Thứ Năm, 12 tháng 4, 2012

Những bí ẩn của vạc đồng thời Chúa Nguyễn



Xem h�nh

Đó là 11 chiếc vạc đồng độc đáo hiện còn tại đất cố đô, được tạo nên cách đây hơn 300 trước. Tất cả những chiếc vạc này đều là bảo vật của Huế, là biểu trưng một thời cho sự hưng phát của triều Nguyễn. Mỗi chiếc vạc là một tác phẩm nghệ thuật, thể hiện trình độ kỹ thuật và mỹ thuật tuyệt vời của người thợ xứ Huế. Và điều đáng nói là xung quanh sự ra đời của những chiếc vạc trên lại gắn liền với không ít giai thoại lạ lùng.

Năm 1921, Chánh mật thám Trung kỳ L.Sogny đã có một bài khảo cứu khá hay về 6 chiếc vạc thời các chúa Nguyễn; gần đây, Hồ Vĩnh cũng có một bài thống kê về 10 chiếc vạc thời kỳ này. Nhưng tựu trung chưa có một sự khảo cứu và thống kê đầy đủ nào về tất cả vạc đồng của nhà Nguyễn tại Huế. Để phân biệt khái niệm giữa Đỉnh và Vạc, chúng ta nên căn cứ vào đâu?

Theo từ điển Từ hải, từ đỉnh được giảng như sau: “Đồ khí dụng đúc từ kim loại, phần lớn thường đúc bằng đồng; có hình tròn 3 chân 2 tai; cũng có loại hình chữ nhật có 4 chân, rất thịnh hành thời Thương Chu, thời Hán vẫn lưu hành; thời Đông Chu và thời Thương cũng thường dùng đỉnh gốm là công cụ tuỳ táng các đồ minh khí” (1). Còn chữ vạc trong tiếng Việt có lẽ bắt nguồn từ chữ hoạch trong tiếng Hán. Từ hải cũng định nghĩa về chữ hoạch: “Thời cổ gọi loại đỉnh không có chân là hoạch. Nay người phương Nam cũng gọi chiếc nồi là Hoạch”. Cao Tú có chú thêm: “Có chân thì gọi đỉnh; không có chân thì gọi hoạch”  (2).

Như vậy, theo người Trung Quốc, đỉnh là loại có chân (có thể là hình tròn với 3 chân 2 tai, cũng có thể có hình vuông, chữ nhật với 4 chân...), còn hoạch là loại không có chân. Tuy nhiên, trong tiếng Việt, sự phân biệt giữa đỉnh và vạc lại không rõ ràng. Các từ điển chữ Nôm của ta đều dùng chữ hoạch để ghi chữ vạc nhưng khi giải thích về nghĩa từ thì không đồng nhất. Chẳng hạn, Nguyễn Quang Xỹ và Vũ Văn Kính trong Tự điển chữ Nôm viết: “Chữ Hán đọc hoạch là cái vạc. Cái vạc, vạc nấu dầu”(3). Anthony Trần Văn Kiệm trong Giúp đọc Hán và Nôm lại viết: “Nồi lớn, thường có chân”(4). Ngay cả Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ cũng giải thích: “Vạc: 1-Đồ dùng để nấu, giống như cái chảo lớn và sâu. Vạc dầu. 2-Đỉnh lớn. Đúc vạc đồng”(5)... Chính vì cách hiểu không thống nhất như vậy, nên cái vạc đôi khi cũng có 3 chân như đỉnh (!) Thành ngữ nước ta có câu: “Thế 3 chân vạc” hay “Vững như 3 chân vạc”... dù chiếc vạc mà chúng ta thường gọi, theo định nghĩa gốc (từ chữ hoạch) là loại đỉnh không có chân. Cũng có người cho rằng, từ vạc của tiếng Việt là bắt nguồn từ chữ vasque trong tiếng Pháp với ý nghĩa tương tự. Tuy nhiên, trên thực tế thì các nhà nghiên cứu người Pháp vẫn thường dùng cả hai từ vasque và urn để chỉ cả những chiếc đỉnh lẫn vạc của nhà Nguyễn trong các bài viết về Huế. Và đặc biệt, bản thân cha ông chúng ta cũng gọi những chiếc vạc đúc thời các chúa là đỉnh (phần lớn trên miệng vạc đều khắc chữ này). Chúng tôi không có ý định tranh luận về gốc từ đỉnh hay vạc, mà chỉ căn cứ vào các định nghĩa trên để tạm phân biệt thành 2 loại: đỉnh là loại có chân, còn vạc là loại không có chân, khi khảo cứu các vạc đồng của nhà Nguyễn.

Theo cách phân loại trên, ở Huế hiện nay vẫn còn đến 15 chiếc vạc đồng. Nhưng không rõ tại sao hơn 80 năm trước Sogny chỉ khảo cứu 6 chiếc vạc và bảng thống kê của Hồ Vĩnh cũng chỉ có 10 chiếc? Trong 15 chiếc vạc đồng này thì có đến 11 chiếc đúc thời các chúa Nguyễn, 4 chiếc còn lại đúc trong thời Minh Mạng (6).

Đây là 11 chiếc vạc được đúc trong thế kỷ XVII, từ năm 1631-1684, thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635) và Nguyễn Phúc Tần (1648-1687). Nghĩa là khi ấy, thủ phủ của nhà Nguyễn còn đặt tại Phước Yên (1626-1636) và Kim Long (1636-1687) chứ chưa chuyển về Phú Xuân. Không rõ, nguyên xưa những chiếc vạc trên được đặt tại phủ chúa hay chỗ nào, nhưng hiện nay cả 11 chiếc vạc này đều đang được đặt tại các di tích của triều Nguyễn: 7 chiếc bên trong hoàng cung, 3 chiếc trước Bảo tàng mỹ thuật cung đình Huế, 1 chiếc tại lăng Đồng Khánh. Tất cả các chiếc vạc trên đều có kích thước rất lớn, trọng lượng từ vài trăm cân đến vài ngàn cân. Tương truyền, tác giả của chúng là một ông Tây, một người Bồ Đào Nha lai Ấn Độ tên là Joaz da Cruz (hay Jean de la Croix) đã từng sống tại Huế trong thời gian trên. Cruz đến Huế vào nửa đầu thế kỷ XVII, sống tại Phường Đúc (khu vực đối diện phía thượng nguồn chùa Thiên Mụ), lấy vợ người Việt và được xem là người sáng lập ra ngành đúc đồng nổi tiếng của vùng đất này. Ông cùng con trai đã giúp chúa Nguyễn đúc rất nhiều vũ khí để phục vụ chiến tranh chống chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và công cuộc mở đất ở phíaNam. Để kỷ niệm cho các lần chiến thắng và cũng là để biểu thị cho uy quyền cùng sự trường tồn của dòng họ, chúa đã sai ông đúc những chiếc vạc to lớn này.

Tuy nhiên, theo chúng tôi, chiếc vạc đầu tiên thì chắc chưa có bàn tay và sự chỉ đạo của Cruz vì nó quá khác những chiếc còn lại và còn bởi từ hình dáng đến kiểu thức trang trí đều có vẻ rất thuần Việt. Vạc được đúc năm 1631, thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, hiện đang được đặt ngay trước hiên điện Long An (hiện là toà nhà trưng bày chính của Bảo tàng mỹ thuật cung đình Huế). Đây là một chiếc vạc có hình dáng rất lạ-tương tự một chiếc nồi kích thước lớn, cổ thắt bụng phình to, trên cổ có 4 quai được tạo dáng khá đẹp. Quanh thân vạc, gần trên cổ có trang trí. Điều đáng nói là từ trước đến nay chưa thấy ai đề cập đến chiếc vạc độc đáo này. Trên thân vạc có đề niên đại “Tuế thứ Tân Mùi nhuận trọng xuân”, tức năm 1631 (7). Trọng lượng vạc là 560 cân. Theo chúng tôi, chiếc vạc này chắc chắn do người Việt Nam đúc, còn đúc tại đâu thì chưa rõ.

Chiếc vạc thứ hai được đúc năm 1659, hiện được đặt phía trước điện Kiến Trung, bên trong Tử Cấm Thành Huế. Theo khảo cứu của L.Sogny, chiếc vạc này cho đến năm 1921 vẫn còn được đặt phía trước đồn binh Pháp tại khu Mang Cá Lớn, về sau qua thương thảo, người Pháp mới chịu cho triều Nguyễn chuyển nó vào bên trong Đại Nội (8). Trên miệng vạc có ghi rõ năm đúc là Thịnh Đức thứ 7 và trọng lượng chiếc vạc là 2154 cân (khoảng 1.378kg). Tuy nhiên, Sogny có thắc mắc tại sao trên miệng đỉnh có khắc dòng chữ “nhất song” (nghĩa là một đôi) nhưng hiện còn chỉ 1 chiếc? Sogny cũng cho biết, hoàng tử Phụng Hoá (tức Phụng Hoá công Nguyễn Phúc Bửu Đảo) sau này trở thành vua Khải Định cho rằng chiếc vạc cùng cặp với chiếc thứ nhất hiện được đặt tại lăng vua Đồng Khánh, nhưng ông không nhất trí với quan điểm này. Lý do là chiếc vạc tại lăng Đồng Khánh được đúc sau đó đến 14 năm (năm 1673) và trọng lượng cũng chỉ bằng phân nửa chiếc vạc trên (1.013 cân). Theo chúng tôi, chiếc vạc cùng cặp với chiếc vạc trước điện Kiến Trung hiện nay chính là chiếc hiện được đặt phía trước, bên phải điện Long An dù trọng lượng chiếc vạc này còn nhỏ hơn chiếc vạc tại lăng Đồng Khánh. Chiếc vạc thứ ba này cũng được đúc vào năm 1659 nhưng không đề niên hiệu vua Lê mà đề niên đại theo can chi (Kỷ Hợi niên tứ nguyệt tạo đỉnh), trọng lượng của vạc chỉ là 560 cân, nhưng nó lại có cùng kiểu dáng và hình thức trang trí với chiếc vạc đặt trước điện Kiến Trung. Cùng niên đại và cùng hình dáng, kiểu thức trang trí là nguyên nhân khiến chúng tôi khẳng định, hai chiếc vạc trên là một cặp được đúc cùng thời. Ngoài ra, có một chi tiết cũng rất đáng chú ý: trên miệng chiếc vạc thứ 2 này còn khắc 3 chữ Nội phủ tướng. Phải chăng thời chúa Nguyễn Phúc Tần, chiếc vạc này vốn được đặt bên trong phủ chúa?

Chiếc vạc thứ tư và thứ năm có lẽ là một cặp được dự định đúc cùng thời nhưng thực tế lại cách nhau đến 2 năm hiện đang được đặt trước sân điện Cần Chánh, bên trong Tử Cấm Thành. Đây là 2 chiếc vạc có kích thước và trọng lượng lớn nhất trong các vạc thời chúa Nguyễn. Chiếc thứ nhất đúc năm 1660 (năm Thịnh Đức thứ 8), trọng lượng 2482 cân; chiếc thứ 2 đúc năm 1662 trọng lượng 2425 cân; cả hai đều có đường kính miệng trên 2,2m, cao trên 1m. Hai chiếc vạc này có hình dáng và kiểu thức trang trí rất giống nhau, trên miệng vạc đều khắc 2 chữ Hán nhất song(một đôi) (9).

Chiếc vạc thứ sáu đúc vào năm Cảnh Trị thứ 8 (1670), hiện đặt ở phía trước, bên phải Duyệt Thị Đường, nặng 938 cân. Chiếc cùng đôi với nó được đúc sau đó 1 năm (1671), hiện được đặt ở góc sân phía đông điện Thái Hoà. Chiếc vạc thứ bảy này nặng 896 cân, hình thức trang trí gần giống như chiếc thứ sáu.

Đôi vạc thứ  tám và thứ chín cũng rất dễ nhận biết vì từ hình dáng đến kích thước đều tương tự nhau, tuy nhiên, niên đại đúc của chúng lại lệch nhau đến 13 năm. Đó là hai chiếc vạc đặt trước sân điện Càn Thành. Chiếc bên trái (nhìn từ trong ra) đúc năm Chính Hoà thứ 5 (1684), nặng 1395 cân; chiếc bên phải đúc năm Cảnh Trị thứ 10 (1671), nặng 1390 cân. Cũng như hai chiếc vạc đặt trước sân điện Cần Chánh, hai chiếc vạc này có lẽ đã được đặt tại đây từ rất sớm. Năm 1921, Sogny đã mô tả hai đôi vạc này khá kỹ.

Chiếc vạc thứ mười hiện được đặt trong khuôn viên phần tẩm điện lăng Đồng Khánh, phía đầu hồi nhà Hữu Vu (của điện Ngưng Hy). Vạc loại 4 quai, đúc năm Dương Đức thứ 2 (1673), nặng 1.013 cân. Tuy trên miệng vạc có đề 2 chữ Hán “nhị song” (tức 2 đôi) nhưng cho đến nay cúng tôi vẫn chưa tìm được chiếc vạc nào cùng cặp với chiếc vạc này.

Chiếc vạc thứ mười một hiện đặt phía trước hiên, bên trái điện Long An, được đúc vào năm Đinh Tỵ (1667). Chiếc vạc này nặng 560 cân, trên miệng có đề nhất song nhưng chúng tôi cũng chưa tìm ra chiếc cùng đôi với nó. Điểm đáng chú ý ở chiếc vạc này là trên miệng vạc có khắc 3 chữ tiền chính cung tức nguyên xưa nó được đặt trước cung điện chính của phủ chúa (?).

***

Mười một chiếc vạc thời chúa Nguyễn, trừ chiếc đầu tiên đúc năm 1631 thì 10 chiếc còn lại có thể chia làm 2 loại chính, dựa vào kiểu dáng và cách thức trang trí, là loại vạc 8 quai và vạc 4 quai.

Loại vạc 4 quai gồm có 6 chiếc, trong đó có 2 chiếc đúc vào năm 1659, các chiếc còn lại vào các năm 1660, 1662, 1667 và 1673 (tức các chiếc số 2,3, 4,5, 10 và 11 theo thứ tự liệt kê trên). Đặc điểm chung của loại vạc này là 4 quai được đặt gần trên miệng và cao vượt quá miệng vạc, được tạo hình vặn xoắn kiểu dây thừng. Toàn bộ phần thân vạc được chia thành những lớp, những ô hình chữ  nhật để trang trí. Tuy nhiên, cách trang trí trên thân vạc cũng có đặc điểm riêng, thường những chiếc cùng một đôi thì các mô típ trang trí gần như tương đồng nhau (xem ảnh minh hoạ).

Loại vạc 8 quai gồm có 4 chiếc đúc vào các năm 1670, 1671 (2 chiếc) và 1684 (tức các chiếc số 6, 7, 8 và 9 theo thứ tự liệt kê trên). Đặc điểm chung của loại vạc này là 8 quai được đặt dưới miệng vạc một đoạn và cao không quá miệng vạc. Các chiếc quai kiểu này đều tạo hình đầu rồng có cổ vương ra từ thân vạc, trông khá sinh động. Phần thân vạc không chia thành lớp hay ô hộc hình học để trang trí như loại vạc 4 quai mà chỉ trang trí phần trên, phía gần quai vạc. Mô típ trang trí cũng khác kiểu vạc trên rất nhiều. Nhưng cũng như loại vạc 4 quai, những chiếc cùng một đôi thì có mô típ trang trí gần tương tự nhau (xem ảnh minh hoạ).

Trên đây là 11 chiếc vạc đồng thời chúa Nguyễn hiện còn trên đất cố đô. Chắc chắn là ngày xưa, Huế không chỉ có chừng ấy vạc đồng, mà có thể là nhiều hơn rất nhiều. Nhưng dù sao, với số lượng hơn 11 chiếc vạc còn lại, Huế cũng có thể tự hào là nơi có được số bảo vật thuộc loại này phong phú nhất. Và như trên chúng tôi đã khẳng định, những chiếc vạc trên đều xứng đáng xếp vào hàng bảo vật của quốc gia. Những ai quan tâm đến nghề đúc đồng và mỹ thuật trên đồ đồng của cha ông, khi đến Huế, được chiêm ngưỡng sưu tập đỉnh vạc này chắc cũng đủ cảm thấy thoả mãn!



Chú thích:

(1)Từ hải, Thượng Hải từ Thư xuất bản xã, Thượng Hải, 1989, quyển hạ (bộ 3 quyển), trang 5985.

(2) Từ hải, Thượng Hải từ Thư xuất bản xã. Sđd, tr 4516.

(3) Nguyễn Quang Xỹ & Vũ Văn Kính, Tự điển chữ Nôm, Trung tâm học liệu, 1971, tr 808.

(4) Anthony Trần Văn Kiệm, Giúp đọc Hán và Nôm, bản in tại Mỹ, 1997, tr.923.

(5) Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Viện ngôn ngữ, Nxb Đà Nẵng, 1996, tr.1056.

(6) Đây là 4 chiếc vạc hiện đang được đặt phía trước điện Hoà Khiêm, trong khu vực lăng Tự Đức. Bốn chiếc được đặt đối xứng với nhau, lấy trục đối xứng là đường Thần đạo của phần tẩm điện và gần như lấy điểm đối xứng là vị trí đặt chiếc đỉnh đồng đốt vàng mã hình chữ nhật đặt gần như ở chính giữa sân. Theo thứ tự từ trong (phía điện Hoà Khiêm) ra ngoài, từ trái qua phải, 4 chiếc vạc này gồm:

- Chiếc thứ 1 được đúc vào năm 1825, nặng 430 cân;

- Chiếc thứ 2 cũng được đúc cùng năm với chiếc trên, nặng 435 cân;

- Chiếc thứ 3 được đúc vào năm 1828, nặng 352 cân;

- Chiếc thứ 4 được đúc cùng năm với chiếc thứ 3, nặng 399 cân.

Trong 4 chiếc trên, hai chiếc đầu đều có ghi rõ do Võ Khố phụng mệnh vua để đúc vào tháng 2 năm Minh Mạng thứ 6 (Minh Mạng lục niên nhị nguyệt cát nhật Võ Khố phụng tạo); hai chiếc sau thì chỉ đề năm đúc và trọng lượng chứ không ghi đơn vị đứng ra đúc. Tuy về trọng lượng 4 chiếc vạc trên có khác nhau song nhìn về hình thức và kích thước thì gần như tương tự. Cả 4 chiếc đều thuộc loại vạc 4 quai, nhưng 4 chiếc quai này lại được đặt thấp dưới miệng vạc và được tạo hình kiểu đầu rồng, trông gần giống quai của loại vạc 8 quai thời chúa Nguyễn. Về hình dáng thì thân vạc có kiểu gần như hình chum trên to dưới nhỏ chứ không tạo kiểu hình trụ thẳng đứng trên dưới bằng nhau như 10 chiếc vạc thời các chúa. Thân 4 chiếc vạc này đều để trơn, không trang trí. Cả 4 chiếc vạc này đều được đặt trên chân đế hình tròn làm bằng đá Thanh. Kiểu chân đế này tương đối mới, có lẽ được làm cuối thời Nguyễn. Tất cả những đặc điểm này thể hiện, cả về cách tạo hình và trang trí, nghề đúc đồng dưới triều Nguyễn có sự kế thừa từ thời các chúa. 

(7) Thực ra, khi kiểm tra toàn bộ lịch Việt Nam xưa nay (từ năm 0 đến năm 2000) chúng tôi hoàn toàn không tìm được năm Tân Mùi nào có nhuận tháng 2. Sau đó phải nhờ vào chú thích của Lê Quý Ngưu trong bộ Lịch Vạn niên mới biết, do sự khác nhau trong cách tính nên giữa lịch Đàng Trong và Đàng Ngoài có khác nhau về tháng nhuận các năm Tân Mùi (dù cùng lấy từ Khâm định Vạn niên thư của nhà Minh). Từ đó chúng tôi mới biết được, năm Tân Mùi nhuận Trọng xuân chính là năm 1631.

(8) L.Sogny, Những chiếc vạ đồng tại hoàng cung, B.A.V.H, 1921, bản dịch của Phan Xương, Nxb Thuận Hoá, Huế, 2001, tr 5-48. Như trên đã nói, chúng tôi chưa rõ vì sao, khi viết bài này, Sogny chỉ khảo sát và thống kê được 6 chiếc vạc thời các chúa Nguyễn. Năm chiếc khác hiện đặt tại khu Duyệt Thị Đường, bên trái điện Thái Hoà và phía trước Bảo tàng mỹ thuật Cung đình Huế thì ông lại không hề đề cập (?). Riêng về chiếc vạc nói trên, theo Sogny, những người lớn tuổi tại Huế (thời điểm viết bài là năm 1921) thì cho rằng, có thể trước đây chiếc vạc này được đặt trước điện Hiếu Tư (thuộc cung Khánh Ninh của vua Minh Mạng) hoặc trước điện Long An (thuộc cung Bảo Định của vua Thiệu Trị), hoặc cũng có thể đặt trước sân Thái Miếu trong hoàng cung. Sau vụ thất thủ kinh đô, tháng 7.1885, quân Pháp đã đưa chiếc vạc này về đặt trước khu Nhượng địa (tức Mang Cá Lớn). Người Pháp cũng định đưa chiếc vạc trên qua tham dự Hội chợ triển lãm Marseille năm 1906, nhưng ý định này bất thành.

(9) Thực ra các niên hiệu đề trên 2 chiếc vạc này đều có sự nhầm lẫn. Niên hiệu Thịnh Đức của vua Lê Thần Tông thời Hậu Lê chỉ kéo dài từ năm 1653-1657; từ năm 1658 đã đổi thành niên hiệu Vĩnh Thọ; đến năm 1662 lại đổi thành niên hiệu Vạn Khánh. Tuy nhiên, có lẽ khi đúc những chiếc vạc này, chúa Nguyễn vẫn chưa biết vua Lê đã đổi niên hiệu nên ông vẫn sai khắc các niên hiệu Thịnh Đức thứ 8, Thịnh Đức thứ 10 (?). Cũng vì sự “nhầm lẫn” này mà Sogny đã chứng minh rằng các vạc đồng nói trên đều được đúc tại Đàng Trong chứ không phải đúc tại Hà Nội rồi sau đó vua Gia Long đã đưa về Huế sau cuộc Bắc tiến năm 1801, như lời ông quan võ triều Nguyễn “thông hiểu về lịch sử” đã nói với ông trước đó.
Phan Thanh Hải (Theo Kiến Thức Ngày Nay 563)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét