Thứ Sáu, 27 tháng 4, 2012

Đi tìm mộ thân mẫu vua Đinh Tiên Hoàng qua những trang thần phả


Sách ĐVSKTT (tập 1- trang 203- NXB Văn hoá Thông tin năm 2004), phần kỷ nhà Đinh có viết: “Vua họ Đinh tên huý là Bộ Lĩnh người ở động Hoa Lư Châu Đại Hoàng (nay là huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình) là con trai vua Đinh Công Trứ, thứ sử Hoan Châu. Dẹp yên các xứ quân, tự lập làm Đế” … “Vua còn nhỏ mồ côi cha, mẹ là họ Đàm” – (SĐD).
Miếu Lộc Thọ - nơi thờ thân mẫu vua Đinh Tiên Hoàng.
Có lẽ khi Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi vua thì thân mẫu ông đã mất, vì thế trong chính sử chỉ ghi “Mậu Thìn năm thứ 1 (968) (Tống khai bảo năm thứ 1). Vua lên ngôi, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, dời Kinh Đô về động Hoa Lư, xây dựng đô mới, đắp thành đào luỹ hào, làm cung điện, đặt triều Nghi. Bày tôi dâng biểu là Đại thắng Minh Hoàng Đế” (SĐD – tr 205).

Một điều đáng chú ý là thông thường khi mới lên ngôi vua thì vị vua đó đều tấn phong cho mẹ là Hoàng thái hậu. Ví như Vệ Vương Toàn (con Đinh Bộ Lĩnh) khi được Nguyễn Bậc, Đinh Điền, Lê Hoàn đưa lên ngai vàng thì vị vua nhỏ tuổi này đã: “Tôn mẹ là Dương thị làm Hoàng thái hậu” (SĐD – tr 213). Ngay như Lê Hoàn khi lên ngôi vua cũng tấn phong cho: “Mẹ là Đặng thị làm Hoàng Thái Hậu” (SĐD- tr 217).

Hiện nay chúng ta chỉ được biết khi vua Đinh Bộ Lĩnh mất “triều đình đã rước linh cữu của Tiên Hoàng Đế về chôn ở Sơn Lăng” (SĐD- tr 213). Ngày nay du khách tới thăm cố đô Hoa Lư, đều không quên tới thăm mộ vua Đinh ở núi Yên Ngựa. Vậy mộ mẹ vua Đinh được chôn ở đâu ? Qua tìm hiểu được biết ở Ninh Bình cũng không thấy có mộ của thân mẫu vua Đinh Bộ Lĩnh.

Trong một lần đi điền dã về quê hương của nhà bác học Lê Quý Đôn (xã Độc Lập, huyện Hưng Hoà, tỉnh Thái Bình), tình cờ khi vào thăm một ngôi miến cổ ở thôn Lộc Thọ (cùng xã); qua tìm hiểu, các cụ già trong làng và được đọc thần phả, thần tích sắc phong chúng tôi đều ngạc nhiên bởi đây lại là nơi thờ thân mẫu của vua Đinh Bộ Lĩnh và ở đình còn thờ 4 vị tướng của vua Đinh là Đinh Điền, Phạm Thành, Lưu Công, Sát Công. Làng Lộc Thọ trước đây (theo thần phả thì từ thời nhà Đinh đã là trang Thuỵ Thú – làng Thuỵ Thú.

Đến nay các cụ già cao tuổi còn quen tên gọi tắt là làng Thú (thôn Thú). Miếu nhìn về hướng Tây nam, tọa lạc trên khu đất rộng 1563m2, cách làng khoảng 200mét. Trước miếu về phía nam là hồ nước rộng. Ba mặt đông bắc, và tây nam là cánh đồng lúa toả rộng. Phía đông nam là con đường thẳng nối miếu với đình làng Lộc Thọ. Trước cửa miếu là ao rộng, giữa ao có một cồn nổi được bao gạch quanh. Vườn nhiều cây nhãn cổ thụ, cành lá vươn xa. Tiếp ao là sân miếu đủ rộng để rước kiệu cho những ngày tế lễ, những ngày hội của làng.

Miếu được xây dựng với cấu trúc hình chữ Đinh. Trước là 3 gian bái đường, có tàu mái cong, đặt trên 4 bẩy đỡ chạm hoa lá, đầu bẩy chạm chữ thọ, cửa miếu kiểu ngưỡng cao, cánh cửa bức bàn bằng gỗ lim soi chỉ, cấu trúc chắc chắn. Mái lợp ngói mũi, đầu hồi đắp đấu vuông bắt chỉ, nóc góc vuông có ghê chầu mặt nguyệt. Tiếp tiền sảnh là hậu cung (kiến trúc theo kiểu thượng, hậu cung).

Tường hai bên được xây đắp hai cửa chớp vuông nhỏ. Gạch xây miếu là loại gạch mỏng (gạch cổ xưa) bản rộng, tường mặt ngoài bắt hèm cong lòng máng, không trát. Trong miếu vật liệu làm khung, mái toàn bằng gỗ lim, cột quân, cột cái tròn, xà, bẩy, câu đầu hình má trai, soi chỉ và chạm hoa lá. 4 vì kiểu quang đèn chồng đấu hoa sen, toàn hình dáng cấu trúc bên ngoài, bên trong miếu thể hiện sự dung dị cổ kính.

Theo thần phả còn lưu truyền và qua lời kể của các cụ già trong làng thì miếu Lộc Thọ có cách ngày nay khoảng 1030 năm, đã qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, lần cuối cùng là vào năm Giáp Tý – (triều vua Khải Định năm thứ 9 – (1924). Thần tích Ngọc phả của miếu chép rằng: Miếu thờ: “Quốc mẫu Thiềm Nương Hoàng Thái hậu” . Khi Đinh Bộ Lĩnh dấy cờ khởi nghĩa ở Hoa Lư, thấy đã đủ mạnh, ông rời Hoa Lư đi dẹp loạn các xứ quân, khi đi có đem theo thân mẫu Đàm thị cùng đi.

Theo thần phả thì bà Thiềm Nương (Đàm Thị) vốn cũng có tài cung kiếm võ nghệ. Sau khi về với sứ quân Trần Lãm ở Kỳ Bố Hải Khẩu, Đinh Bộ Lĩnh đã cùng các tướng Đinh Điền, Nguyễn Bậc, Lưu Công, Sát Công, Phạm Thành về đóng đồn ở Doanh đầu (trang Thụy Thú – Lộc Thọ) nhằm ngăn chặn sứ quân của Phạm Bạch Hổ (Phạm Phòng át) (ất), đang chiếm giữ đất Đằng Châu (nay thuộc Kim Động tỉnh Hưng Yên). Sau này khi thế lực đã mạnh ông để thân mẫu ở lại Trang Thuỵ Thú, tự mình dẫn quân đánh dẹp các sứ quân. Khi sắp xưng vương ông cho người về Trang Thụy Thú đón mẹ, nhưng do ốm nặng bà không về Hoa Lư được và mất tại Trang Thuỵ Thú.

Vua Đinh Tiên Hoàng đã lệnh cho táng mẹ ở doanh đồn (Thuỵ Thú) tương truyền huyệt đào sâu 1 trượng 2 thước (khoảng 4,8mét). Trên mặt huyệt dùng đá lấp lên sau dân làng xây miếu ở trên mặt mộ để thờ. Vua lệnh miễn giảm tô thuế cho dân Thuỵ Thú và từ đó thôn Thuỵ Thú được triều đình coi như một làng thuộc dân con quê cũ của mẹ vua.

 Ngoài ra vua còn cấp 51 mẫu ruộng và 4 hốt bạc để dân làng canh tác, phụng thờ đèn nhang coi giữ miếu đường lưu truyền mãi về sau. Theo thần phả thì 4 tướng Đinh Điền, Phạm Thành, Lưu Công, Sát Công trở về Thuỵ Thú chiêu dụ dân chúng bảo vệ hoàng lăng mộ địa. Sau khi nhà Đinh mất về tay Lê Hoàn thì các tướng Đinh Điền, Phạm Thành, Lưu Công, Sát Công cùng Nguyễn Bặc chống lại vua Lê Hoàn nhưng không thành. Người thì nhảy xuống sông tự tử, người thì bị bắt đem chém đầu.

Hiện đình làng Thuỵ Thú còn thờ 4 vị tướng Đinh Điền, Phạm Thành, Lưu Công, Sát Công. Qua tìm hiểu được biết chỉ còn lại 10 đạo sắc phong của 3 đời vua Nguyễn: Thành Thái, Duy Tân, Khải Định. Theo thần phả thì các triều vua đã ban cấp thần hiệu: Đinh triều quốc Mẫu nhân từ Thiềm Nương Hoàng thái hậu trang huy dực bảo trung hưng thượng đẳng thần. Cũng qua thần phả chúng ta được biết bà Thiềm Nương (Đàm Thị) sinh ngày 15/8 và hoá ngày 10/10.

Bốn vị tướng được thờ ở đình làng: Một là Đinh Điền có thần hiệu là: An Trung Quốc Vương Linh Thông Đại Vương Dực Bảo Trung Hưng Linh Thần. Ông Phạm Thành : Tá Quốc Đại Vương Hộ Quốc Dực Bảo Trung Hưng Linh Phù Chi Thần. Ông Lưu Công: Phán Thủ Lưu Hầu Trung Nghĩa Đại Vương Dực Bảo Trung Hưng Linh Phù Chi Thần. Ông Sát Cống là: Sát Lĩnh Chư Quân Lương Tiết Đại Vương Dực Bảo Trung Hưng Linh Phù Chi Thần.

Ngoài ra còn cấm viết chữ huý của các ngài và khi tế lễ thì áo tế không được dùng các màu vàng, đỏ, tím. Trong miếu thờ Thái hậu còn ghi: “Thánh hậu Đinh Miếu” và có nhiều câu đối, trong đó có đôi câu đối ghi:

“Quốc mẫu phương lưu đinh thế kỷ
Khôn ghi bỉnh xướng lộc giang từ”
           
Hoặc:                         “Bát trâm tường thiểm nam thiên hạ
                                    Kỵ mã tâm hùng nữ trượng phu”
             
Trong đình có nhiều đôi câu đối có nội dung ca ngợi tinh thần quả cảm tụ nghĩa phù Đinh thống nhất đất nước của 4 vị tướng. Tiêu biểu như:
                        “Đồng tâm dực tán thánh triều nam thiên khai chính thống
                        Tựu nghĩa trung toàn thần tiết phúc địa hiển anh linh”
           
Bức đại tự ở đình Phú Lộc còn ghi: “Thánh Đinh phù dực”.
           
Qua tìm hiểu các cụ già ở trong thôn, chúng tôi được cụ Nguyễn Duy Gấm 75 tuổi, cụ Nguyễn Xuân Trà 77 tuổi cho biết: Trước đây ở cánh đồng trước miếu có ngôi mộ giả, tương truyền là mả mẹ vua; cây cối rậm rạp um tùm vẫn quen gọi là Miễu. Bao đời nay cha ông truyền lại ngôi mộ thật hiện ở hậu cung của miếu. Tương truyền sau khi mẹ vua Đinh chết, triều đình đã cho chở đá phiến về lát trên mặt mộ.

Sau này dân làng lập miếu thờ, khi xây hậu cung đã xây tường lên trên mặt đá của mộ. Cụ Nguyễn Văn Gấm cho biết ngày 23/4/2003 một đoàn 21 người thôn Lộc Thọ đã tới viếng đền vua Đinh ở Hoa Lư, qua tìm hiểu chỉ thấy bài vị thờ bố, mẹ vua Đinh nhưng không thấy có phần mộ. Khi ông Gấm trao đổi với một số người làm công tác ở khu di tích người ta cũng không rõ phần mộ mẹ vua đặt ở đâu.
           
Hàng năm vào ngày sinh, ngày mất của thân mẫu vua Đinh và 4 vị tướng, dân làng đều tổ chức lễ hội long trọng để tưởng nhớ những người có công với làng, với nước. Hiện trong lễ hội tế ở làng Thọ Lộc còn lưu truyền một tập tục rất lạ và có giá trị văn hoá ở vùng trồng lúa nước. Đó là tục lễ Thần Nông . Theo thần phả và các cụ già trong làng kể lại thì lễ hội này được tổ chức vào ngày 10/5 âm lịch hàng năm để kỷ niệm ngày mất của hai vị tướng đã từng theo Thiềm bà và vua Đinh Tiên Hoàn dẹp loạn 12 sứ quân.

Đó là tướng quân Lưu Công và Sát Công (thần phả không ghi rõ tên). Tục lệ này được dân làng gọi là tục té nước thần Nông.  Thông thường sau khi làm lễ ở đình, vị thủ nhang (thủ từ đình) mặc quần lương, khăn xếp, cầm cành nêu bằng tre (dài 5 mét) và một bó mạ rồi mang ra cánh đồng đầu làng. Sau khi đã cắm cành nêu ở giữa ruộng, vị thủ nhang này mang mạ xuống ruộng cấy (ruộng cấy đã được cày, bừa và tát đổ nước vào trước ngày lễ hội).

Quan viên hàng huyện, hàng tổng, hàng xã cùng xuống ruộng và té nước vào người cấy (coi đó là thần nông). Càng té được nhiều nước vào người cấy thì càng tốt. Sau khi người thủ nhang cấy hết bó mạ trên tay thì mọi người dừng té nước. Thông thường cứ phải sau ngày lễ Thần Nông (lễ té nước) thì người dân trong vùng mới được cấy lúa vụ mùa. Sau lễ té nước mọi người mới đổ về đình để chuẩn bị và làm lễ tế Thần Hoàng. Trong lễ hội thường có mời hội rối, hội chèo tới biểu diễn và có tục thi đấu gậy của trai làng với các làng trong huyện, trong tỉnh.
           
Bản thần tích Ngọc phả được lưu truyền ở miếu và đình Thọ Lộc là do quan Hàn lâm viện Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn ngày 01 tháng Giêng năm 1572. Đến triều vua Lê Vĩnh Hựu (thứ 2) – 1736, tiến sĩ Nguyễn Hiền (lãnh hàm thiếu khanh) phục sao lại theo bản chính để ban cấp cho dân làng Thuỵ Thú thờ tự. Qua khảo cứu thần phả, thần tích, sắc phong và được ghe các cụ già trong làng kể lại, rất có thể làng Thuỵ Thú xưa (Thọ Lộc nay) đã từng là căn cứ đóng quân của vua Đinh Bộ Lĩnh. Và đây cũng có thể là nơi chôn cất thi hài của bà Đàm Thị (mẹ vua Đinh) rất mong được sự quan tâm tìm hiểu của các nhà khảo cổ học, các nhà nghiên cứu lịch sử sớm làm sáng tỏ vấn đề này.
                                               
Đặng Hùng
Hội Văn học Nghệ thuật Thái Bình
SN 157, tổ 16, đường Lý Thái Tổ,  phường Kỳ Bá
Thành phố Thái Bình – tỉnh Thái Bình

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét