Trong Tình đời , một ca khúc của nhạc sĩ Minh Kỳ vẫn còn phổ biến đến bây giờ, có nhắc đến phòng trà và nỗi niềm cô ca sĩ: “Khi biết em mang kiếp cầm ca/Đêm đêm phòng trà/Dâng tiếng hát cho người người/Bỏ tiền mua vui/Hỏi rằng anh ơi/Còn yêu em nữa không”...
Khoảng năm 1954 - 1956 là thời kỳ vàng son của khiêu vũ trường ở Sài Gòn. Tuy nhiên sau khi nắm quyền, chính quyền Ngô Đình Diệm ra lệnh đóng cửa các khiêu vũ trường. Thế là các ông chủ quay sang mở phòng trà ca nhạc. Dù có nhiều khó khăn nhưng đầu tư vào phòng trà ca nhạc có lẽ vẫn kiếm được tiền nên không ít nghệ sĩ đã đầu tư làm bầu phòng trà như Khánh Ly, Jo Marcel.
Năm 1954, nhiều nhạc sĩ, ca sĩ miền Bắc di cư vào Sài Gòn, góp phần làm cho nền tân nhạc ở miền Nam thời kỳ này đa dạng với nhiều dòng nhạc dành cho nhiều tầng lớp khán giả. Thị trường âm nhạc sôi động cùng những ca sĩ nổi tiếng giúp các phòng trà bước vào thời kỳ hoàng kim. Tới phòng trà nghe nhạc là một nét văn hóa của Sài Gòn khi đó. Một nhà báo đã viết: “Ngày là thời gian thành phố làm việc, đêm mới là thành phố sống. Một trong các mảnh sống của đêm Sài Gòn là những tiếng ca hằng đêm réo rắt trên khắp các hí trường phòng trà ca nhạc”.
Trong thời gian này khó xác định là phòng trà nào có trước. Có người cho là phòng trà Anh Vũ của kiến trúc sư Võ Đức Diên. Phòng trà này xuất thân từ một quán ăn do Võ Đức Diên thành lập (theo nhà văn Thế Phong, đây là nơi Võ Đức Diên thu thập tin tức cho Ngô Đình Nhu bằng cách có gắn máy thu băng trong các bức tường gỗ?). Tuy là phòng trà nhưng có thiết kế một sân khấu nhỏ vừa cho một ban nhạc bỏ túi đệm đàn cho những ca sĩ nổi tiếng được mời đến trình diễn như Bạch Yến, Mai Hương, Duy Trác, Cao Thái.
Một “capheteria” khác theo phong cách của Anh Vũ cũng đã mọc lên bên cạnh rạp chiếu bóng Việt Long, đường Cao Thắng với tên phòng trà Đức Quỳnh do Đức Quỳnh đệm piano với những ca sĩ Minh Hiếu - Thanh Thúy, Phương Dung... Vào tháng 5.1959, phòng trà ca nhạc Văn Cảnh đường Calmete có quảng cáo “Ban hợp ca Thăng Long cùng với 8 nữ ca sĩ thanh sắc song toàn, giá tiền thật bình dân 15 đồng trà, cà phê”... Một thời gian sau phòng trà Sài Gòn nở rộ.
Giọng ca liêu trai
Bài hát Tình đời của Minh Kỳ đã được nữ ca sĩ Thanh Thúy thể hiện bằng giọng hát hết sức “liêu trai”. Thời ấy, rất có nhiều giọng ca nữ nổi tiếng nhưng giọng ca Thanh Thúy đã khiến nhiều văn nghệ sĩ ái mộ. Trịnh Công Sơn với tác phầm đầu tay Ướt mi, Tôn Thất Lập với Tiếng hát về khuya, Nguyễn Long với bộ phim Thúy đã đi rồi đều dành cho nữ ca sĩ này.
Vào khoảng cuối năm 1958, Thanh Thúy vừa tập tễnh bước vào nghề ca hát dưới sự dẫn dắt của ca sĩ Kim Chi. Một tài năng mới với nhan sắc sương khói lảng vảng, giọng ca trầm buồn, vừa hát vừa đưa tay vuốt làn tóc buông rơi. Nhà thơ Hoàng Trúc Ly đã tán tụng “Từ em tiếng hát lên trời. Tay xoa dòng tóc, tay vời âm thanh...”.
Trong hồi ký, diễn viên Nguyễn Long đã viết: “Tháng 11/59, vào một buổi tối thật buồn, sau khi coi xi nê trên rạp Việt Long, thấy còn sớm, tôi lên phòng trà Việt Long ngay trên lầu của rạp hát do anh Đức Quỳnh tổ chức, uống nước trà nghe các bạn ca sĩ hát cho qua giờ, chợt tôi nghe thấy một giọng hát lạ, hơi lạ, tôi nhìn lên sân khấu, còn lạ hơn, một cô gái thật nhỏ, ca sĩ không ra ca sĩ, học sinh không ra học sinh, dáng dấp e ấp, ngại ngùng, giọng cô vang lên tưởng chừng như từ xa vọng lại”.
Nguyễn Long quen Thanh Thúy từ đêm đó. Đầu tháng 1.1960, Thanh Thúy được mời hát trong chương trình Sầm Giang đại nhạc hội do Trần Văn Trạch tổ chức tại rạp Đại Nam. Nguyễn Long kể: “Đại nhạc hội rất thành công, nhưng màn được nhắc nhở nhất vẫn là màn trình diễn của Thanh Thúy.
Ngay trong tuần lễ đó, phần lớn các trang báo kịch trường của Sài Gòn đều nhắc tới Thanh Thúy, khuôn mặt mới nhưng sáng chói của tân nhạc, giọng ca liêu trai thu hút, lôi cuốn người thưởng thức, giọng ca đặc biệt nhất của tân nhạc VN từ trước tới nay. Mỗi tờ báo viết một kiểu khác nhau, nhưng cùng một lúc rất nhiều tờ, cho nên chỉ trong vòng có một tuần lễ, hiện tượng Thanh Thúy đã trở thành một cơn bão nhỏ trong thành phố, và chỉ một tháng sau đã lan tràn gần hết miền Nam. Một số phòng trà tại Sài Gòn tới mời cô, rất nhiều đại nhạc hội tới mời cô...”.
Rất nhiều lời tán tụng giọng ca này, trong đó có một vị giáo sư triết học. Hãy đọc một đoạn văn ngắn của Giáo sư Nguyễn Văn Trung viết trong bài Ảo ảnh Thanh Thúy (Nhận định 4, Nam Sơn 1966): “Thanh Thúy mặc quần áo VN, kín đáo, đứng đắn, không đeo những đồ giả, hiền lành, dè dặt, khi hát chuyên môn ca bài Việt, hơn nữa chỉ ca một loại nhạc buồn... Đứng trước Thanh Thúy, nghe Thanh Thúy hát những bài buồn buồn bằng một giọng trầm, với những nét mặt xa vắng, khán giả cảm thấy như bị lôi kéo về một dĩ vãng xa xôi nhưng cũng rất gần gũi quen thuộc, một dĩ vãng dệt những hình ảnh rung động, cảm nghĩ gắn liền với lịch sử đất nước, với thôn quê đồng ruộng, với sông Hương, núi Ngự, tiêu biểu cho những gì là dân tộc, cá tính địa phương về mặt tiêu cực: một nỗi buồn man mác, cô tịch, trầm lặng, vô định...”.
Thanh Thúy là một nữ ca sĩ sống lặng lẽ, không ồn ào dính tới những điều tiếng về chuyện se sua hay tình ái. Sau này, người nữ ca sĩ có giọng hát liêu trai của mình lặng đi một thời gian dài khi lập gia đình cùng ông Ôn Văn Tài. Khi bà định cư ở Mỹ thì không còn nghe bà tham dự vào giới ca nhạc nữa.
Lệ Thu và Anh Khoa, hai giọng ca chủ lực của phòng trà RitzẢNH: T.L
Đầu những năm 1970 tại Sài Gòn có 5 phòng trà nổi tiếng nhất được gọi là 'ngũ đại phòng trà'. Đó là Tự Do, Đêm Màu Hồng, Queen Bee nằm trên hai trục đường lớn trung tâm Nguyễn Huệ và Tự Do (Đồng Khởi). Tuốt vào Trần Hưng Đạo, góc Phát Diệm là phòng trà Ritz và Baccara.
Ritz với Jo Marcel
Dân mê nhạc trẻ thập kỷ 1970 chắc không ai xa lạ về những cái tên như Trường Kỳ, Nam Lộc và đặc biệt Jo Marcel. Nhạc sĩ này ca hay, biết sử dụng âm thanh, ánh sáng hiện đại hơn nhiều phòng trà khác nên được coi là phù thủy của âm thanh ánh sáng sân khấu. Jo còn là một nhà sản xuất băng nhạc có hạng, đóng đô ở lầu 3 của Crystal Palace (Thương xá Tam Đa).
Trước khi dọn về Ritz, Jo Marcel tổ chức phòng trà tại Queen Bee vào năm 1969. Sau khi hết hợp đồng thuê Queen Bee, Jo thuê phòng trà Ritz của ông Nguyễn Văn Xướng (chủ rạp Hưng Đạo). Ngoài thành phần ca sĩ, Ritz còn nổi bật lên vì âm thanh và màu sắc mà Jo Marcel đã bỏ rất nhiều công sưu tầm để mang lại cho phòng trà của mình một sắc thái riêng biệt, khác lạ với những phòng trà khác. Jo Marcel còn sử dụng kỹ thuật điện ảnh để tăng phần hấp dẫn và có lẽ là mới lạ nhất thời gian đó. Trên sân khấu là một màn ảnh của rạp xi nê bỏ túi. Nào là phi thuyền Apolo với người phi công là ca sĩ Sỹ Phú đã du học tận Mỹ xa xôi. Những danh lam thắng cảnh của năm châu, của đại dương, của núi, của suối, hoa lá, chim chóc với diễn viên chính là các ca sĩ của Ba Con Mèo (cho phần trình diễn của ban tam ca này), ban hợp ca Bốn Phương (cho phần trình diễn của những đứa con Dương Thiệu Tước - Minh Trang)... Những cảnh này là do Jo Marcel vừa quay phim và đạo diễn. Sau này, Jo có tự tay làm một cuốn phim về nhạc trẻ dựa theo truyện dài Tuổi choai choai của Trường Kỳ.
Jo Marcel tên thật là Vũ Ngọc Tòng, sinh năm 1936 tại Hà Nội và là trưởng nam của kỹ sư Vũ Ngọc Thuyến - cũng là một nhạc sĩ và ca sĩ có biệt tài. Năm 1958, Tòng bắt đầu đi hát tại ca vũ trường Đại Nam với tên Ngọc Minh. Năm 1960, Tòng qua hát cho nhà hàng Caravelle. Trong thời gian hát tại đây, ông có dịp học hỏi rất nhiều vì được hát chung với một số ca sĩ nước ngoài. Năm 1963, Tòng ký giao kèo với nhà hàng Baccara. Là một ca sĩ nhưng lại hiểu biết về kỹ thuật âm thanh, nên mỗi khi hát ở một nhà hàng mới, Tòng được “đặc quyền” thay đổi hệ thống âm thanh cho phù hợp với giọng ca của mình. Tại Baccara, Tòng hợp ca cùng nữ ca sĩ Bạch Bích trong những bản nhạc nước ngoài nên đổi tên mới là Jo Marcel.
Mùa thu tráng lệ
Giọng hát chủ lực của phòng trà Ritz là Lệ Thu. Khán giả đến với Ritz trước nhất là vì Lệ Thu, như đến với Đêm Màu Hồng vì Thái Thanh, Queen Bee vì Khánh Ly. Vì tiếng hát Lệ Thu, những người ái mộ phải đi ngược vào đại lộ Trần Hưng Đạo, góc Phát Diệm (Trần Đình Xu) trong khi Tự Do, Maxim’s, Đêm Màu Hồng ở ngay trung tâm. Đến hát ở Ritz, Lệ Thu không cần trang điểm nhiều vì hệ thống ánh sáng ở phòng trà này đã nâng cao khuôn mặt của nàng.
Lệ Thu tên thật là Bùi Thị Oanh, sinh năm 1943 tại Hà Nội trong một gia đình công chức. Sau đó, gia đình chuyển xuống Hải Phòng cho đến năm 1954 vào nam. Tại Sài Gòn, cô học ở Trường Les Lauriers (Tân Định) cho tới lớp đệ tứ. Nhờ đã học nhạc lý tại Trường Sainte Marie Hải Phòng, thêm có khiếu về ca nhạc, Lệ Thu tự trau dồi ca hát bằng phương pháp nghe các danh ca hát trên đài phát thanh. Ngoài ra cô cũng được nhạc sĩ Đức Quỳnh chỉ dẫn thêm về ca nhạc. Trên Báo Sinh Hoạt Nghệ Thuật năm 1971, Lệ Thu đã giải thích: “Lệ Thu là mùa thu tráng lệ, mùa thu tuyệt vời. Thú thật tên Oanh cũng đẹp lắm chứ. Nhưng khi mới đi hát bị một ông khách hỏi tên bất ngờ, quýnh quá Oanh nói đại tên Thu. Thu không thì trơ quá nên về sau thêm chữ Lệ vào cho đẹp”.
Nhưng từ tháng 4.1970 Lệ Thu đã về với phòng trà Tự Do. Ông Ngô Văn Cường chủ Tự Do đã dùng giá cao để giựt Lệ Thu ra khỏi Ritz của Jo. Jo ký với Lệ Thu là 700.000 đồng hát một năm, cộng tiền cát sê khá cao, còn ông Cường kêu Lệ Thu trả hợp đồng 1 triệu và tiền hát hằng đêm gấp đôi.
Ngoài Lệ Thu, Ritz còn có Ba Con Mèo, ban hợp ca Bốn Phương và ban The Dreamers với những đứa con của bố già Phạm Duy như Duy Quang, Thái Hiền, Duy Cường, Julie Quang, Duy Minh. Hằng đêm, Phạm Duy cùng những đứa con chất nhau trên chiếc xe hơi cũ hát ở Embassy - một club Mỹ trên đường Nguyễn Trung Trực, sau đó là Queen Bee rồi về đây. Có một chuyện tếu táo là trong một cuộc nói chuyện, phóng viên Báo Khởi Hành hỏi: “Anh hát có mệt không?” thì nhạc sĩ này trả lời: “Hát như đi đái ấy mà”.
Người thủy chung với Jo Marcel nhất là Anh Khoa, hết Queen Bee rồi đến Ritz. Tiếng hát của Anh Khoa là tiếng hát của những rặng thùy dương hiền hòa của miền biển Phan Thiết. Ritz còn có Mỹ Thể, giọng hát của thế hệ cùng thời với Lệ Thanh, Thanh Thúy. Mỹ Thể có tiếng ca cao vút nhưng không thanh như Lệ Thu mà ngộp thở, mà say...
Tam ca Đông Phương: Tuyết Hằng, Thu Hà, Hồng VânẢNH: TƯ LIỆU
Năm 1967, nhạc sĩ Hoài Bắc (Phạm Đình Chương) nhận tổ chức phòng trà Đêm Màu Hồng (cũng là tên một ca khúc mà ông phổ nhạc từ thơ của Thanh Tâm Tuyền).
Những sáng tác nổi danh của ông và sự trình diễn điêu luyện của ban hợp ca Thăng Long đã biến phòng trà này thành nơi nổi tiếng nhất và là nơi tụ tập của những nghệ sĩ hàng đầu đô thành Sài Gòn.
Hồi tưởng lại Hà Nội
Đêm Màu Hồng dùng ánh sáng màu hồng không đỏ, không chói gắt. Nhiều người từng nói rằng đến Đêm Màu Hồng để hồi tưởng lại Hà Nội. Tiếng hát gia đình Thăng Long đã gợi lại cho người nghe nhiều kỷ niệm êm đềm về 36 phố phường. Thăng Long là ban hợp ca điêu luyện và trình diễn sang trọng nhất theo nhận định của giới sành nhạc. Ban này thành lập năm 1949 ở Hà Nội, gồm Hoài Bắc, Hoài Trung, Thái Hằng, Khánh Ngọc và Thái Thanh. Năm 1951, họ di cư vào nam và trình diễn tại Sài Gòn đến 1975, gắn liền với phòng trà Đêm Màu Hồng. Ban hợp ca trình bày những nhạc phẩm bất hủ của các nhạc sĩ đã nổi danh từ thời tiền chiến, nổi bật là Phạm Đình Chương và Phạm Duy.
Từ khi “nhập cư” Sài Gòn, Hoài Trung, Hoài Bắc, Thái Thanh và Thái Hằng đã làm “nóng” các sân khấu đại nhạc hội qua các bản hợp ca vui tươi, dí dỏm như Ngựa phi đường xa của Lê Yên, Tiếng dân chài của Phạm Đình Chương... Họ hợp ca bản nào là bản đó nổi lên một sắc thái đậm đà như những món gia vị bỏ vào tô phở. Có phải vì vậy mà giới ca nhạc phòng trà đã gọi họ bằng những cái biệt hiệu thật ngộ nghĩnh: Hoài Chanh, Hoài Ớt, Thái Tiêu, Thái Hành.
Người đến Đêm Màu Hồng nhận xét Thái Thanh là giọng ca không có tuổi, giọng hát ca dao tình tự đã làm rung động nhiều lớp người. Trong số những người rung động về thanh và sắc của Thái Thanh có nhà văn M.T. Ông đã viết bài ca ngợi Thái Thanh và si mê nữ danh ca ấy. Chẳng may, nhà văn đã bị Lê Quỳnh - chồng của Thái Thanh - đánh tại phòng trà Đêm Màu Hồng, gây ra dư luận một thời.
Ban hợp ca Thăng Long: Thái Thanh, Hoài Bắc, Hoài Trung
Tam ca nữ nổi danh
Ngoài ban hợp ca Thăng Long, còn có ban tam ca Đông Phương là ban tam ca độc quyền của Đêm Màu Hồng. Đây là ban tam ca nữ đầu tiên hát nhạc dân ca ba miền nên nổi tiếng rất nhanh. Khi thành lập, những cô gái trong ban tam ca đã xác định “đường lối” là chỉ trình bày những nét tinh anh của dân ca cổ truyền bằng nghệ thuật hòa âm hiện đại. “Một hướng đi khác lạ khi năm 1971 nhạc nước ngoài gần như xâm chiếm thị trường âm nhạc cộng với những bài ca được ra đời trong tình trạng đẻ non thiếu tháng. Phong trào du ca và dân ca thì lại quá nhỏ hẹp”, tác giả Ngọc Hoài Phương viết trong tờ Kịch ảnh số 457. Mỗi đêm tại phòng trà Đêm Màu Hồng họ đều hát ít nhất ba bài dân ca của ba miền Bắc - Trung - Nam. Quan họ Bắc Ninh xen với một bài Lý con sáo xứ Quảng và bài Lý con quạ miền Nam. Ba cô đều mặc áo dài, khăn đóng trông rất nền nã. Ban tam ca này có vốn liếng là 50 bài dân ca đã soạn sẵn hòa âm. Sự thành công của ban tam ca một phần là nhờ công của nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu soạn hòa âm trên 20 bài.
Ban tam ca Đông Phương có lối trình diễn độc đáo nên cũng có một số khán giả chọn lọc. Phần lớn khán giả tới nghe dân ca là nghệ sĩ, giới trí thức, sinh viên. Nói chung là giới có trình độ thưởng ngoạn cao.
Đầu tiên là giọng ca Hồng Vân - tiếng hát của một cô gái miền Trung, giọng thanh, trong, thường giữ bè chính, luôn đứng giữa khi trình diễn. Ngoài giờ ca hát, cô là công chức tại Trung tâm học liệu Bộ Giáo dục. Hồng Vân tự học nhạc từ nhỏ. Năm 1967 bắt đầu ngâm thơ và hát ở đài phát thanh, truyền hình. Thoạt đầu cô là biên tập viên của đài phát thanh, thử hát chơi trong chương trình nhạc chủ đề của Vũ Đình Toàn và Vũ Thành An. Năm 1968, nhạc sĩ Hùng Lân từ Mỹ về đang có khuynh hướng phát triển dân ca, dân nhạc nên đã hướng dẫn Hồng Vân vào con đường nhạc dân ca. Lúc ấy, ngoài giờ hát với ban tam ca, khi lên hát trên ti vi, cô cũng chọn hát dân ca - con đường đi riêng của mình cho đến sau năm 1975, giọng hát này vẫn không gì thay đổi.
Kế đến là Tuyết Hằng - ca sĩ người miền Nam, giọng nữ cao. Tên thật là Nguyễn Thị Quyên, vợ của Nguyễn Cao Hoàn (nhạc sĩ cố vấn cho ban tam ca). Xuất thân từ Trường Quốc gia âm nhạc nhưng cô đi hát chỉ là nghề phụ vì công việc chính là xướng ngôn viên đài phát thanh.
Sau cùng là giọng ca Thu Hà - một giọng trầm đặc biệt. Cô có tên thật là Nguyễn Thị Minh Nguyệt, con gái Hà Nội. Học nhạc với các sơ Trường Notre Dame des Missions Thanh Hóa, khi di cư vào nam học nhạc với Hùng Lân. Thu Hà đi hát chỉ là nghề phụ vì còn là một cô giáo.
Mặc dầu có hai ban hợp ca thuộc loại đình đám, không đụng hàng như vậy nhưng nhạc sĩ Hoài Bắc đã cho chương trình thay đổi bằng ban tứ ca “Bốn anh em nhà Dalton” với Ngọc Thi, Nhật Bằng, Hoài Trung và Hoài Khanh. Họ trình diễn những bản nhạc ngoại quốc vui nhộn, trẻ trung đem đến cho Đêm Màu Hồng một không khí mới lạ.
Từ trái sang: Khánh Ly - Lệ Thu - Thái Thanh, 3 giọng ca hàng đầu của các phòng trà Sài Gòn xưaẢNH: T.L
Với một lực lượng ca sĩ, ban nhạc hùng hậu và nổi tiếng, cộng với lợi điểm nằm giữa trung tâm thành phố, phòng trà Tự Do của ông Ngô Văn Cường xuất hiện đều trên các mặt báo lúc đó.
Phòng trà Tự Do nằm ở số 80 đường Tự Do (nay là đường Đồng Khởi). Với một lực lượng ca sĩ, ban nhạc hùng hậu và nổi tiếng, cộng với lợi điểm nằm giữa trung tâm thành phố, phòng trà Tự Do của ông Ngô Văn Cường xuất hiện đều trên các mặt báo lúc đó.
Chương trình ca nhạc ở phòng trà Tự Do được phối hợp giữa những bản nhạc kích động và những bài hát trữ tình VN. Và với khoảng thời gian nào cũng vậy, nhạc tiền chiến VN vẫn là một đòi hỏi của dân mê nhạc. Dám đầu tư lớn, ông Cường đã đưa một số thiết kế mà ông thích từ Expo’70 vào phòng trà, tạo nên một không khí lai nửa Âu, nửa Á. Sân khấu “tân kỳ” với một cây cầu gỗ bắc ngang đưa người ca sĩ lại gần với khán giả. Báo chí nhận xét ở phòng trà này đẹp nhất là ánh sáng. Nhưng dù không khí có sinh động vì thiết kế, ánh sáng, âm thanh nhưng nếu thiếu những ca sĩ “vơ đét” thì kể như chào thua những Đêm Màu Hồng, Queen Bee, Maxim’ gần đó, nên ông Cường đầu tư mạnh vào những giọng ca chiếm lĩnh thị trường ca nhạc.
Trước nhất là những nữ ca sĩ nhạc trẻ của ban The Revolution. Ngọc Anh với đôi chân thật đẹp và gương mặt hao hao giống Khánh Ly vì nàng là em của Khánh Ly. Ngọc Anh hát nhạc với lời Pháp thì hay hơn nhạc lời Anh. Vi Vân, từ ngày rời xa Ba Trái Táo, cô hát độc quyền cho phòng trà này và chuyên hát nhạc soul. Cô có giọng mạnh, cao, nghe ngộp thở vì cái dáng bé nhỏ đó mà tiếng hát thì mênh mông. Carol là một gương mặt lạ của phòng trà Tự Do. Nàng hát với môi, với mắt, với chân tay và cả thân hình nữa.
Bên cạnh đó còn có ba giọng ca “họ Tuyết”: Tuyết Loan, Tuyết Dung, Tuyết Hương của Ba Trái Táo (Tuyết Dung hát thay Vi Vân). Đây là một ban hợp ca với những ca sĩ có vóc dáng gầy, đẹp và lối diễn xuất nóng bỏng không kém gì một ban hợp ca nước ngoài. Tất cả những lời nhận định về các giọng ca trên đây là từ một ký giả của báo Kịch Ảnh.
Sau cùng là nhóm các người con của nhạc sĩ Lữ Liên: Anh Tú, Khánh Hà, Bé Thúy, Bích Chiêu. Bích Chiêu tên thật là Lã Thị Chiêu, từng xuất ngoại nhảy múa và ca hát trên một số sân khấu Âu châu trong bảy năm với nghệ danh Bee Tchou. Khi về nước, Bích Chiêu được ông Cường mời về hát tại Tự Do. Từ khi chị em Bích Chiêu hát ở đây thì phòng trà này càng đông khách hơn nữa. “Ông Cường lo o bế dàn âm thanh, tiếp khách và đặc biệt là nhanh tay lẹ mắt vồ được những ca sĩ vừa có tiếng, vừa thơm như múi mít” (tuần báo Sinh Hoạt Nghệ Thuật). Ngay từ khi chưa xuất ngoại, Bích Chiêu đã có lối trình diễn có khuynh hướng “man dại”. Với kinh nghiệm thu thập được từ nước ngoài, khi về nước Bích Chiêu trình diễn còn “man dại” hơn xưa, nhưng thật mãnh liệt và nhà nghề: đó là một thứ “man dại” của màn ảnh, của hộp đêm, của phòng trà. Giọng ngân vang huyền hoặc của Khánh Hà với đôi mắt thủy tinh cùng tiếng hát cao và điêu luyện của Bé Thúy với gương mặt non nớt trẻ con hát cùng Bích Chiêu thật hợp. Bộ ba chị em này có những bộ y phục lạ mắt, mốt nhất thường là do Bích Chiêu đặt từ nước ngoài về.
Hai nữ hoàng chung một phòng trà
Ngoài những giọng ca “thơm như múi mít” như Phương Hồng Hạnh, Ngọc Minh, Mai Hương còn có những giọng ca thơm như “sầu riêng”, không ai dám đụng vào trừ ông Cường. Đó là “mặt trời Khánh Ly” và “mặt trăng Lệ Thu” (chữ của Thương Sinh - Duyên Anh trên tuần báo Người). Theo báo chí thời ấy, phòng trà nào có Khánh Ly thì không có Lệ Thu và ngược lại. Nhưng với nhiều tờ tiền mệnh giá 500 đồng thì ông Cường đã chiêu dụ được Lệ Thu bỏ Ritz để về với Tự Do. Năm 1971 sau khi đi Mỹ về, Khánh Ly cũng về đầu quân cho ông Cường để lãnh cát sê được cho là cao nhất giới ca sĩ phòng trà lúc ấy. Từ chân đất khi hát cho sinh viên, nàng ca sĩ “có giọng ca lừng khừng nhất nước” đã mang hài sen khi hát phòng trà.
Nếu Đêm Màu Hồng có vụ lùm xùm giữa Thái Thanh - Lê Quỳnh và nhà văn có tên thật là Mai Văn Sĩ thì Tự Do lại có chuyện liên quan đến tình duyên của ca sĩ Khánh Ly. Sau khi về Tự Do không lâu, ngày 6.3.1971 Khánh Ly đã tổ chức sinh nhật lần thứ 26 tại phòng trà này. Theo một tờ báo cho biết buổi lễ mừng sinh nhật chính là để dọn đường cho việc hợp thức hóa cuộc tình của nữ ca sĩ này với đại úy Mai Bá Trác. Hai người sau đó đã kết hôn. Nhưng đáng buồn, cũng tại trước cửa phòng trà này ba năm sau (thời kỳ phòng trà được mở cửa lại) có một cuộc ẩu đả giữa ông Trác (người chồng đang bị Khánh Ly đâm đơn ly dị) và thiếu tá Đỗ Hữu Tùng, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 147 thủy quân lục chiến. Dư luận cho là vụ đánh ghen, còn Khánh Ly hoàn toàn phủ nhận điều này.
Duy Hùng, Thanh Lan, Duy Quang tại Đại hội nhạc trẻ Sài Gòn năm 1974ẢNH: TƯ LIỆU
Thập niên 1960, giới trẻ Sài Gòn đón nhận phong trào nhạc trẻ và hippy. Không từ bỏ cơ hội, các phòng trà ca nhạc đưa nhạc trẻ vào chương trình hằng đêm để thay đổi khẩu vị âm nhạc.
Nhạc trẻ với Tuấn Ngọc - Đức Huy
Trước hết phải nói đến Trường Kỳ và Nam Lộc đã tổ chức chương trình Hippy à gogo diễn vào mỗi chiều chủ nhật tại phòng trà Queen Bee. Sau đó, một số chủ phòng trà “đánh hơi” được món ăn mới lạ nên đưa nhạc trẻ vào biểu diễn, đệm thêm trong chương trình ca nhạc, sau khi các ca sĩ nổi tiếng… đi về.
Ông Ngô Văn Cường - chủ phòng trà Tự Do - là người ủng hộ cho nhạc trẻ vào phòng trà. Ông đã mời ban The Strawbery Four với Tùng Giang, Tuấn Ngọc, Đức Huy và Billy Shane làm dàn nhạc bao cho chương trình ca nhạc tại đây. Ngoài phần trình diễn nhạc trẻ, các “trái dâu” còn đệm nhạc cho ca sĩ. Sau này, các “trái dâu” rã đám. Hai người còn lại là Tuấn Ngọc (guitar bass), Đức Huy (guitar lead) lập nên ban nhạc mới là The Revolution thêm Hiệp San (trống), Lê Đô (saxo) và Huỳnh Hóa (organ). Theo một bài viết trên báo Kịch Ảnh thì những chàng trai trong ban nhạc này dù chơi nhạc trẻ nhưng rất chững chạc trong những bộ veston. Tuấn Ngọc và Đức Huy không còn mặc những chiếc áo rộng trẻ trung màu vàng cam. Cũng không còn thấy những mái tóc dài và nụ cười trẻ trung tuổi dại. Chững chạc hơn, ít nói cười và không có những động tác kiểu “à la terre” - nhạc công quỳ hai gối xuống sàn, ưỡn người ra sau như khi tham gia các kỳ đại hội nhạc trẻ. Họ sử dụng nhạc cụ trong tư thế trang nghiêm trong khi trình diễn. Các nữ ca sĩ của ban The Revolution là Carol, Vi Vân, Ngọc Anh, Ngọc Hiếu…
Ngoài ban nhạc The Revolution còn có ban The Flowers với các ca sĩ Tuyết Loan, Tuyết Dung và Tuyết Hương. Trong ba cô Tuyết thì chỉ còn Tuyết Loan hát đến sau này. Và sau cùng là ban The Blue Jets với tam ca trong gia đình Bích Chiêu là Anh Tú, Khánh Hà và Bé Thúy. Đáng chú ý, trong dàn nhạc công người chơi guitar bass là Thanh Long về sau được chọn vào ban ca khúc chính trị Rạng Đông đi biểu diễn tại CHDC Đức rồi tiếp tục chơi đàn và trở thành ca sĩ tại TP.HCM.
Những đứa con kích động nhạc của “bố già” Phạm Duy
Ông bầu của ban The Dreamers chính là “bố già” của các nhạc công và ca sĩ trong ban nhạc: Duy Quang (guitar bass), Duy Minh (trống), Duy Hùng (guitar lead), Duy Cường (organ), Julie Quang - vợ Duy Quang và Vény (hát). Ông bầu quản lý, kiêm nhạc sĩ, chỉ đạo dàn dựng và kiêm luôn tài xế đêm đêm chở toàn ban đi diễn một số nơi và sau “đóng chốt” ở Ritz. Vì thế, những thành viên trong ban The Dreamers được báo chí gọi là “Những đứa con kích động nhạc của nhạc sĩ dân ca Phạm Duy”. Nhờ lối trình diễn có luyện tập thường xuyên, có bài bản dưới sự chỉ đạo của “bố bầu” nên The Dreamers giữ một vị trí vững vàng trong làng nhạc trẻ phòng trà. Trước đây ban The Dreamers chơi trong chương trình Hippy à gogo, sau đó ra Nha Trang biểu diễn cho các club Mỹ một thời rồi về lại Sài Gòn hát ở Long Bình và các club Mỹ, Queen Bee. Sau cùng, The Dreamers được Jo Marcel mời về chơi thường trực tại Ritz. Điều này chứng tỏ The Dreamers đã qua mặt được nhiều đàn anh khác.
Trong sự thành công của The Dreamers, ngoài Duy Quang, Julie Quang và Vény thì người nổi nhất là cậu em Duy Cường. Với mái tóc dài bom-bê như con gái, Duy Cường đã rất thành công khi hát bài Oh, Darling. Vào nghề năm 1969, tự tập đánh đàn organ năm 10 tuổi, Cường còn biết sử dụng guitar bass và trống, bắt đầu hoạt động ca hát từ chương trình Hippy à gogo ở Queen Bee với ông thầy Duy Quang.
Cộng vào tên tuổi những ca sĩ, nhạc công, ban nhạc The Dreamers được giới ái mộ tán thưởng qua những bản nhạc Việt như Mùa thu chết, Con quỳ lạy Chúa trên trời, Làm sao giết được người trong mộng với một lối hòa âm độc đáo, không giống con giáp nào!
Do thấy nhạc trẻ đang ăn khách trong một số phòng trà lớn nên các phòng trà “chú tiểu” cũng mời đủ thứ ban nhạc được gọi là nhạc trẻ biểu diễn. Hiện tượng này làm cho chương trình nghệ thuật trong một số phòng trà xuống cấp trầm trọng đến nỗi báo Kịch Ảnh phải kêu rống lên bằng bài viết Quái thai phòng trà: “Càng phát triển bao nhiêu thì nó (nhạc trẻ trong phòng trà) lại càng trở nên phi nghệ thuật bấy nhiêu. Muốn trở thành ca sĩ trình bày nhạc ngoại quốc chỉ cần có thân hình khêu gợi, ăn mặc quyến rũ, biết trơ trẽn. Chỉ việc sắm một cái máy quay đĩa, mua một ít đĩa nhạc ngoại quốc hợp thời, càng cuồng loạn càng tốt, đem về quay đi, quay lại nghe kỹ để học cho thuộc rồi cứ thế trình bày cộng thêm phần hò hét cho giật gân hơn… Hiện tượng trên đã làm nản lòng không ít những ca sĩ có căn bản ngoại ngữ và căn bản nhạc lý, đồng thời làm giới yêu nhạc, muốn tìm thú giải trí trong các phòng trà hết sức thất vọng. Trách nhiệm là từ các chủ phòng trà không biết chối bỏ những nguồn lợi nhất thời để giữ cho mình một giá trị lâu dài…” (số 151, ngày 6.3.1965).
Ngay cả Jo Marcel - người đã tạo môi trường hoạt động cho nhạc trẻ vào phòng trà - nhận xét trong một buổi thảo luận về nhạc trẻ do báo Kịch Ảnh tổ chức thời đó rằng, hiện tại nhạc trẻ không ăn khách ở phòng trà vì đã bị lạm dụng quá nhiều. Sự chọn lựa bài ca để trình diễn trong phòng trà rất cẩu thả.
Ngoài ban tam ca Đông Phương mang âm hưởng dân ca ba miền VN hát tại Đêm Màu Hồng thì từ năm 1969, các ban tam ca nữ hát nhạc trẻ cũng được các phòng trà khác đầu tư.
Ba trái táo - The Apple Three
Phong trào lập ban tam ca nữ đã bùng lên từ khi Ba Trái Táo (The Apple Three) ra mắt tại phòng trà Baccara vào giữa năm 1969. Nhóm do nhạc sĩ Lê Vũ Chấn của phòng trà Baccara thành lập gồm ba thành viên Tuyết Hương, Tuyết Dung và Vy Vân.
Khi còn cộng tác với phòng trà Ly Lan ở đường Lý Thái Tổ, Tuyết Hương ăn mặc còn khá luộm thuộm nhưng bù lại có một khuôn mặt sáng, thông minh, nụ cười cởi mở. Cô hát nhạc ngoại quốc khá nghề, nhất là bài It’s now or never, Bambino... Theo lời ca sĩ Mỹ Hòa thì Tuyết Hương rất sành nhạc ngoại quốc, xứng đáng là bậc đàn chị của mình.
Vy Vân cũng như Tuyết Hương, xuất thân từ những club Mỹ. Vào gần cuối thập niên 1960 tại Sài Gòn, cô bé tên Cảnh Vân, lúc đó đang học lớp đệ tứ (lớp 9 - PV) tại Trường Nguyễn Bá Tòng, sau khi đã từng là học sinh chương trình Pháp của các trường Thiên Phước và Les Lauriers. Nhờ giọng hát độc đáo pha lẫn nhạc blues và soul nên Cảnh Vân, sau đó đổi tên là Vy Vân, đã được một số ban nhạc trẻ mời cộng tác. Những ban nhạc trẻ như The Black Bees, The Beat và The Blue Jets đã nổi lên phần lớn nhờ vào tiếng hát của cô.
Sự tan rã của Ba Trái Táo bắt nguồn từ tính khí bốc đồng của cô khi nhiều lần bỏ ban tam ca này để hát độc lập và sau khi sinh bé Phi Phi, Vy Vân đã chia tay với Ba Trái Táo để lại Tuyết Hương, Tuyết Dung ở lại với Eve Club (trên đường Tự Do, Đồng Khởi ngày nay), mà trước kia họ cùng đứng ra khai thác.
Ba Con Mèo - The Cat’s Trio
Thành lập vào tháng 11.1969 (sau Ba Trái Táo), được sự tín nhiệm của Jo Marcel, “ba con mèo” Uyên Ly, Mỹ Hòa và Kim Anh vung vẫy vuốt của mình trên sân khấu phòng trà Ritz. Uyên Ly đẹp, khuôn mặt ngây thơ. Mỹ Hòa già dặn và điêu luyện còn Kim Anh thì ngổ ngáo với mái tóc con trai trên sóng mũi cao, đôi mắt tròn to, nghịch ngợm. Đây là một ban tam ca hòa thuận, êm đềm nhờ biết dung hòa giữa những cái tôi của ca sĩ và phụ nữ. Đây là một ban tam nữ... sống dai.
Xin được nói thêm về con mèo Uyên Ly một chút. Nàng tên thật là Thúy Liễu, sau khi đậu tú tài đôi xong là ghi danh theo học trường luật nhưng thời giờ chính nàng dành để tập tành hát xướng. Uyên Ly không định theo kiếp cầm ca vì mộng của cô vẫn mê làm ký giả. Bước vào con đường ca hát là một sự bất ngờ khi nhạc sĩ Lê Vũ gọi các cô Mỹ Hòa, Kim Anh lại và ghép ba cô thành nhóm Ba Con Mèo xinh đẹp. Hát nhạc nước ngoài thuần thục nhưng Uyên Ly vẫn thích hát nhạc Phạm Duy.
Uyên Ly gia nhập thế giới phòng trà vào năm 1969, bắt đầu từ Baccara rồi chạy sang Queen Bee, Tự Do và Văn Cảnh. Ngoài công việc đi hát ban đêm, ban ngày Uyên Ly tham gia viết cho trang nhạc trẻ trên một tờ báo. Đi hát, với cô chỉ là một giai đoạn tạm thời còn tương lai thì sẽ chọn một nghề nào đó khác.
Tam ca Chuông Vàng - The Golden Bells
Cuối năm 1970, không hát cho các club Mỹ nữa, Xuân Hoàng kết hợp với Yến Xuân và Linh Phương thành ban tam ca Chuông Vàng (sau khi Mỹ Dung rời khỏi ban này và Linh Phương rời khỏi Mây Hồng). Không thích hát ở các club Mỹ nữa vì không khí phòng trà dễ thương hơn, vả lại giọng ca của Xuân Hoàng chỉ phù hợp với dòng nhạc trữ tình, ngay cả nhạc nước ngoài nhưng với loại bốc lửa như nhạc mà các club Mỹ thích thì Xuân Hoàng không phù hợp.
Tuy nhiên, sau một thời gian, ban Chuông Vàng lủng củng nội bộ nên rã đám. Riêng Xuân Hoàng vẫn ở lại hát tại Đêm Màu Hồng với tư cách độc lập bằng chính tên thật của mình (trước đó, cô lấy tên là Linh Đa). Và từ phòng trà Đêm Màu Hồng, Xuân Hoàng chuyển hướng sang hát nhạc Việt thay cho nhạc nước ngoài mà nàng đã từng hát khi biểu diễn ở các club Mỹ. Trong sự chuyển hướng này có sự giúp đỡ của nhạc sĩ Hoài Bắc - Phạm Đình Chương. Sự trở lại với dòng nhạc Việt này cũng không mấy khó khăn, vốn dĩ Xuân Hoàng đã có năm năm trời tu luyện trong lò nhạc của Nguyễn Đức, cùng lượt với Phương Hồng Hạnh từ năm 11 tuổi. Tham gia ban Việt Nhi vì chỉ thích hát cho vui chứ không nghĩ mình sẽ trở thành ca sĩ, rồi vì sự đưa đẩy của số phận, nàng được một ông chủ phòng trà giới thiệu đi hát ở các club Mỹ kéo dài nhiều năm trước khi Xuân Hoàng trở thành Linh Đa của Chuông Vàng. Về sau, Xuân Hoàng biến mất khỏi Đêm Màu Hồng, có lẽ sang Mỹ du học theo lời khuyên của một bà chị là tiến sĩ y khoa bên Mỹ.
Ngoài các ban tam ca kể trên còn có tam ca Xí Muội với giọng ca chính Uyên Phương; Mây Hồng với Linh Phương, Ngọc Hiếu và Ngọc Anh - một ban tam ca nữ có mệnh số ngắn nhất, chỉ vài tháng. Rồi đến Loan Sisters, ba cô gái đều có tên Loan nên được nhạc sĩ Quang Anh - quản lý ca nhạc của phòng trà Đêm Đông Phương đặt cho cái tên vừa Việt vừa Mỹ. Cũng tiếc cho ban này vì so với Ba Trái Táo, Ba Con Mèo, Mây Hồng, Chuông Vàng thì Loan Sisters được xem là ban hát nhạc Việt hay nhất.
Thời kỳ đó các tam ca nữ nhanh chóng được thành lập và biến mất một cách đột ngột. Có thể vì giận nhau, không ưng ý nhau và đủ thứ lý lẽ của ca sĩ phái nữ vốn đặt cục tự ái của mình lên trên nghệ thuật. Ai cũng tưởng mình là ngôi sao trên bầu trời nghệ thuật, không có mình thì “tụi nó sẽ xí lắc léo”
Ban nhạc The Shotguns của phòng trà Queen BeeẢNH: T.L
Ca sĩ Khánh Ly làm 'bầu' phòng trà Queen Bee một cách bất ngờ, đưa phòng trà này đàng hoàng đứng trong Ngũ đại phòng trà, nhưng cũng rời khỏi vị trí 'bầu bì' vì một nguyên nhân không đâu. Mối quan hệ giữa bà 'bầu' Khánh Ly và chủ nhà hàng Queen Bee kết thúc không mấy êm đẹp ở tòa án.
Trong giới ca sĩ Sài thành lúc đó có một nàng ca sĩ tên là Bích Liên, không nổi tiếng vì sự nghiệp cầm ca mà là nhờ… bói toán cho các nữ ca sĩ trong lúc chờ đến phiên lên hát. Nàng ca sĩ kiêm thầy bói này đã phán Khánh Ly rằng bàn chân trần hát ở sân Văn khoa của cô có cái mụt ruồi nên chân hay “thiên di” lắm (đúng là số Khánh Ly đi nhiều như bà đã tự nhận trong một hồi ký vừa xuất bản gần đây). Bà thầy còn nói mỗi lần đi sẽ làm cho Khánh Ly vui và hạnh phúc, nhưng nếu năm 1970 đi Mỹ sẽ gặp chuyện không may.
Đúng là Khánh Ly được mời cùng với Ngọc Anh (em ruột) và Ngọc Minh đi Mỹ hát theo lời mời của một nữ Việt kiều vào cuối năm 1970 thật. Khánh Ly hát rất thành công, được bà con kiều bào quý mến. Khánh Ly tận hưởng niềm vui này tận đến khi về nước.
Nhưng “bà bầu” đâu biết rằng trong thời gian đi vắng, vào một buổi tối hơn 50 người từ nhạc công, ca sĩ, bồi bếp của Queen Bee đều không được vào phòng trà để chuẩn bị cho chương trình biểu diễn như mọi khi. Ông Nguyễn Văn Xướng - chủ nhân phòng trà Queen Bee, cho Khánh Ly thuê đã tự tiện đóng cửa với lý do “đã làm bầu một phòng trà thì không có quyền bỏ đi đâu dù chỉ một đêm, dù chỉ một vài giờ”. Và ngày trở về, Khánh Ly ngỡ ngàng nhìn công trình xây dựng phòng trà của mình đi tong trong chốc lát. Thế mà còn phải chờ ngày vác chiếu ra tòa, để giải quyết sự vụ cùng ông chủ Queen Bee.
Đúng là Khánh Ly đã bị ong chích một mũi khá đau. Sẵn lời mời của ông Ngô Văn Cường, Khánh Ly bèn đầu quân cho Tự Do, sẵn sàng hát chung với “mặt trăng” Lệ Thu vì thù lao “cao ngất tầng khí quyển” cho bọn Queen Bee biết tay nhau. Báo chí thời ấy gọi hai nữ ca sĩ nói trên là mặt trời và mặt trăng, vì hai người không cùng đứng chung một nơi chứ chẳng có thù oán gì nhau. Trong ngày Lệ Thu tự phát hành cuốn băng nhạc của mình, khán giả ái mộ thấy Khánh Ly đứng bán giùm cho nữ ca sĩ này. Ông bầu Cường đã có công “nhốt được hai con gà trong một chuồng”, hóa giải sự hiểu lầm từ xưa do dư luận tạo nên (Kịch Ảnh).
Có lẽ năm 1971 là năm xui rủi của Khánh Ly khi phải bỏ sự nghiệp “bầu bì” ở Queen Bee, ra tòa lại còn mất hơn 100 băng nhạc Hát cho quê hương Việt Namkhi bị kẻ trộm đột nhập vào nhà riêng tại đường Trần Hưng Đạo lấy đi. Bù lại, đây chính là năm Khánh Ly tiếp tục phất sự nghiệp tại Tự Do, được bay nhảy thoải mái hơn là làm “bầu”. Ngoài ra, năm 1971 cũng chính là năm Khánh Ly biết thế nào là mùi vị của hạnh phúc gia đình. Nhưng “hồng nhan đa truân”, Khánh Ly vướng vào một ông chồng khiến cho nàng phải mang công mắc nợ và đi tù (?) (Theo bức thư ly dị chồng vào tháng 12.1974 đăng công khai trên báo trước 1975).
Tiếng hát liêu trai trở lại
Sau khi Khánh Ly rời Queen Bee thì người ta tưởng rằng phòng trà này sẽ tiêu điều ủ dột. Nhưng không, sau 10 năm trở thành bà trung tá tàu bay Ôn Văn Tài, lo phục vụ chồng con bỏ nghiệp cầm ca “mang tiếng hát cho người mua vui”, đột ngột nữ hoàng phòng trà Thanh Thúy trở lại hát ở Queen Bee vào sau tết 1971. Khi cô trở lại thì Queen Bee trở nên rực sáng đèn xanh đỏ, tím vàng, hấp dẫn giới mộ điệu Sài Gòn như thuở Khánh Ly và Thái Thanh, Phương Hồng Hạnh còn ngự trị.
Nhắc lại chuyện ngày xưa, khi bỏ hát để lập gia đình, Thanh Thúy đã để lại bao nhiêu sự tiếc nuối cho người ái mộ giọng ca nàng, kể cả những người yêu thầm trộm nhớ và biết nàng từ những ngày chập chững hát ở Anh Vũ và Đức Quỳnh. Một người trong số đó là kịch sĩ Nguyễn Long.
Thời đó ai cũng tưởng Nguyễn Long với Thanh Thúy “tình trong như đã” vì chàng kịch sĩ, kiêm đạo diễn này thường đến nhà thăm mẹ Thanh Thúy và viết kịch bản sân khấu về nàng. Nhưng theo Nguyễn Long đính chính trong hồi ký viết vào năm 1994, thì hai người không có gì với nhau, mặc dù giữa Nguyễn Long và mẹ Thanh Thúy rất thân tình. Tại Bệnh viện Đồn Đất, mẹ Thanh Thúy trút hơi thở cuối cùng khi bàn tay của bà nằm trong bàn tay của Nguyễn Long. Ông cho biết ông sử dụng hình ảnh của Thanh Thúy để làm chất liệu cũng như bóng dáng của Thanh Thúy để làm đối tượng cho 20 vở kịch, một cuốn phim và một số bài thơ. Một bộ phim mà những người vào tuổi như tôi bây giờ vẫn còn nhớ, đó là Thúy đã đi rồi - ca sĩ Minh Hiếu đóng vai Thúy - và những ca từ trong phim do chính Nguyễn Long đặt lời, nhạc Y Vân như sau: “Thúy ơi, Thúy đã đi rồi? Những ngày băng giá không tiếng cười/Thúy ơi, Thúy đã đi rồi? Biết làm sao cho hết thương nguôi/Đành đi tìm quên, trong cõi xa gần?Người yêu còn đâu, trong suốt cuộc đời…”. Bài hát này vô cùng sầu não, lộ đầy vẻ thất tình qua giọng ca tha thiết của Hùng Cường.
Và bây giờ, Thúy đã về đây dưới ánh đèn Queen Bee nhưng đã là một thiếu phụ đang viên mãn với hạnh phúc gia đình và sự nghiệp cầm ca. Tuy vậy, giọng hát nàng vẫn là giọng hát liêu trai “bay lên trời”.
Từ trái qua: Ca sĩ Phương Hoài Tâm, Phương Hồng Hạnh, Phương Hồng Ngọc, Phương Hồng QuếẢNH: T.L
“Lò” Việt Nhi của nhạc sĩ Nguyễn Đức đã đào tạo nhiều nữ ca sĩ cho phòng trà Sài Gòn lúc ấy.
Đặc biệt, như để tạo dấu ấn, tên của các nữ ca sĩ ấy đều bắt đầu bằng chữ Phương (chỉ trừ nữ ca sĩ Hoàng Oanh).
Phương Hồng Ngọc - Bé út của Việt Nhi
Cô tên thật là Nguyễn Thị Cẩm Hồng, dân Cần Thơ. Ông thân sinh của nữ ca sĩ này mang trong người mang 3 dòng máu: Việt, Hoa và Pháp. Từ nhỏ Cẩm Hồng đã ham mê văn nghệ, tập ca hát với năng khiếu trời cho. Rồi lên Sài Gòn, cô tham gia vào lò của nhạc sĩ Nguyễn Đức từ năm 12 tuổi.
Phương Hồng Ngọc là người nhỏ tuổi nhất trong ban Việt Nhi. Không những vậy, cô còn là thành viên của ban hợp ca Sao Băng nữ (để phân biệt với Sao Băng nam) cũng do Nguyễn Đức thành lập gồm Phương Hoài Tâm, Phương Hồng Hạnh, Phương Hồng Quế, Phương Hồng Ngọc, Phương Minh Châu, Phương Hồng Loan (vợ đạo diễn điện ảnh Lê Hoàng Hoa), Kim Anh (vợ nghệ sĩ cải lương Thành Được)...
Lúc hát trong lò Việt Nhi trên đài phát thanh, bài tủ của Cẩm Hồng là Em bé quênhưng đến với phòng trà, Phương Hồng Ngọc thích nhất bài Nước mắt mùa thucủa nhạc sĩ Phạm Duy. Phương Hồng Ngọc dù chỉ mới làm quen với không khí phòng trà từ đầu năm 1971 (năm 17 tuổi) nhưng rất dạn dĩ và khá già dặn kỹ thuật. Mỗi đêm cô phải chạy show đến bốn phòng trà. Ngoài ca hát, Phương Hồng Ngọc còn tham gia vào bộ phim Chiều kỷ niệm vì có gương mặt hao hao với Thẩm Thúy Hằng lúc nhỏ.
Một thời gian sau, Phương Hồng Ngọc trở thành vợ của kịch sĩ Ngọc Đức và có với nhau hai người con. Nhưng sau khi sang Mỹ định cư, hai nghệ sĩ này đã chia tay trong êm thắm.
Phương Hoài Tâm - Sơn ca vui hát
Cô gái mang tên Phương Tâm đến với ca hát thật tình cờ. Rất nhút nhát và sợ đám đông nên từ nhỏ cô không tỏ vẻ gì tha thiết với ca hát. Lúc nhỏ cô học đàn mandolin với nhạc sĩ Tùng Phương. Lúc ấy, nhạc sĩ Nguyễn Đức vẫn thường đến nhà bố mẹ Tùng Phương chơi, gặp Tâm và đề nghị “nữ ca sĩ con” này vào hát với ban Việt Nhi của ông.
Tên Phương Hoài Tâm của cô được chính thức ra đời từ khi nhạc sĩ Châu Kỳ giao cho cô trình bày nhạc phẩm Sao chưa thấy hồi âm của ông khi cô được 16, 17 tuổi. Phương Hoài Tâm là một gương mặt đẹp của làng ca sĩ, giống như một cô nữ sinh bẽn lẽn, tươi tắn và dịu mát. Cô được xem như một con sơn ca líu lo những điệu nhạc vui cho đời.
Năm 1969, Phương Hoài Tâm bắt đầu bước lên bục gỗ phòng trà, tuy nhiên không hát cố định cho phòng trà nào. Và sau đó, cô bắt đầu hát nhiều trên đài phát thanh và xuất hiện trên truyền hình trong những chương trình của các nhạc sĩ Phạm Mạnh Cương, Châu Kỳ, Trần Thiện Thanh, ngoài một chương trình riêng của mình là Sơn Ca. Thêm vào đó, Phương Hoài Tâm còn có mặt trong các chương trình đại nhạc hội của Duy Ngọc, Châu Kỳ... và được biết đến với một số nhạc phẩm như Sơn nữ ca, Đò chiều, Thiên thai (song ca với Hoàng Oanh)...
Phương Hồng Hạnh trong tà áo dài
Cô ca sĩ tên thật là Dương Thị Hạnh, có một đôi mắt to, tròn ngơ ngác trên gương mặt có hai đôi má bầu bĩnh. Cô có thân hình mảnh mai như dáng vẻ của một cô học trò, thế mà mỗi đêm Phương Hồng Hạnh phải chạy show cho bốn nhà hàng lớn: Đêm Màu Hồng, Tự Do, Maxim’s, Queen Bee, cho thấy cô cũng là một giọng ca được ưu ái.
Hạnh sinh tại Hà Nội vào năm 1951. Khi vào nam, năm 1962, Hạnh xin gia nhập vào lò của nhạc sĩ Nguyễn Đức, đến năm 1965 thì hát ở các đại nhạc hội và chương trình truyền hình. Khoảng thời gian của những năm cuối thập niên 1960, trên truyền hình, người mê nhạc thường được xem một cô ca sĩ hát giọng bắc nhỏ nhẹ, luôn mặc áo dài trắng nữ sinh. Năm 1970, Phương Hồng Hạnh mới bắt đầu bước vào thế giới phòng trà và vẫn lên bục, ra mắt khán giả trong những chiếc áo dài tha thướt, rất phù hợp với những bản nhạc của Đoàn Chuẩn - Từ Linh mà nàng hay hát.
Phương Hồng Quế - “Ti vi chi bảo”
Báo chí thời ấy thường gọi Phương Hồng Quế bằng biệt danh mỹ miều như: “Ti vi chi bảo” vì ngoài việc hát ở phòng trà Hội quán nghệ sĩ (Vũ Duy thực hiện) và phòng trà Nam Đô (Bảo Thu), nàng cũng thường xuyên xuất hiện trên ti vi.
Xuất môn cùng thời với các nàng Phương, Hồng Quế có lối ăn diện rất Tây song nét mặt cô lại ngây thơ, tạo cho Quế một vẻ “đàn bà trẻ con” đáng yêu. Quế thích hát những bài tình ca của Trường Sa và Văn Phụng. Phương Hồng Quế thành danh với bài Phố đêm khi chưa tròn 20 tuổi bằng một dịp may khi nhạc sĩ Tâm Anh vừa có nhạc phẩm này đang muốn các cô ca sĩ họ Phương trình bày trên sóng phát thanh và truyền hình ở Sài Gòn. Sau đó, Phương Hồng Quế còn trình bày thành công nhạc phẩm Chuyện tình không suy tư cũng do Tâm Anh sáng tác.
Mặc dầu vậy nàng cũng phải rất suy tư khi dính vào xì căng đan chuyện tình với ca sĩ Thanh Phong (ban Sao Băng cùng với Duy Mỹ, Phương Đại) là người đang đùm đề vợ con. Có lần, không biết đùa hay thật. Thanh Phong đã hăm dọa Phương Hồng Quế rằng sẽ bắn nàng nếu nàng phụ rẫy.
Hai nữ hoàng bolero Thanh Tuyền - Giao Linh
Ca sĩ Thanh Tuyền và Giao LinhẢNH: TƯ LIỆU
Phòng trà Nam Đô là nơi những giọng hát vang danh hằng đêm thể hiện tài năng như Thanh Tuyền, Giao Linh, Mai Lệ Huyền, Phương Hồng Quế...
Nam Đô, dưới sự chăm sóc của ông bầu - nhạc sĩ Bảo Thu kiêm ảo thuật gia Nguyễn Khuyến, được xem là phòng trà có nhiều ca sĩ nhất Sài Gòn. Ra đời vào tháng 3.1970, lò nhạc của Bảo Thu đã biến hóa nhiều cô gái trở thành ca sĩ. Phòng trà này trước đây nằm ở khu cao ốc trên đường Nguyễn Thái Học, góc Phạm Ngũ Lão.
Những cô gái có giọng hát không đến nỗi nào có thể đến đây và sau một thời gian “thụ huấn” sẽ được giới thiệu ra mắt tại phòng trà này. Thay vì bắt đầu giới thiệu ca sĩ chính ra hát, từ khoảng 20 giờ đến 20 giờ 45, Bảo Thu dùng cây đũa thần của mình để tạo ra những “mầm non” văn nghệ. Sau đó là “giờ nhạc yêu cầu”, ca sĩ trẻ sẽ hát những nhạc phẩm theo yêu cầu của khán giả.
Giọng ca đến từ Đà Lạt
Nữ ca sĩ Thanh Tuyền là giọng ca của đĩa nhựa và băng nhạc. Nhưng với phong trào nữ ca sĩ hát phòng trà thì Thanh Tuyền cũng không thể bỏ lỡ cơ hội. Giọng ca của cô thuộc loại hàng hiếm trong những nhạc phẩm của thể loại bolero, tango, boston. Cô có một giọng ca mà báo chí cho là mang âm hưởng thuần túy VN.
Thanh Tuyền là con gái của xứ đồi thông hai mộ. 17 tuổi, cô làm một chuyến về Sài Gòn cho biết sự tình rồi dừng lại hẳn ở thành phố ồn ào, là đất đứng cho biết bao giọng ca tài năng. Giọng ca của Thanh Tuyền đến với công chúng vào năm 1965, bắt đầu từ nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông.
Số là vào một ngày cuối năm 1964, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, Giám đốc Hãng đĩa Continental, tình cờ dự một buổi trình diễn văn nghệ của Trường nữ trung học Bùi Thị Xuân (Đà Lạt). Trong buổi diễn này, ông giám đốc hãng đĩa đã phát hiện ra giọng ca đặc sắc của cô nữ sinh đệ tam có cái tên Thanh Tuyền. Nguyễn Văn Đông đã đến nhà Thanh Tuyền, thuyết phục cha mẹ cho phép cô về Sài Gòn thu đĩa nhựa. Và rồi Thanh Tuyền cắt đứt chuyện đèn sách để đi vào sự nghiệp cầm ca năm 17 tuổi. Cô là giọng ca nữ đầu tiên thành công từ đĩa nhựa với bài Dấu chân kỷ niệm của Mạnh Phát, chứ không phải bằng con đường hát trên đài phát thanh, đại nhạc hội hay phòng trà (lúc đó chưa có ti vi).
Tuy nhiên, đến năm 1966, Thanh Tuyền mở rộng địa bàn hoạt động, làm quen với thế giới phòng trà. Tên tuổi của “một dòng suối xanh” được viết trong những tờ giới thiệu chương trình của bốn phòng trà lớn ở Sài Gòn trong đó có Nam Đô, cho tới khi các phòng trà này tạm đóng cửa mặc dù có nhận định rằng gương mặt của cô không phù hợp với ánh đèn phòng trà. Với Thanh Tuyền, hát thu đĩa nhựa để kiếm sống nhưng hát trong không khí phòng trà thanh lịch mới là sự thích thú.
Nữ hoàng sầu muộn
Đó là biệt danh giới báo chí Sài Gòn ngày trước “phong” cho nữ ca sĩ mang tên thật là Đỗ Thị Sinh. Giao Linh có dáng gầy cao và gương mặt rất, rất buồn.
Giao Linh là công chức của Hãng máy bay Air VN. Đại diện cho “hãng xe đò Giao Chỉ” (cũng là biệt danh báo chí đặt cho Air VN) tham dự một chương trình văn nghệ quần chúng và “hậu quả” cô nhận một cái huy chương vàng. Cô Sinh bước vào làng ca nhạc từ đấy khi nhạc sĩ Thu Hồ nghe được giọng hát của nàng, mời nàng thu giọng cho Hãng đĩa Continental, sau đó Hãng Continental ký hợp đồng thu đĩa độc quyền giọng ca Giao Linh trong 3 năm với nhiều nhạc phẩm bolero. Sau khi hết hạn hợp đồng, Giao Linh tiếp tục cộng tác với các hãng đĩa khác cũng như ra mắt băng nhạc Sơn Ca 6 với giọng ca của riêng mình.
Giao Linh sinh ra trong một gia đình gồm 7 anh chị em nhưng không ai tham gia nghệ thật, chỉ có cô đam mê ca hát từ nhỏ. Mẹ vẫn lén mời thầy về dạy nhạc cho cô dù người cha không đồng ý. Giao Linh là ca sĩ có tính tình dễ thương, ngoan đạo, không hợm hĩnh. Chỉ có điều, khoảng năm 1972 cô dính vào cuộc tình với nha sĩ - thiếu tá Ph., người đã có vợ con và bố mẹ ông này đăng bố cáo trên báo: “Không chấp nhận ai ngoài người vợ của ông Ph. là con dâu”... Có phải chăng, vì vậy mà gương mặt, với mái tóc không thay đổi, Giao Linh luôn phảng phát nét sầu mộng?
Mai Lệ Huyền: Giọng ca tủ lạnh
Mang hai dòng máu Thái - Việt, sinh ra ở Lào nhưng nổi tiếng ở VN, bao nhiêu yếu tố đó cũng đủ nói lên Mai Lệ Huyền (ảnh) là người... thấm đượm tinh thần “ín-tẹc-ná-sờn-nồ” (international - quốc tế). Nàng Kim Cúc, trong ban văn nghệ thông tin tỉnh Bình Long cũ (nơi xuất thân của đàn chị Minh Hiếu) mang biệt danh “Cúc lủi” vì khi hát cứ lủi tới trước, có một giọng ca khan khan, khá lạ tai, đi đứng nhún nhảy. Sau này nàng “Cúc lủi” được gọi là “Mai Lệ Huyền tủ lạnh”, với cách ăn mặc mát mẻ, da thịt bốc lửa cùng mái tóc cắt ngắn con trai, gương mặt nồng nàn. Mỗi khi Mai Lệ Huyền ra sân khấu thì không khí gần như “náo loạn” với những bản nhạc kích động trong và ngoài nước. Nàng hát nhạc ngoại cũng được, nhạc Việt cũng OK.
Ngoài giờ hát ở phòng trà Nam Đô, Mai Lệ Huyền còn thu đĩa, hát trên ti vi với Hùng Cường. Thời ấy, hai tên tuổi Hùng Cường và Mai Lệ Huyền thường đi đôi với nhau khi trình diễn những bản nhạc giai điệu mạnh như twist, à go go, soul... Có với nhạc sĩ Trần Trịnh (tác giả bài Lệ đá) một con, sau đó chia tay và sống với đạo diễn Trần Công Vịnh - một người mà nàng cho là “thần tượng sẵn sàng hy sinh sự nghiệp cho tình yêu”.
Ban nhạc The Strawberry Four. Từ trái qua: Đức Huy, Tùng Giang, Tuấn Ngọc, Billy ShaneẢNH: T.L
Nếu viết về phòng trà Tự Do mà chỉ nói đến Khánh Ly và Lệ Thu thì đúng nhưng chưa đủ, bởi ở đây còn những giọng ca trẻ có khán giả riêng của mình.
Một bài trên báo Kịch Ảnh cách đây hơn 45 năm đã viết về Tuấn Ngọc như sau: “Tiếng hát làm ngây ngất người nghe từ đàn ông, đàn bà người VN hay ngoại quốc... đều mê tiếng hát của Tuấn Ngọc”.
Tuấn Ngọc tên thật Lữ Anh Tuấn, sinh năm 1947 tại Đà Lạt, là con thứ trong một gia đình nghệ sĩ. Bố là nghệ sĩ Lữ Liên của ban AVT, chị là Bích Chiêu. Các em như Khánh Hà, Thúy Anh, Anh Tú đều ở trong ban nhạc Blue Jets hằng đêm hát ở phòng trà Tự Do. Tuấn Ngọc chập chững đến với ca nhạc từ năm 1952 trong ban ca nhạc thiếu nhi Đà Lạt. Sau đó, anh theo bố về Sài Gòn, có mặt trong ban thiếu nhi Đài phát thanh Sài Gòn dưới sự hướng dẫn của bố.
Khi Sài Gòn có phong trào thành lập những ban kích động nhạc chơi trong những club Mỹ, Tuấn Ngọc tuần tự hợp tác với những ban nhạc The Black Caps, Blue Jays, The Strawberry Four, The Revolution. Sau nhiều năm hợp tan, tan hợp, anh quyết định hát độc lập, không thành lập ban nhạc nữa, không nương tựa vào bè bạn nữa.
Đến bây giờ, có lẽ Tuấn Ngọc nhận thấy đây là một quyết định đúng của mình. Lúc đi diễn chung với Billy Shane, Đức Huy, Tùng Giang trong The Strawberry Four, Tuấn Ngọc là một gương mặt... chìm lỉm. Billy Shane với gương mặt giống người nước ngoài, ngộ nghĩnh hay giữ giọng hát chính, Tùng Giang sôi nổi rộn ràng với những màn solo trống cùng những nhịp điệu và sắc thái mới mẻ, Đức Huy thì trắng trẻo, đẹp trai còn Tuấn Ngọc chẳng có sắc thái gì nổi bật...
Ca sĩ Ngọc Anh
Có dịp gặp danh ca này tại một quán cà phê ở TP.HCM, anh bộc bạch về quan niệm ca hát của mình: “Tôi thích nhất một câu nói của người Mỹ là Be yourself - hãy là chính anh, trong nghệ thuật và tôi nghĩ trong lĩnh vực nào cũng vậy. Hãy là chính mình chứ không trộn lẫn với người khác. Nếu anh ra đời sau, mà không tìm được cách để “là chính mình” thì anh không thành công được”. Việc rời khỏi các ban nhạc, đứng một mình, theo anh, trong nghệ thuật cũng có sự may mắn. Anh nói: “May mắn là lúc đó không có ai hát kiểu như tôi nên mới có Tuấn Ngọc ngày nay và bây giờ cũng vậy, không ai hát như tôi. Nếu một số ca sĩ trẻ bây giờ, có tài, hát giống tôi chắc tôi đi đứt”. Ký giả Quỳnh Như trong báo Kịch Ảnh đã nhận định về sự “may mắn” của anh như sau: “Tuấn Ngọc thường hát nhạc ngoại quốc, với cái giọng đặc biệt đàn ông mà một vài người gọi là Jack Jones”. Nghe lại “mặt bằng” các ca sĩ nam hát nhạc ngoại quốc lúc ấy, quả là Tuấn Ngọc có một giọng hát rất lạ.
Tuấn Ngọc kể cho chúng tôi nghe khi bắt đầu tập hát riêng, mỗi bài anh phải tập hát theo băng nhạc nước ngoài, rồi thu băng lại để nghe: “Trời ơi, sao mà tôi hát dở tệ, chịu không nổi. rồi tôi tập hát lại, nghe lại đến khi nào tôi có cảm giác rằng nghe được mới thôi...”.
Luyện tập, luyện tập suốt ngày với máy Akai, nghe và hát, hát và nghe đến lúc trời cũng không phụ lòng người. Sự kiên nhẫn của anh đã được đền đáp bằng một giọng ca “đam mê, khắc khoải, êm đềm, nồng nàn, mời gọi”. Một bài viết trên báo Kịch Ảnh đã ca ngợi chàng ca sĩ 25 tuổi: “Trên sân khấu, sự xuất hiện của Tuấn Ngọc bao giờ cũng đẹp và như có một cái gì trang trọng”.
Tuy nhiên, vào những năm đó, Tuấn Ngọc lại dính vào xì căng đan cùng với Đức Huy đánh Trường Kỳ tại nhà Jo Marcel khi “vua nhạc trẻ” này viết bài phê bình ban nhạc của họ...
Hai giọng ca nữ được ưa chuộng
Nhiều người không biết Khánh Ly có một cô em ruột cũng là một ca sĩ tên Ngọc Anh. Ngọc Anh không đi theo con đường hát nhạc trữ tình của chị, mà hướng theo con đường nhạc trẻ. Sau một năm hát ở phòng trà Tự Do, Ngọc Anh tiến bộ vượt bậc và thoát khỏi ảnh hưởng là “em ruột của Khánh Ly”, khi chuyên trình bày nhạc nước ngoài. Ngoài giọng ca, Ngọc Anh còn được yêu thích bởi có ngoại hình bắt mắt. Sau khi đi Mỹ hát cùng chị và Ngọc Minh, về Sài Gòn (năm 1971) Ngọc Anh biến mất khỏi phòng trà Tự Do vì “chồng không cho đi hát phòng trà nữa”. Các nữ ca sĩ phòng trà, khi lấy chồng thì coi như... xong!
Còn Uyên Phương bắt đầu con đường ca hát tại các club Mỹ ở các căn cứ Long Bình, Biên Hòa, sau đó “nhập tịch” vào phòng trà Tự Do để hát cho người Việt nghe, vì “hát cho tụi Mẽo nghe chán lắm”. Khi hát ở phòng trà dành cho dân Sài Gòn, giọng ca Uyên Phương như được chắp cánh và khán giả cảm tưởng giọng ca Uyên Phương phảng phất khuôn thước của giọng ca Bạch Yến những năm xưa.
Đang hát ngon trớn, Uyên Phương bỗng dính vào vụ xì căng đan với ông hoàng Ả Rập nào đó. Cô bỗng nhiên bỏ hát phòng trà và biến mất, đến năm 1971 mới quay trở lại và cũng vẫn hát cho Tự Do ngày cũ. Xuất hiện trên ti vi với bản nhạc Thung lũng hồng của Phạm Mạnh Cương, tiếng hát của Uyên Phương vẫn như thấm đượm một nỗi buồn của bầu trời mùa đông nào đó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét