Trù Sơn (Đô Lương, Nghệ An) là nơi duy nhất làm ra các loại nồi bằng đất ở xứ Nghệ, do vậy nơi đây còn được gọi là làng “Nồi đất”. Nhắc đến Trù Sơn, người ta nghĩ ngay đến cái nôi của nghề gốm xứ Nghệ.
Theo nhiều bậc cao niên ở Trù Sơn thì nghề làm nồi đất ở đây xuất hiện từ thời nhà Trần, do một công chúa con vua Trần truyền dạy cho người dân trong thuở khai hoang lập đất.
Người Trù Sơn ngày trước ai sinh ra cũng sớm quen với nghề gốm. Để có đất làm gốm ưng ý, người dân ở Trù Sơn thường phải xuống xã Nghi Văn (huyện Nghi Lộc) hoặc lên tận Sơn Thành (Yên Thành) mới chọn được đất thích hợp. Thời xa xưa, người dân phải dùng đôi quang gánh vượt quãng đường dài 7-10 cây số mới đưa được đất về, cơ cực như vậy nên người dân Trù Sơn gọi là “nghề bán xương, nuôi thịt”.
Cái nôi nghề gốm xứ Nghệ
Gốm Trù Sơn có những nét độc đáo riêng. Theo nhiều người làm gốm lâu năm thì gốm ở Trù Sơn có lẽ là loại gốm còn giữ được những nét cơ bản nhất của gốm cổ. Sản phẩm gốm ở đây dù không sặc sỡ, bắt mắt và tuy nhẹ, mỏng nhưng khá cứng. Điều khiến nhiều người dân ưa chuộng những chiếc nồi đất ở Trù Sơn chính là khi sử dụng sản phẩm này để đun nấu thức ăn hoặc nấu thuốc đều giữ nguyên được hương vị vốn có của nó! Thậm chí, người làm gốm ở đây còn cho biết người ta còn dùng nồi đất của Trù Sơn để nấu vàng.
Công đoạn tạo nên một sản phẩm của làng gốm Trù Sơn cũng khá đơn giản. Đất đã nhồi kỹ sẽ được cho lên bàn xoay để tạo ra những hình dáng thô sơ ban đầu của những chiếc nồi, chiếc siêu. Khi đã làm xong phần thô, những chiếc nồi sẽ được bàn tay khéo léo của người thợ gọt lại cho thật trơn và đem đi phơi nắng, sau đó sẽ được đưa vào lò nung. Để nung gốm, người ta thường đắp những lò nung ngoài trời, không hề có mái che và được đắp rất đơn giản. Nung gốm là khâu quan trọng nhất quyết định đến thành công và chất lượng của sản phẩm gốm. Một mẻ nung gốm như như vậy được khoảng 250-300 chiếc, sau khi được xếp vào trong một cái lò hình tam giác xây bằng đá ong, gốm được nung bằng lá thông, bên ngoài có một lớp rơm để giữ nhiệt. Nung liên tục suốt bốn đến năm tiếng đồng hồ, mẻ gốm sẽ hoàn thành. Tuy nhiên, để gốm chín đều người thợ phải biết cách “xem lửa” để biết thời điểm nào là cần phải dừng nung. Nhưng nhược điểm chính của những lò nung gốm ngoài trời là gặp trời mưa to, nồi đất hỏng thì người dân làm gốm đành chịu.
Những năm 1975 trở về trước, đó là thời kỳ hưng thịnh nhất của làng gốm Trù Sơn. Khi ấy nhà nào ở Trù Sơn cũng làm gốm nên đi khắp làng khắp xóm người ta đều thấy một màu gốm đỏ au. Những chiếc nồi đất đầy đủ kích cỡ như chiếc niêu kho cá, siêu sắc thuốc… là những sản phẩm có tiếng của nghề gốm ở Trù Sơn. Ngày đó, nồi đất Trù Sơn không những được người tiêu dùng trong nước biết đến mà còn xuất sang cả Trung Quốc.
Là nghề sinh nhai và có tiếng tăm lâu đời ở làng nên thanh niên trai tráng bất cứ nơi nào muốn làm rể ở Trù Sơn thì đều phải qua được một vòng sát hạch, đó là giã nhuyễn được một nắm đất để làm gốm, nếu không đạt yêu cầu thì giấc mộng làm rể coi như tan biến!
Hẩm hiu nghề làm nồi đất
Nhưng giờ, thời hưng thịnh đâu còn. Chúng tôi tìm về xã Trù Sơn vào một ngày đầu tháng 10, trời khá oi nóng. Đi dọc trục đường chính từ đầu đến cuối xã vẫn không thấy một hoạt động nào để thấy được đây là nơi có nghề gốm truyền thống lâu đời. Phải hỏi dò mãi, chúng tôi mới tìm đến được những hộ làm gốm còn rơi rớt nằm khuất sâu trong từng con ngõ nhỏ.
Chúng tôi ghé thăm một gia đình làm gốm và may mắn gặp được cụ bà Phạm Thị Hoàng (74 tuổi) ở xóm 11, Trù Sơn đang tỉ mẩn tạo nên chiếc nồi đất. Những người làm gốm ở đây cho biết cụ Hoàng là người cao tuổi nhất và là người thợ lành nghề nhất ở làng gốm Trù Sơn. Cụ Hoàng bắt đầu làm quen với nghề gốm đã hơn 50 năm nay, tuy gia đình cụ đã bỏ nghề gốm từ bốn năm qua và dù tuổi đã cao, cụ Hoàng vẫn đi làm gốm thuê và cũng để góp phần giữ lại nghề truyền thống bao đời của làng. Mỗi ngày như vậy cụ làm được khoảng 20 chiếc nồi, siêu đất và nhận được… chỉ khoảng 50.000-60.000 đồng tiền công.
Ông Nguyễn Công Du, một trong 30 hộ làm gốm còn lại ở riêng xóm 10 (xã Trù Sơn), cho biết: “Nhà tui làm gốm đến đời tui là đời thứ 12 rồi nhưng chắc là sẽ dừng lại ở đây thôi vì con cái không ai theo nghề ni nữa!”. Nói rồi, ông chỉ ra chiếc xe thồ đã xếp đầy hàng trăm chiếc nồi, siêu đất đã nung chín đang chờ đẩy đi tiêu thụ. Ông Du đã cùng chiếc xe chở gốm của làng đi nhiều nơi, xa nhất tận Quảng Bình, Hà Nội. Giờ trong làng, những người đi bán nồi, siêu đất rong như ông cũng không nhiều.
Theo ông Du thì nguyên nhân chính khiến nghề gốm truyền thống của xã Trù Sơn dần mai một là vì hiện giờ sản phẩm nồi và siêu bằng đất nung không thể cạnh tranh được với nồi bằng nhôm, inox xuất hiện trên thị trường. Do đó, sản phẩm của họ làm ra giờ chẳng mấy ai mua hoặc có mua thì cũng với “giá bèo”, khó để những người làm gốm tồn tại nên họ đua nhau bỏ nghề. Nếu như ngày trước 100% hộ dân trong xã làm gốm thì hiện nay ở xã Trù Sơn số người làm gốm chỉ chiếm 5% dân số toàn xã và tập trung chủ yếu ở ba xóm 10, 11 và 13 với khoảng 100 hộ. Ở xã Trù Sơn hiện nay, đa phần những người còn theo nghề gốm là người già, phụ nữ trong làng. Họ thường dùng thời gian rảnh rỗi của mình làm gốm để kiếm thêm thu nhập.
“Năm 1992, nhiều nghệ nhân trong làng được một số chủ lò gốm ở Hà Nội thuê chở đất ra Hà Nội làm và triển lãm. Khi ấy người dân trong làng hồ hởi vì cứ hy vọng rằng nghề gốm của làng sẽ trở lại thời kỳ hưng thịnh như xưa, ai ngờ người ta thuê mình ra để “cắp nghề”!” - ông Nguyễn Hữu Võ (66 tuổi), ở xóm 11, xã Trù Sơn, nhớ lại. Thấy vậy, dân làm gốm trong làng chán ngán, ngày càng nhiều người quay lưng với nghề truyền thống.
“Tuy là nghề truyền thống lâu đời nhưng hiện giờ thu nhập của người làm gốm không được bao nhiêu, người ta thờ ơ và quay lưng với nghề cũng là lẽ thường tình. Thời gian trước, trên huyện cũng có cử người về xem xét nhưng việc bảo tồn và đưa công nghiệp vào làm gốm nhằm làm đa dạng mẫu mã và nâng cao giá trị sản phẩm gốm Trù Sơn thì chưa được thực hiện” - ông Nguyễn Đình Thắng, Bí thư chi bộ kiêm xóm trưởng xóm 11, xã Trù Sơn, cho biết.
DUY NGỢI-HOÀNG VIỆT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét