ngôi báu của thiên hạ biết truyền cho ai? Vậy nên trẫm nuôi con trai của các công hầu Sùng Hiền, Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng, chọn người nào giỏi thì lập làm Thái tử).
Sau Lý Dương Hoán (con của Sùng hiền hầu) được chọn làm thái tử rồi lên ngôi vua (tức Lý Thần Tông) năm 1228 còn Lý Dương Côn (con của Thành Quảng hầu) được phong Kiến Hải vương trấn thủ ở Đồ Sơn. Nhưng Lý Thần Tông giữ ngôi được 10 năm thì mất. Lúc đó, con Lý Thần Tông là Thiên Tộ mới 3 tuổi nên có người muốn chọn một vị hoàng tử là con nuôi thời Nhân Tông nối ngôi. Nhưng cuối cùng Lê thái hậu và quyền thần Đỗ Anh Vũ giữ được ngôi cho Thiên Tộ và tìm cách thủ tiêu các đối thủ chính trị khác.
Kiến hải vương Lý Dương Côn đang đóng quân ở Đồ Sơn đã đem gia quyến vưọt biển tị nạn. Chính Kiến hải vương Lý Dương Côn táp thuyền vào bờ biển Busan là một tỉnh cực Đông Nam của nước Cao Ly vào năm 1150. Hậu duệ của Lý Dương Côn là Lý Nghĩa Mẫn (Lee Ui Min). Thời vua Nghị Tông (Ui-jiong 1146-1170) Lý Nghĩa Mẫn được phong chức Biệt trưởng. Vua Minh Tông (Mycong 1170-1179) thăng cho ông là Thượng tướng quân (1174), là Tây Bắc Bộ binh Mã sứ (1178) và chức Tể tướng trong suốt 14 năm (1183-1196).
Anh Tú
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét