Hội đồng Trạch - nhiều đất nhất Đông Dương
(PL)- Ông Trần Trinh Trạch, hay Hội đồng Trạch, vốn được biết như một đại điền chủ nhiều ruộng đất nhất Nam Bộ. Giàu có nhưng ông lại là người chí thú làm ăn, không ăn chơi gì nhiều trừ vài chuyện liên quan đến Công tử Bạc Liêu.
LTS: Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, ở miền Nam xuất hiện nhiều gương mặt “đại gia” sở hữu tiền muôn bạc vạn, được thiên hạ nể vì, loạt bài này sẽ điểm qua chân dung của những phú hộ làm giàu từ đủ mọi cách thức khác nhau, đủ cả “thiện, tà”.
“Khi tôi sinh ra thì ông nội đã mất ba năm rồi, tôi chỉ biết cha tôi. Chứ mẹ cũng mất sớm” - ông Trần Trinh Đức, cháu nội của ông Trần Trinh Trạch, con ruột của ông Trần Trinh Huy, tức “Công tử Bạc Liêu” với giai thoại nổi tiếng đốt tiền cho người đẹp kiếm kẹp tóc trong rạp hát…, kể lại.
Gặp người cháu nội của ông hội đồng
Nhìn người đàn ông đầu ngả bạc, từng phải làm đủ thứ nghề để kiếm sống từ bán đồ điện tử ở chợ Huỳnh Thúc Kháng, qua Campuchia bán giày dép cũ, rồi chạy xe ôm, đến cuối đời mới về lại quê nhà Bạc Liêu và được tỉnh giao cho công việc hướng dẫn viên du lịch tại khách sạn Công tử Bạc Liêu, cũng chính là cơ ngơi cũ của gia tộc Trần Trinh khét tiếng thuở nào, không thể tin được sự xuống dốc của dòng họ đã từng sở hữu số ruộng đất “cò bay mỏi cánh” nhiều nhất Đông Dương một thuở và những giai thoại “đốt tiền” đúng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Ông Trần Trinh Đức kể: “Ngày nhỏ ở với các mẹ kế (do Công tử Bạc Liêu có tới bốn vợ), năm bảy tuổi cha tôi cho lên Sóc Trăng học nội trú ở trường Tây, cuối tuần mới đón về chơi. Nhờ học tiếng Anh, sau này bị bắt khi đi quân dịch tôi được cho làm phiên dịch, công việc nhẹ nhàng, không phải ra trận. Nhưng tính mê chơi, ham nhảy đầm nên tôi trốn lính, sống cuộc đời rày đây mai đó miễn được tự do làm điều mình muốn…”.
Giàu nhờ lúa và muối
Ông Trần Trinh Trạch vốn sinh ra trong một gia đình nghèo khó ở Bạc Liêu, lúc nhỏ ông phải đi ở đợ cho một gia đình giàu có trong vùng đã gia nhập quốc tịch Pháp, “dân Tây” phải đi học tiếng Pháp mà gia đình này có một cậu ấm bằng tuổi ông vốn làm biếng, ham chơi nên ông Trạch được cho đi học thay, nhờ cơ may làm “hình nhân thế mạng” này ông được biết cả chữ quốc ngữ lẫn tiếng Pháp. Với vốn liếng học hành đó khi lớn lên, ông Trạch không đi làm thuê làm mướn nữa mà xin vào làm trong Tòa hành chính tỉnh Bạc Liêu và trở thành “thầy ký”.
Ông Phan Văn Bì là bá hộ có ruộng đất nhiều nhất ở Bạc Liêu, ông còn được mệnh danh là vua lúa gạo miền Tây, thường lên Tòa hành chính tỉnh để đóng thuế đã để mắt tới thầy ký Trạch còn trẻ mà mặt mày sáng sủa, hiểu biết nên mời về nhà chơi, để cô con gái thứ tư tên Phan Thị Muồi coi mắt thầy ký. Khi hai bên đều đã ưng nhau, ông Bì cho tổ chức đám cưới và cho một số ruộng đất làm vốn. Ông Trạch thôi làm thầy ký về làm điền chủ, nhờ thông minh, chăm chỉ lại không ăn chơi nên ông đã phất lên nhanh chóng, các lô ruộng đất của những người con khác của ông Bì do ham mê cờ bạc đều lần lượt cầm cố về tay ông Trạch hết. Sau khi đã gom hết ruộng đất của người nhà, ông Trạch tiếp tục công việc cầm cố đất đai của nhiều điền chủ sa cơ lỡ vận (do làm ăn thua lỗ hoặc bài bạc) và ngày càng giàu có.
Thế nhưng sự thịnh vượng của ông Trần Trinh Trạch ngày càng tấn tới khi ông đầu tư vào ruộng muối, đến khi ông trúng thầu trở thành nhà cung cấp muối cho cả Nam Kỳ thì hoa lợi từ ruộng lúa và ruộng muối đã không thể kể xiết, từ đó ông tiếp tục mua thêm ruộng và trở thành đại điền chủ có số ruộng đất nhiều nhất Đông Dương. Cả tỉnh Bạc Liêu có 13 lô ruộng muối thì ông Trạch chiếm tới 11 lô, với hơn 50.000 mẫu ruộng muối. Riêng ruộng lúa ông có 74 sở điền, các con số ghi lại đều khác nhau, lúc thì 110.000 mẫu, lúc thì 150.000 mẫu. Ông Trần Trinh Đức khẳng định con số có thể chính xác nhất là 145.000 mẫu ruộng lúa. Không có đại điền chủ nào ở Nam Bộ nào có thể sánh với ông Trần Trinh Trạch về số ruộng đất này.
Ông Trần Trinh Đức, con của Công tử Bạc Liêu Trần Trinh Huy.
Mua siêu xe và sắm máy bay
Ông Trạch có bảy người con, trong đó có ba con trai. Người con thứ hai, còn gọi cậu Ba Huy, là người ông đặt niềm tin nhiều nhất sẽ trở thành người thay ông nắm cơ nghiệp và quản lý điền thổ nên khi lớn ông cho lên Sài Gòn học, sau đó cậu Ba Huy xin được qua Pháp du học, ông Trạch đồng ý ngay không cần suy nghĩ, bởi ông nhận thức ông có được cơ nghiệp ngày hôm nay chính nhờ cái sự học, huống hồ qua tận nước Pháp, bao nhiêu tiền ông cũng bỏ ra hết.
Ngày cậu Ba Huy học thành tài về nước, ông Hội đồng Trạch lên tận Sài Gòn đón con. Ông quyết định mua thêm một xe hơi mới thật “xịn” thay cho chiếc xe Ford đang xài để cậu Ba áo gấm về làng. Trong Công tử Bạc Liêu của tác giả Nguyên Hùng kể lại, ông Trạch mướn khách sạn trước chợ Bến Thành, đoạn thả bộ ra ngã tư Charner - Bonard (giờ là ngã tư Nguyễn Huệ - Lê Lợi) có một hãng bán xe hơi danh tiếng để coi xe. Bọn Tây trong hãng thấy một ông già nhà quê bận bộ bà ba lục soạn trắng, đi giày hàm ếch, tay ôm cái “mo cau” bự bự thì tỏ ra coi thường, miễn cưỡng tiếp ra mặt. Mặc kệ sự khinh khi của bọn nó, ông điềm nhiên xem chiếc xe Chevrolet mắc tiền nhất, kêu sốp phơ (tài xế) kiểm tra kỹ càng, rồi ông leo lên ngồi thử xem có vừa ý không, đến khi ưng rồi ông mới mở cái “mo cau” ra trả tiền mua luôn, lúc đó bọn Tây mới hết hồn vì trong cái mo cau căng phồng đó là hàng chồng giấy “con công” (tờ tiền mệnh giá 100 đồng có hình con công, cao nhất, giá trị tương đương cỡ 15 triệu đồng bây giờ).
Cậu Ba Huy khoe học ở Pháp có học lái xe hơi, có cả bằng lái máy bay rồi thuyết phục ông Trạch nên mua máy bay, vì có máy bay thăm lúa rất nhanh, đồng thời nếu có dịch sâu rầy, cào cào, châu chấu thì dùng máy bay phun thuốc trừ sâu sẽ rất nhanh và hiệu quả hơn phun xịt thủ công bình thường. Bùi tai, ông Trạch duyệt luôn, cậu Ba Huy đặt mua một chiếc (không có tư liệu nhưng khả năng là chiếc Morane, máy bay dân sự hai chỗ ngồi khá thời thượng lúc đó, trị giá tầm 100 kg vàng). Ngày 24-6-1932, trên tờ báo La Courrier Saigonnais đã loan tin giật gân với tít lớn ở trang nhất: “M.Tran Trinh Huy propriétaire à Baclieu possède, un avion et il aménage une piste d atterrissage sur sa propriété à Camau”,có nghĩa “Ông điền chủ Trần Trinh Huy ở Bạc Liêu sắm một chiếc máy bay và làm sân bay trên đất của ông ở Cà Mau”.
Gia sản khổng lồ thành cát bụi
Giàu có nhưng ông Trần Trinh Trạch lại là người chí thú làm ăn, không ăn chơi gì nhiều trừ hai sự kiện kể trên liên quan đến Công tử Bạc Liêu. Ông lại là người có tiếng đứng đắn, chung thủy với vợ, không nghe có chuyện trăng hoa mèo mỡ. Sau dịp mừng thọ 70 tuổi, ông Trạch muốn đi chơi dối già, cậu Ba Huy lái xe đưa ông lên Sài Gòn chơi, tắm biển Vũng Tàu rồi lên Đà Lạt nhưng sau khi tắm biển lâu quá ông bị cảm lạnh, sức yếu nên mất luôn. Sợ điều tiếng, cậu Ba Huy lái xe chở thẳng ông về Bạc Liêu, đặt ông ngồi ngay ngắn ở ghế sau cho đeo kiếng như đang đi thăm ruộng, đến khi về tới nhà mới phát tang. Đám tang kéo dài bảy ngày bảy đêm, tá điền, dân chúng tới viếng và đeo tang đều được đãi ăn uống và cho một cắc (tương đương 1 giạ lúa). Đám tang ông cả chục ngàn người tham gia, tới mức xe tang đã đến nghĩa trang cách thị xã Bạc Liêu 5 km mà dòng người đi theo vẫn chưa ra khỏi thị xã.
Không ai ngờ cả đời ông Hội đồng Trạch cần kiệm làm nên khối tài sản lớn như thế mà con cái lại tiêu xài phá tán hết, nhất là Công tử Bạc Liêu khét tiếng ăn chơi. Ruộng đất mai một, sau này chế độ cũ hai lần áp dụng chính sách cải cách điền địa nên ruộng đất bị truất hữu. Được bồi thường một số tiền nhưng các con cháu của ông Trạch không biết làm ăn nên quyết định đem số tiền này cộng với tiền bán một số căn biệt thự trên Sài Gòn gửi ngân hàng để lấy tiền lãi chia nhau sống. Sau 1975, với mấy lần đổi tiền, số tiền cuối cùng trong ngân hàng này cũng đã bay luôn theo gió, về với cát bụi. Các con cháu ông không hợp tính nhau nên tản mát mỗi người một nơi, chỉ còn ông Đức quyết định về lại Bạc Liêu gắn bó với căn nhà cũ làm hướng dẫn viên du lịch, gia đình ông được chính quyền cho ở tại một căn nhà tái định cư đến bây giờ.
Tôi hỏi ông: “Người Nam Bộ hay nói “Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”, ông nội và cha anh rất giàu mà tới đời anh trắng tay, anh có tin câu này không?” thì Đức cười nói: “Nhìn vào gia cảnh dòng họ Trần Trinh của tôi, muốn không tin cũng không được. Khi có tiền hay không có tiền cũng vậy, tôi luôn ráng sống theo ý mình và không làm điều xấu ảnh hưởng tới thanh danh tổ tiên. Cuộc đời tôi còn lại như lục bình, nước trôi đến đâu thì đến, không than van, oán trách gì cả…”.
|
PHẠM TRƯỜNG GIANG
Người thứ nhì trong tứ đại phú
(PL)- Tổng đốc Phương tên thật Đỗ Hữu Phương, từng được xem là giàu có thứ hai tại Việt Nam trong tứ đại phú “Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Trạch”.
Ở quận 3, phía sau BV Mắt Saint Paul có một ngôi từ đường cổ hơn 100 tuổi. Người ta gọi là Đỗ Hữu Từ đường, là nơi thờ tự dòng họ Đỗ Hữu, còn gọi là đền Tổng đốc Phương nhưng người dân từ xưa quen gọi là đền Bà Lớn, vì cũng là nơi thờ người vợ của Tổng đốc Phương, do bà vốn có nhiều công đức với dân chúng quanh vùng.
Không tạo ân oán
Biết tiếng Hán và tiếng Pháp nhưng Đỗ Hữu Phương lại rất chuộng văn hóa Pháp nên tìm cách ra làm việc với Pháp. Sau khi chiếm được thành Chí Hòa năm 1861, Pháp mở cửa thương mại và mở rộng mối quan hệ với người Hoa trong vùng để phát triển buôn bán. Ông Phương nhờ người quen giới thiệu với tham biện hạt Chợ Lớn lúc này là Đại úy Francis Garnier và được Garnier tuyển dụng. Đến năm 25 tuổi được phong làm hộ trưởng ở Chợ Lớn.
Dù làm việc cho Pháp nhưng chủ trương của ông Phương là không gây thù chuốc oán, cho nên ngay cả trong trường hợp không dụ hàng được mà phải đưa quân đánh dẹp, sau đó Đỗ Hữu Phương lại đứng ra che chở và xin chính phủ Pháp ân xá cho những người Việt tham gia khởi nghĩa.
Trong tài liệu của Pháp mang ký hiệu SL. 312 ở Cục Lưu trữ Nhà nước II, có đoạn khen ngợi Đỗ Hữu Phương: “Ông ta cố gắng tránh đổ máu trong lúc dập tắt nhiều cuộc nổi loạn gần đây. Ông ta đã xin chính phủ Pháp ân xá cho một số đông những đồng bào của ông đã cầm vũ khí chống lại chúng ta...”.
Nhờ cách hành xử như vậy cho nên dù bị ghét vì theo Pháp nhưng nhiều người vẫn cho rằng Đỗ Hữu Phương là người hiền.
Câu chuyện lạ lùng về tình bạn
Nguyễn Hữu Huân đỗ đầu thi hương năm Nhâm Tý nên được gọi là Thủ Khoa Huân. Ông vốn là bạn thân với Đỗ Hữu Phương từ nhỏ. Sau này lớn lên hai người hai ngả đường. Năm 1864, Nguyễn Hữu Huân bị bắt ở An Giang, Pháp xử án 10 năm tù, đày sang Guyan rồi Cayenne - là thuộc địa của Pháp ở Nam Mỹ.
Sau khi ông thọ án năm năm, Đỗ Hữu Phương đứng ra bảo lãnh để xin chính phủ Pháp ân xá cho Thủ Khoa Huân. Ngoài ra ông Phương xin đưa Thủ Khoa Huân về an trí ngay ở nhà của mình và phục chức giáo thụ là chức cũ trước đây để dạy học cho sinh đồ ở vùng Chợ Lớn.
Lợi dụng việc cho dạy học, Thủ Khoa Huân bí mật liên lạc với nhiều sĩ phu yêu nước và hội kín của Hoa kiều để mua vũ khí chuẩn bị khởi nghĩa. Thủ Khoa Huân bỏ trốn khỏi nhà Đỗ Hữu Phương rút về Mỹ Tho cùng với Âu Dương Lân để hội quân khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa lần thứ ba này được rất nhiều nông dân và địa chủ ủng hộ nên thanh thế rất mạnh. Phải hai năm sau, Pháp đưa quân bất ngờ tấn công thẳng vào căn cứ Bình Cách mới đánh dẹp được. Thủ Khoa Huân chạy thoát nhưng sang năm khi đi huy động quân binh khởi nghĩa thì bị Pháp phục kích bắt. Sau khi bị giam ở Mỹ Tho và được Tỉnh trưởng Gailland chiêu dụ hàng nhưng Thủ Khoa Huân vẫn từ chối, Pháp quyết định xử tử ông.
Biệt thự kiểu Pháp của gia đình Tổng đốc Đỗ Hữu Phương.
Vươn lên ngôi thứ hai của tứ đại phú
Trong quá trình làm việc, Đỗ Hữu Phương được thăng làm đốc phủ sứ Vĩnh Long, tổng đốc danh dự, rồi làm phụ tá Xã Tây Chợ Lớn, dân gian quen gọi là Tổng đốc Phương. Đây là chức vụ không quá lớn nhưng thiên hạ đồn rằng chức vụ này giúp ông Phương trở thành trung gian cho các thương gia Hoa kiều hối lộ viên chức Pháp, nhờ vậy thu rất nhiều tiền của trong các phi vụ làm ăn này. Tuy nhiên, nguồn tin khác cho rằng nhờ giao thiệp rộng, lại nhanh nhạy với việc làm ăn buôn bán nên ông Phương đã gầy dựng, mở mang các mối làm ăn thông qua các chuỗi cửa hiệu trong vùng Chợ Lớn.
Ông Phương có người vợ họ Trần (không rõ tên) là con của một viên tri phủ miền Trung. Bà là người rất giỏi giang trong việc quán xuyến nhà cửa và buôn bán. Nhà có hơn 2.000 mẫu ruộng do Toàn quyền Doumer cho khẩn trưng ruộng đất, bà vợ không chỉ lo việc cai quản, thu hoa lợi từ ruộng đất mà còn điều hành hệ thống buôn bán, phân phối hàng hóa cả ngàn cửa hiệu trong vùng. Hai vợ chồng “song kiếm hợp bích”, chồng ngoại giao mở mang, vợ tề gia, tiền đẻ ra tiền, đến mức thiên hạ đồn gia đình có gia nhân chuyên cho việc đếm tiền vì tiền thu vào nhiều quá, bà vợ không thể đếm xuể.
Nhớ đến nguồn gốc Minh Hương của mình, Đỗ Hữu Phương đã xây dựng nên Nghĩa Nhuận hội quán trên đường Gò Công. Ông Phương cũng đã bỏ tiền xây dựng Trường Collège de Jeunes Filles Indigènes tức Trường nữ Trung học Sài Gòn, sau này gọi là Trường Áo Tím, Gia Long, nay là Trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai. Ngoài ra ông ta cũng bỏ nhiều tiền tu bổ rất nhiều chùa chiền miếu mạo quanh vùng nên được dân chúng ghi công. Dọc theo kinh Chợ Lớn có một cây cầu gọi là cầu Ông Lớn. Ông Lớn đây chính là Đỗ Hữu Phương, theo lý giải của nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển. Hồi đó người dân không gọi bằng tên thật. Cũng như sau này ngôi từ đường thờ người vợ rồi trở thành từ đường của dòng họ, được gọi là đền Bà Lớn.
Phong lưu cuối đời
Danh vọng và tiền bạc đều có đủ, Đỗ Hữu Phương sống phong lưu, thụ hưởng. Ông nhiều lần sang Pháp du ngoạn, đi thăm thú thủ đô nhiều nước châu Âu và đi vòng quanh thế giới. Trong danh sách các hành khách đi tàu Anadyr từ Sài Gòn đến Marseille ngày 29-4-1889 có tên ông cùng với hai người con. Điều này chứng tỏ ông tham dự Hội chợ kỷ niệm 100 năm cách mạng Pháp và sau này góp phần tổ chức khu triển lãm Đông Dương ở Hội chợ quốc tế Paris năm 1900.
Đỗ Hữu Phương sống trong một tòa nhà được xem là to nhất nhì Sài Gòn, nằm trên bờ kênh Xếp (sau này lấp thành đường gọi là đường Tổng đốc Phương, nay là Châu Văn Liêm). Bề ngoài nhà kiểu Tây nhưng bên trong nội thất theo kiểu Việt và Trung Hoa. Bá tước Pierre Barthélemy kể lại khi được viếng thăm: “Nhà ông là một sự pha trộn lạ kỳ giữa Âu và Á. Sân trong thiết kế theo kiểu Trung Hoa, chung quanh sân là các phòng kiểu An Nam mà một phòng salon ở tận trong rất đáng chú ý. Đối diện với salon này là một biệt thự kiểu Âu. Bàn thờ trong phòng salon An Nam này là một công trình tuyệt diệu nổi tiếng, bàn thờ được cẩn xà cừ. Những cột nhà làm bằng gỗ teck rất quý, trụ mái nhà của phòng salon này trông rất thanh tao và trên một bàn làm bằng gỗ quý là những chai rượu absinthe, amer Picon và những sản phẩm của Pháp khác. Ông Phủ thích đãi khách các đồ ăn đặc biệt và ông ta cũng biết thưởng thức các loại rượu của chúng ta. Nếu phải diễn tả hết tất cả sự giàu sang của nội thất An Nam này thì phải viết rất nhiều trang giấy…”.
Bá tước Pierre Barthélemy cũng kể về bữa ăn đặc biệt với những món ăn Tây, Việt và Trung Hoa, trong đó ông được đãi món đuông dừa vô cùng ấn tượng.
Đỗ Hữu Phương còn được biết đến như một người giao thiệp rộng, hiếu khách, hào phóng và sành điệu mà chính Toàn quyền Paul Doumer cũng phải kể lại trong hồi ký về Đông Dương: “Ông Phủ ở Chợ Lớn tiếp khách người Âu trong nhà ông, mời uống rượu Champagne và bánh petits beurres de Nantes, cho khách xem một vài sản phẩm đặc thù lạ kỳ của người An Nam và tổ chức theo sự đòi hỏi, ước muốn của khách, xem một tuồng hát của người bản xứ (hát bội)…”.
Trong nhà mình, ông Phương có xây cả một rạp hát bội nhỏ để chiêu đãi khách khứa. Ông thường đến nhà hàng, khách sạn Continental ở Sài Gòn và Café de la Paix, nơi gặp gỡ của các bạn bè Pháp-Việt thượng lưu trí thức để giao lưu.
Sau khi vợ chồng ông Phương mất, căn nhà được con cháu bán lại cho Hoa kiều, do vị trí đắc địa tại trung tâm Chợ Lớn. Họ đã phá bỏ tất cả để xây thành cửa hiệu và rạp hát. Nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển đã tả lại trong cuốn Sài Gòn năm xưa:
“Ngôi nhà nầy nay đã dỡ, đất thì bán cho khách Tàu xây nhà chọc trời làm tửu quán, cao lầu và rạp ciné. Chỉ chừa một khuỷnh để làm nơi thờ phượng. Mấy chục năm về trước, cờ bạc còn thạnh hành, vua đổ bác, “Thầy Sáu Ngọ” nhiều tiền, mướn đấy làm chỗ hốt me ăn thua ức vạn. Nghĩ cho con cháu rân rát, đỗ đạt thành danh, mà từ đường chứa đầy tiếng thô tục, nước bọt và đờm xanh, có phải chăng là căn quả?”.
Lời cuối của cụ Vương cho thấy sự sa sút rất nhanh của dòng họ Đỗ Hữu trước thời cuộc.
|
PHẠM TRƯỜNG GIANG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét