Thứ Tư, 17 tháng 5, 2017

Chuyện về bốn vị thành hoàng thời Tiền Lê ở tổng Đại Từ, Văn Lâm

Vào triều vua Lê Đại Hành (941-1005), 9 thôn của tổng Đại Từ, huyện Văn Lâm thờ bốn vị thành hoàng làng là Lý Đài Công, Đặng Mộ Nương, Lý Trâu Công, Lý Quốc Công. Tư liệu Hán Nôm hơn 160 trang lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm và câu đối, văn bia hoành phi ở địa phương khẳng định: Các vị bản cảnh thành hoàng có công lao lớn với vua, với dân, xứng với các chữ: “Sống là trung thần, hóa là linh thần”, danh thơm trường tồn cùng sông núi, đạo đức sáng cùng mặt trăng, mặt trời. 
 
Thần tích kể, thời 12 sứ quân có gia đình ông Lý Miên (Lý Công), vợ là Nguyễn Thị Nhân tiên tổ bản quán ở Long Hưng, Thái Bình; mấy đời trước gia đình họ Lý lánh nạn đến trang Xuân Phao, Văn Ổ, thuộc xã Lộng Đình, tổng Đại Từ, huyện Tế Giang, phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc. Ông bà làm thuốc chữa bệnh cứu người, tự nguyện làm thủ tự (trông coi chùa). Ông bà thường phát tâm công đức, khuyên mọi người làm việc thiện, tôn tạo cảnh chùa. Chỉ buồn nỗi gia cảnh chưa người nối dõi. Cùng khi ấy có nhà họ Đặng ở thôn Cự Đình, xã Lộng Đình tuổi cao mà chưa sinh nở. Hai gia đình thành tâm đến chùa Tháp Cục Thiền của làng lễ Phật cầu tự. Cảm nghĩa, trời cho người của thiên đình đầu thai vào hai gia đình họ Lý, họ Đặng. Giờ Dần ngày mồng 4 tháng Giêng năm Giáp Thìn, hai nhà cùng sinh con. Nhà họ Lý sinh con giai, hình hài uy nghi. Nhà họ Đặng sinh con gái, mặt sáng như gương, mắt đẹp như sao trời. Con giai, con gái lên 3 tuổi, cha mẹ đặt tên con giai là Đài Công, con gái là Mộ Nương. Đến năm Bính Ngọ, giờ Dần, ngày 3 tháng 3, bà Nhân sinh tiếp hai con giai, mặt vuông, tai lớn, tay dài qua gối. Lên 5 tuổi, cha mẹ đặt tên anh là Trâu Công, em là Quốc Công. Hai người đều có năng khiếu về văn, võ. Ở nhà thì hiếu thảo, ra ngoài thì kính nhường, kỳ tài trong việc tĩnh, việc động. Ba anh em theo thầy học kinh sách hơn 10 năm. Đài Công và Mộ Nương đến tuổi trưởng thành được cha mẹ hai nhà cho kết duyên chồng vợ. Ngày 17 tháng 5 năm Giáp Ngọ, cha mẹ qua đời. Sau ba năm để tang, gia tư khánh kiệt. Đài Công và hai em được bố mẹ Mộ Nương đón về nuôi dưỡng che chở. Được 2 năm thì có loạn 12 sứ quân. Đứng lên dẹp loạn 12 sứ quân là Đinh Tiên Hoàng (tên thật là Đinh Bộ Lĩnh, quê ở động Hoa Lư, Ninh Bình). Sau khi lập ngôi đế, Đinh Tiên Hoàng sai Đại tướng quân Nguyễn Bặc về đạo Tế Giang, phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc tìm địa điểm quân sự. Nguyễn Bặc nghỉ ở Lộng Đình một đêm. Nghe tin Nguyễn Bặc nghỉ ở làng, ba anh em Đài Công mang hơn 30 nghĩa binh là dân các thôn Lộng Đình, Trình Xá, Cát Lư do mình tuyển chọn đến xin làm gia thần. Nguyễn Bặc rất mừng nói, trời giáng anh tài bảo vệ nước, giúp đỡ dân, sự nghiệp của nhà Đinh nhất định thành công. Ba anh em về nhà lạy bố mẹ vợ rồi đem binh mã theo Nguyễn Bặc về Hoa Lư. Đinh Tiên Hoàng thử tài, biết các ông là người tài năng, mưu lược xuất chúng liền giao chức vụ Chưởng lĩnh tả đạo binh giới kiêm Tham tán mưu sự. Vua sai ba ông chỉ huy hùng binh thủy bộ diệt trừ các sứ quân. Các sứ quân đều đầu hàng sau những trận đại chiến. Đất nước trở lại thái bình. Đinh Tiên Hoàng lên ngôi Hoàng đế mở yến tiệc, phong thưởng cho bề tôi. Đài Công làm Thái bảo tiền quân, Châu Công làm Thái bảo trung quân, Quốc Công làm Thái bộc hậu quân. Hoàng đế phong hiệu cho ba ông là Đệ nhất Châu Quốc, Đệ nhị Châu Quốc, Đệ tam Châu Quốc; thưởng kim tiền, gấm vóc hơn 50 cân, cho về quê vinh qui bái tổ. Ba ông về quê lễ bái cung lăng, chùa miếu, tiên tổ, cha mẹ. 
 
Được ba, bốn năm thì bố mẹ vợ từ trần. Đệ Nhất Công xin vua về lo tang. Vua ban tặng tiền, vải làm việc hiếu. Lo xong việc tang, ông về triều đình, được Vua thăng chức cai quản châu Hoan. Được năm, sáu năm, Vua vời về triều giao chức Trưởng ấn Thái tể (Binh Bộ Thượng thư), chức Thái bộc (Lại Bộ Thượng thư); giao Nguyễn Bặc làm Định quốc công, Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân. Sau 3 tháng thì xảy ra vụ án Đỗ Thích giết vua. Ngay hôm đó, ba ông cùng Nguyễn Bặc chỉ huy quân vây bắt và chém Đỗ Thích, lập con thứ là Toàn (Tuyền) lên ngôi. Sau vị vua này bị Lê Hoàn phế, gọi là Phế Đế. Ba ông cáo bệnh xin về quê chữa bệnh, không động đến việc nước. Triều đình cho các ông về quê. Triều đình phong cho ba ông tước Đại vương, ban sắc lệnh lập sinh từ thờ cùng bài vị Tam vị đại vương. Về quê, ba ông thường tới nơi sơn thủy hữu tình vui với cầm kỳ thi tửu, hoặc khai yến tiệc dưới trăng, đào giếng, cày ruộng, làm điều nhân nghĩa nơi xóm làng để lưu ân trạch. Tuy vậy, trong lòng vẫn oán giận Lê Hoàn tư thông với Hoàng hậu, lấn át ngôi vương. Ba ông hưởng ứng hai bậc lão thần là Nguyễn Bặc, Đinh Điền đem năm ngàn quân chia làm 2 đạo thủy bộ tiến về kinh sư diệt Lê Hoàn. Các ông thúc quân đại chiến với Lê Hoàn hơn 10 trận, biết không thắng được liền dẫn quân về quê, đóng trong chùa thôn Xuân Phao, Văn Ổ. Sau các ông lại cho nghĩa binh các thôn xã về quê, động viên, ban thưởng quân tướng, phủ dụ nhân dân. Quân Lê Hoàn đến vây chùa. Ba ông biết không địch nổi, bèn cưỡi tuấn mã, cầm kiếm phá vòng vây chạy thẳng đến sông Tiểu Giang, tức là Cầu Châu thuộc địa phận thôn Văn Ổ, xã Lộng Đình. Sông rộng, lại không có cầu nên ngựa chùn chân. Quân Lê Hoàn đuổi đến vây bốn mặt, ba ông hóa ngay ở khu đất bên sông. Phu nhân hay tin chồng đã hóa bèn rút gươm tự vẫn. Lúc đó mưa to gió lớn, trời tối sầm. Sau ít phút, trời sáng, quang mây, tưởng như được chứng kiến một tinh thần bất tử thăng thiên. Lê Hoàn tới nơi thì thân ba ông đã lạnh, máu còn ri rỉ nơi ven sông. Lê Hoàn bật khóc gọi: “Thực cảm thương, cùng đồng liêu sao phụ nghĩa?”. Vừa ngưng lời, Lê Hoàn bỗng thấy mặt ba ông đỏ hồng, mở mắt, đứng lên chỉ vào mặt mình mà mắng, tiếng như sấm. Lê Hoàn hoảng hốt ngất xỉu. Tiếp đó trời đất lại tối sầm, nổi mưa bão, cát đá bay, quân sĩ hôn mê. Lê Hoàn tỉnh lại than: “Ta phụ ba ông, chẳng phải ba ông phụ ta, đức trung nghĩa của ba ông, từ thiên cổ đến nay ít có. Việc đã rồi, có hối hận cũng không làm lại được”. Lê Hoàn truyền lệnh cho dân chúng ngay hôm ấy đắp mộ, làm lễ an táng ba ông và Đặng Mộ Nương ở Văn Ổ theo nghi thức thiên tử; ban vàng, lụa, gấm vóc, lập đền miếu thờ cúng. Dân làng Xuân Phao, Văn Ổ lập đền thờ ở lăng mộ an táng. Bảy trang của Lộng Đình cùng Trình Xá, Cát Lư được phụng thờ đền nơi lăng mộ.
Trải qua các triều vua Lý, Trần, bốn vị đều linh ứng “hộ quốc cứu dân - giúp nước cứu dân”, được các vị vua ban tặng mỹ tự, quy định nghi thức tế lễ. 
 
Đình, miếu thờ bốn vị thành hoàng làng ở các thôn thời Tiền Lê thuộc tổng Đại Từ, huyện Văn Lâm, nay là các thôn Văn Ổ, xã Đại Đồng, thôn Trịnh Xá (xưa là Trình Xá), thôn Cát Lư (Cát Con) xã Chỉ Đạo, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Di tích còn lưu giữ nhiều cổ vật như bia đá, kiệu rước 24 người khiêng, bản thần tích chép công trạng bốn vị thành hoàng làng, những câu đối hoành phi lưu truyền tự cổ. Đình thôn Trịnh Xá được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Đình thôn Cát Lư còn giữ được gần như nguyên vẹn kiến trúc từ khi dựng đình năm 1915. Lễ hội hàng năm tổ chức ngày 4 tháng Giêng ở các thôn vẫn linh thiêng và đầy chất trình diễn sử thi. Chính quyền và người dân địa phương vẫn bảo lưu được những quy định về tế lễ, lễ vật và những trò chơi dân gian trong ngày hội làng. 
 
 Đặng Văn Lộc

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét