Thứ Năm, 14 tháng 6, 2012

Những dòng sông qua vách đá


Cao nguyên đá ở địa đầu nước Việt có những ngọn núi cao chạm trời, những vực thẳm sâu tận âm phủ, những con đường đi trên mây… Chảy theo địa hình cánh cung, sông Gâm, sông Năng và sông Nho Quế là những con sông hùng vĩ. Đó là ngọn nguồn sự sống của người Mông, người Dao, người Tày, người Nùng và những dân tộc khác trên cao nguyên đá khắc nghiệt. Mời bạn đọc cùng “Bước chân khám phá” chúng tôi ngược các dòng sông qua vách đá đến với con người và xứ sở kỳ lạ này.
Kỳ 1: Cánh cung sông Gâm
SGTT.VN - Cánh cung sông Gâm nằm ở phía nam cao nguyên Lang Ca Phu bắt đầu từ đỉnh Pu Ta Ca cao 2.270m đến đèo Khế. Sông Nho Quế, sông Năng từ Vân Nam đổ về Hà Giang, Cao Bằng nhập với sông Gâm chảy theo cánh cung tạo bằng đá phiến, thạch anh và đá vôi nằm trên lõi đá kết tinh cổ tạo thành kiệt tác thiên nhiên hùng vĩ có một không hai ở Việt Nam.
Hai anh em anh Nguyễn Văn Quang từ Tuyên Quang ngược sông Gâm lên đến Bắc Mê của Hà Giang để săn cá anh vũ.
Hành trình anh vũ
Sông Gâm trong quá khứ gắn liền với loài cá anh vũ dùng để tiến vua và cúng thần linh. Chúng tôi bắt đầu hành trình khám phá sông Gâm từ Na Hang, nơi ngã ba sông Năng và sông Gâm gặp nhau, địa điểm cư trú nổi tiếng của loài cá anh vũ trước đây. Bây giờ, tại ngã ba sông, đứng trên bờ đập tràn thuỷ điện Tuyên Quang nhìn xuống chỉ thấy hồ nước mênh mông không bờ. Đỉnh núi Pác Tạ tất nhiên thấp hơn và ngôi đền nổi tiếng thờ người thiếp của Trần Nhật Duật đã phải dời lên lưng chừng núi khi thuỷ điện tích nước. Thuỷ điện Tuyên Quang công suất 342MW, lớn sau thuỷ điện Hoà Bình, tích nước tối đa 1,5 tỉ mét khối đi vào hoạt động từ năm 2009 đã biến phần lớn sông Gâm chỉ có chiều dài 217km này thành một biển nước khổng lồ. Anh Thái, một ngư dân chuyên nghề đánh cá nổi tiếng trên sông Gâm ở Na Hang nói: “Cá anh vũ ở Na Hang này không có nữa. Nó là loài cá quý phái, chỉ ăn rêu, ở trong những hang đá có dòng nước trong và chảy thường xuyên. Hai năm nay không ai bắt được. Hồ thuỷ điện không phải là nơi ở của loài cá này. Có lẽ nó đã chạy lên trên ngã ba Bảo Lâm!” Chị Nga, chủ nhà hàng Nga Viên ở Na Hang, chuyên bán cá sông Gâm cũng than: “Trong “ngũ quý hà thuỷ” của sông Gâm bây giờ thỉnh thoảng mới có cá chiên, cá lăng, cá bỗng. Hiếm lắm mới bắt được cá rầm xanh còn cá anh vũ không còn nữa!” Chúng tôi ngược dòng lên huyện Bảo Lâm của Cao Bằng, nơi mà theo những người săn cá nói có cá anh vũ nhưng cũng không tìm thấy. Tiếp tục hành trình ngược sông lên Bắc Mê của Hà Giang, ngư dân Nguyễn Văn Quang cho biết: “Năm ngoái, em trai tôi có bắt được một con cá anh vũ nặng 0,5kg, bán được 4 triệu, từ đó tới nay không thấy nữa!” Anh Quang quê ở huyện Chiêm Hoá dưới Tuyên Quang là một trong những người săn cá nổi tiếng ở sông Gâm. Hành trình mưu sinh ngược dòng sông Gâm của anh Quang cũng là hành trình đi theo cá anh vũ từ lúc anh mới 17 tuổi đến nay. Trước đây anh đã từng bắt được nhiều con anh vũ nặng tới 3 – 4kg. Muốn bắt loài cá này phải lặn xuống vực sâu có hang đá. Nhiều thợ săn anh vũ đã từng tuyệt mạng. Anh Quang nói, theo kinh nghiệm chỉ nhìn là biết có cá liền nhưng nay nước hồ thuỷ điện dâng lên tới Bắc Mê thì cá không còn nữa. Nước dâng tới đâu cá anh vũ ngược dòng tới đó và cuối cùng bị chặn đứng ở những thuỷ điện bậc trên nên có lẽ đã tuyệt diệt. Anh vũ cùng họ cá chép, danh pháp khoa học là Semilabeo notabilis, sống ở tầng đáy sâu, nước chảy mạnh, có nhiều rêu đá. Sách đỏ Việt Nam xếp cá anh vũ ở mức độ đe doạ V (Vulnerable). Mức độ V có nghĩa là “có thể bị tuyệt chủng” nhưng trên thực tế hiện nay nó đã tuyệt chủng rồi!
Làng chài nổi Na Hang trên hồ thuỷ điện Tuyên Quang.
Mỏ tôm Pó Củng
Pó Củng ở cạnh trung tâm huyện Bắc Mê, phía đông tỉnh Hà Giang, nằm sát sông Gâm. Pó Củng tiếng Tày có nghĩa là mỏ tôm. Cả bản 24 nóc nhà trên bãi bồi, lưng tựa vào núi, hiện tại sống chủ yếu bằng nghề trồng ngô. Ngược dòng thời gian, Pó Củng được biết đến bởi một người phụ nữ mà những người già ở bản này gọi là bà Chúa. Trong một lần đi bắt cá sông Gâm, bà Chúa tình cờ phát hiện một hang nước đá vôi nhỏ chỉ bằng cái ché rượu. Mùa đông nước trong hang rất ấm, mùa hè nước mát, chảy quanh năm. Thật lạ kỳ, tất cả tôm của sông Gâm ở khu vực này tập trung sống trong hang. Khoảng rạng sáng, tôm từ hang túa ra sông hàng đàn, dày đặc cả mặt nước. Buổi chiều, tôm lại kéo về chui vào hang. Ban đêm, chỉ cần đặt một cái lọp chắn cửa miệng hang, sáng ra cả lọp đầy tôm. Không ai biết hang nước ngầm dài bao nhiêu nhưng người Tày ở Pó Củng tin rằng lòng hang của mỏ tôm rất rộng, ăn thấu vào núi Nà Loáng. Bà Chúa sở hữu mỏ tôm, thuê người bắt tôm đi bán khắp vùng. Anh Kiêm, trưởng bản Pó Củng kể: “Bố tôi nói, bà Chúa bán tôm mua được rất nhiều bò, nhiều trâu, làm nhà sàn lớn. Sau này dân làng kiện, bà Chúa phải chia đều cho dân”. Tới đời bố anh Kiêm, dân bản tổ chức khai thác mỏ tôm luân phiên. Mỗi gia đình quy ước được bắt tôm một ngày. Hàng năm, vào mùa hè, cả bản ngưng bắt tôm một tháng. Đó là dịp họ tổ chức cúng mỏ linh đình tạ ơn thần hang ban phát tôm cho dân bản. Khi chúng tôi đến Pó Củng, việc bắt tôm ở mỏ không còn nữa. Nhiều gia đình đã phá bỏ hết lưới, lọp. Anh Kiêm buồn rầu nói: “Thuỷ điện Tuyên Quang dâng lên đây ngập mỏ tôm, có lẽ chúng đã rủ nhau tự tử tập thể trong lòng núi Nà Loáng hết rồi!” Mỏ tôm bây giờ chỉ còn lại địa danh Pó Củng. Người dân ở đây luôn kể về nó với niềm tiếc nuối vô hạn một thời sông núi hào sảng. Với lưu vực 14.792km2, sông Gâm dài 297km, trong đó đoạn chảy qua Việt Nam dài 217km. Địa hình núi đá vôi đã tạo nên nhiều hang động hai bên bờ. Người dân sống ven sông Gâm từ Tuyên Quang, Cao Bằng đến Hà Giang nhiều đời nay thường xem những hang động ngầm này là một báu vật của thần linh dành cho con người. Cứ cách nhau vài bản, những hang ngầm lại xuất hiện mỏ cá mỏ tôm. Mỏ Chiêm Hoá toàn cá chiên, mỏ Na Hang nhiều rầm xanh, mỏ Lý Bôn cá anh vũ, Pó Củng toàn tôm… Tất cả bây giờ đã chết. Hình ảnh cá tôm rủ nhau hàng đàn tự tử tập thể như suy luận của anh Kiêm ở Pó Củng cứ mãi ám ảnh chúng tôi suốt cuộc hành trình. Khi thiên nhiên không còn ban tặng thì con người thông minh đã đến lúc phải tự vấn chính mình!
Kỳ 2: Ngược dòng sông Năng
SGTT.VN - Rượu ngô ở Trung Quốc được gọi là ngọc mễ tửu. Ở Mỹ, dân cao bồi miền Tây gọi là whiskey. Chúng tôi lên Việt Bắc, được mời nếm rượu ngô men lá Na Hang ngon nổi tiếng. Như thể để bổ sung thêm niềm tự hào về rượu ở xứ sở này, Bàn Thị Triều, cán bộ văn hoá huyện Na Hang (Tuyên Quang) mời chúng tôi về nhà ở xã Sơn Phú nếm thêm hương vị rượu báng trước hành trình ngược dòng sông Năng.
Quê nhà dưới làn nước
Thượng nguồn sông Năng dưới chân thác Đầu Đẳng. Ảnh: Nguyễn Minh Sơn
Một phần xã Sơn Phú nằm trong khu bảo tồn thiên nhiên Tát Kẻ – Bản Bung của Tuyên Quang. Người Dao ở đây sống bằng nghề rẫy, làm nhà trên núi cao và tự làm rượu từ cây báng để uống. Tôi đồ rằng người Dao rất quý rượu. Chúng tôi tới nhà Triều vào buổi chiều tà. Trong căn nhà hơi tối, bố cô ngồi uống rượu một mình trong góc. Ở một góc khác, mẹ cô cũng ngồi lặng lẽ uống rượu một mình. Thấy có khách, mẹ Triều xuống nhà bếp lấy lên hai chai rượu lớn. Một chai rượu ngô, một chai rượu báng. Chúng tôi ngồi uống rượu với nhau. Ông bố rất trẻ, luôn cười hiền lành, trách nhẹ sao không báo trước để làm thịt gà đãi khách. Bà mẹ thì không nói một lời, chỉ im lìm đưa ly ra mỗi khi chúng tôi rót rượu. Hết ly này đến ly khác. Không ai nói với ai lời nào. Chỉ lặng lẽ uống, lặng lẽ thở dài. Dường như có một nỗi buồn đang đi qua trong gia đình người Dao bé nhỏ giữa cộng đồng này. Hoá ra, nỗi buồn có thật được hé lộ khi bữa rượu gần tàn.
Căn nhà nền đất của gia đình Triều nằm sát đường là nhà tái định cư theo một mô hình giống nhau. Triều chỉ lên ngọn núi trước nhà kể: “Trước đây nhà của em ở trên đỉnh đó. Đường quá sát vực nguy hiểm nên chuyển xuống khu tái định cư. Đứa em của em vừa mất tháng trước vì bị tai nạn rơi xuống vực. Nó học rất giỏi. Bố mẹ và cả nhà buồn lắm! Thực ra Sơn Phú không phải là nơi tụi em sinh ra. Bố đi ở rể bên Khâu Tinh, mới chuyển về đây khi nhà ngoại nằm dưới mực nước lòng hồ thuỷ điện Tuyên Quang”. Trên thực tế, quê hương của cô gái người Dao này chỉ còn trong ký ức. Khâu Tinh, trong tuổi thơ của Triều là căn nhà nhỏ của bà ngoại sát bờ sông Năng. Chiều chiều, lũ trẻ nhỏ trong bản chơi đùa trong sân rồi cùng nhau nghịch nước ở bến nước gần nhà. Bây giờ, mỗi lần đi thuyền ngang qua Khâu Tinh dưới làn nước, Triều nói nhớ đến muốn khóc. Sau cái chết của đứa em trai, quê mới của gia đình người Dao này theo quan niệm của họ trở thành vùng đất dữ nhưng biết chuyển về đâu khi quê cũ không còn nữa.
Sáng hôm sau, chúng tôi lên thuyền từ Sơn Phú ngược dòng sông Năng. Mực nước lòng hồ đang cạn nên hai bên bờ lộ những thân cây đã chết sau một thời gian dài ngâm nước. Thỉnh thoảng, có những ngôi làng dưới lòng hồ hiện ra thấp thoáng với tường xây, nền cũ phủ đầy bùn đất. Một ngôi trường người ta chỉ kịp dỡ bỏ mái ngói vẫn còn nguyên tường, một nóc nhà thờ còn nguyên thánh giá… Tất cả đều hiện ra xám xịt như một ký ức buồn bã của người Tày, người Dao ven sông bị đánh mất quê hương vì hồ thuỷ điện. Thuyền đi ngang khu bảo tồn thiên nhiên Tát Kẻ – Bản Bung, xung quanh chỉ non nước và rừng cây hiu quạnh. Chúng tôi dừng lại ăn trưa trên bè của một xóm chài digan. Họ đến từ Yên Hoa, bị mực nước đuổi dần vào tới Khâu Tinh, và sẽ còn lang thang ngược nguồn mãi để sinh nhai trong mùa tích nước.
Bò khai Ba Bể
Cá suối rau rừng ở hồ Ba Bể. Ảnh: Nguyễn Minh Sơn
Con xuồng lớn đi hết Khâu Tinh chỉ đến được Đà Vị. Từ Đà Vị chuyển sang đi xuồng lá tre đạp nước vượt cạn đến gần thác Đầu Đẳng. Xuồng tấp vào một cái rẫy bỏ hoang. Đứa bé người Dao lái xuồng chỉ tay lên ngọn núi trước mặt nói: “Đi thẳng theo hướng đó năm cây số nữa thì tới nơi có dân bản ở. Tìm đường mòn mà đi!” Lúc đó đã 4 giờ chiều. Khi chúng tôi nhận thấy sự sai lầm chết người thì những chiếc xuồng lá tre đã xuôi dòng ra xa. Lẽ ra nên ở lại Đà Vị một đêm đợi sáng ngày mai. Sự sai lầm đã khiến chúng tôi bị bỏ rơi ở một khu rừng lạ không một bóng người. Mặt trời xuống nhanh trên ngọn cây cổ thụ chết khô và bầy quạ đen kêu quàng quạc. Không còn con đường nào khác ngoài con đường mòn xuyên rừng men theo thác Đầu Đẳng nổi tiếng cao trên 500m.
Băng qua cái rẫy hoang chúng tôi gặp lối mòn đi lên. Càng đi lối mòn càng nhỏ, dốc cao và rừng già với vẻ đen tối đầy đe doạ. Rõ ràng chúng tôi đã thiếu kinh nghiệm để dự đoán trước tình huống này. May mắn thay con dốc kết thúc mở ra đoạn đường bằng phẳng khi ve rừng đổ hồi cuối. Gần hai tiếng đồng hồ sau đã tới lại bờ sông Năng. Dòng sông ở đoạn này bằng phẳng lạ lùng. Hai bên bờ, trúc dây đặc hữu của rừng nhiệt đới ẩm thường xanh trên núi đá vôi ở Ba Bể rủ xuống như những bức mành. Bỗng nhiên có tiếng khua nước róc rách của thuyền độc mộc và tiếng người gọi nhau trong bóng tối hoàng hôn. Trong tình huống đó, tiếng người như một sự cứu cánh. Ai nấy mừng rỡ khôn xiết khi thấy nóc nhà sàn hiện ra. Chút ánh sáng cuối ngày còn sót lại để nhìn thấy rõ những làn khói bếp ban chiều ấm áp.
Bản Đầu Đẳng chỉ có vẻn vẹn chín nóc nhà và một trạm kiểm lâm. Hai vợ chồng ông Hiến, một người Tày ở Chợ Đồn (Bắc Kạn) vào đây bán hàng vặt cho người qua đường vui vẻ mời khách vào nhà ở lại. Bữa cơm đầu tiên ở Ba Bể là bữa cơm nhớ đời bởi đói và vui. Đó là lần đầu tiên chúng tôi được nếm mùi vị của rau bò khai mà chủ nhà nói “mới hái ở núi sát sau nhà”. Cá suối nướng trong bếp lò than, rau bò khai xào thịt treo hết đĩa này được đề nghị đĩa khác. Chủ nhà tế nhị: “Tôi sợ các anh ăn không quen chứ chúng tôi ở đây quý lắm, bò khai có vị thuốc. Vị thuốc này khai khai mùi… nước đái bò nên người ta gọi vậy!” Lúc đó chúng tôi mới té ngửa ra. Không hiểu do chai rượu ngô men lá ngây ngất hay do không khí thân thiện khiến chúng tôi liên tưởng tới mùi vị của loại bia tươi lúa mạch đen ở xứ Đông Âu hiện diện qua đĩa rau rừng lạ lẫm.
Bò khai tên khoa học là Erythropalum scandens blume thuộc họ dây hương. Người Tày gọi bò khai là dạ hiến, khau hương, người Dao gọi là long châu sói… Loại rau rừng này có mặt ở tất cả các vùng núi phía Bắc nhưng nhiều nhất ở vườn quốc gia Ba Bể. Từ xa xưa, người dân bản địa ở phía Bắc đã biết ăn rau bò khai để chữa các bệnh viêm gan, viêm thận, đường tiết niệu… Những ngày ở Ba Bể, chúng tôi mới thấy người dân ở đây hết sức quý loại rau rừng thông dụng này. Món đầu tiên mời khách nếm thử của người dân bản địa chính là món bò khai xào thịt treo như ở nhà ông Hiến. Cách bản Pú Lò ở Ba Bể bốn cây số, chợ phiên Nam Cường họp thứ năm hàng tuần. Sáng sớm, những cô gái Mông hoa, Mông xanh ở các bản xa đã về chợ lắt lẻo trên vai những gùi rau bò khai. Ba Bể, viên thạch bích giữa núi rừng ngoài cảnh sắc kỳ vĩ còn lưu giữ khách bằng hương vị của rừng và sự thân thiện đầy cảm mến!
BÀI VÀ ẢNH: NGUYỄN MINH SƠN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét