Thứ Năm, 7 tháng 6, 2018

Hồ Quý Ly và Trần Thủ Độ cùng cướp ngôi, đâu là nét khác biệt?


Trần Lý, Trần Tự Khánh, Trần Thủ Độ đặt nền móng cho nhà Trần - Ảnh: Internet
Trong lịch sử Việt Nam, có rất nhiều vị quyền thần uy lấn át vua và tạo ra những bước ngoặt cho lịch sử dân tộc. Trần Thủ Độ và Hồ Quý Ly là 2 nhân vật có nhiều nét rất tương đồng nhưng họ lại khiến lịch sử nước nhà đi vào quỹ đạo rất khác nhau.
Trước hết, họ cùng là ngoại thích đoạt ngôi tiền triều. Theo nghiên cứu mới đây, Trần Thủ Độ là con của Trần Quả, người là em của Trần Lý. Trần Lý là người có công phò nhà Lý trong lúc loạn lạc. Sau anh em Trần Thừa, Trần Tự Khánh (con của Trần Lý và là anh ruột của Hoàng hậu Trần Thị Dung) là người lãnh đạo gia tộc họ Trần chiến đấu bảo vệ vương triều Lý và dần nắm giữ vai trò như một nhiếp chính vương.
Sau khi Trần Tự Khánh mất năm 1223 thì Trần Thừa trọng dụng người em họ Trần Thủ Độ, người nắm giữ hết binh quyền thời đó. Sử chép: Tháng 12 (1223), Trần Tự Khánh mất. Dùng anh Hoàng hậu là Trần Thừa làm Phụ quốc Thái úy. Giáp Thân, năm thứ 14 (1224). Tháng 10 trở về sau, là triều Lý Chiêu Hoàng, niên hiệu Thiên Chương hữu đạo thứ 1. (Tống, năm Gia Định thứ 17). Dùng em họ của Hoàng hậu là Trần Thủ Độ làm Điện tiền chỉ huy sứ.
Chiêu Hoàng mới lên ngôi, Thái hậu Trần Thị cùng với em họ là Trần Thủ Độ ngày đêm bàn bạc mưu tính, xuống chiếu tuyển lựa con em các quan trong ngoài, sung làm nội sắc dịch thay phiên lên hầu. Thủ Độ thì tự nắm giữ các việc quân sự trong triều và ngoài lộ; dùng cháu họ là Trần Bất Cập làm Cận thị thự lục cục Chi hậu; Trần Thiêm làm Chi hậu cục; Trần Cảnh làm Chính thủ.
Và chỉ chưa đầy 2 năm sau, đến 1226 thì Trần Cảnh lên ngôi tức Trần Thái Tông. Như vậy, chỉ sau 3 năm cầm binh quyền thay Trần Tự Khánh thì Trần Thủ Độ đã thúc đẩy xong cuộc chuyển giao vương triều từ Lý sang Trần. Khâm Định Việt sử cương mục thông giám ghi nhận: "Thủ Độ là chú họ nhà vua. Nhà Trần lấy được thiên hạ đều do mưu mô của Thủ Độ; khi nhà vua mới được Chiêu Hoàng truyền ngôi cho, đã phong Thủ Độ làm Quốc thượng phụ, giữ việc cai trị thiên hạ, đến đây, lại hạ lệnh phong làm thái sư".
Binh quyền của Trần Thủ Độ lớn đến mức trong những năm đầu nhà Trần, người có uy quyền lớn nhất không phải Thái thượng hoàng Trần Thừa hay vua Trần Thái Tông mà chính là Trần Thủ Độ. Việc đầu tiên mà Trần Thái Tông làm khi lên ngôi là "Phong Trần Thủ Độ làm Thái sư, giữ tất cả việc hành quân đánh dẹp trong nước" và phải mấy tháng sau mới "Suy tôn bố đẻ là Thừa làm Thượng hoàng; mẹ là Lê thị làm Quốc Thánh hoàng thái hậu".
Cầm trong tay binh quyền như thế thì việc Trần Thủ Độ tìm cách tự mình lên ngôi thực là điều dễ dàng. Nhưng trên thực tế, Trần Thủ Độ chưa bao giờ có bụng cướp ngôi vua dành cho mình hay hậu duệ trực tiếp của mình.
Đại Việt sử ký toàn thư nhận xét: "Thủ Độ tuy không có học vấn, nhưng tài lược hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn. Thái Tông lấy được lấy được thiên hạ đều nhờ mưu sức của ông cả. Vì thế ông được nhà nước dựa cậy, quyền át cả vua. Bấy giờ có kẻ đàn hặc ông, vào gặp Thái Tông khóc mà nói rằng: "Bệ hạ còn thơ ấu mà Thủ Độ quyền át cả vua, xã tắc rồi sẽ ra sao?". Thái Tông lập tức lệnh xe ngự đến dinh Thủ Độ, bắt cả người đàn hặc ấy đem theo và nói hết những lời người ấy nói cho Thủ Độ biết. Thủ Độ trả lời: "Đúng như những lời hắn nói". Rồi lấy ngay tiền lụa thưởng cho người ấy".
Nếu Thủ Độ muốn biến Thái Tông thành vua bù nhìn thì rất dễ nhưng ông không bao giờ làm vậy kể cả khi có cơ hội rõ ràng. Có lần Thái Tông chán nản vì bị ép lấy công chúa Thuận Thiên (đang là vợ của người anh Trần Liễu) nên ban đêm, ra khỏi kinh thành đến chỗ quốc sư Phù Vân (quốc sư là bạn cũ của Thái Tông) trên núi Yên Tử rồi ở lại đó. Hôm sau, Thủ Độ dẫn các quan đến mời vua trở về kinh sư. Vua nói: "Vì trẫm non trẻ, chưa cáng đáng nổi sứ mạng năng nề, phụ hoàng lại vội lìa bỏ, sớm mất chỗ trông cậy, nên không dám giữ ngôi vua mà làm nhục xã tắc". Thủ Độ cố nài xin nhiều lần vẫn chưa được vua nghe, mới bảo mọi người rằng:"Xa giá ở đâu tức là triều đình ở đó". Thế rồi Thủ Độ cắm nêu trong núi, chỗ này là điện Thiên An, chỗ kia là các Đoan Minh, sai người xây dựng. Quốc sư nghe thấy thế bèn, tâu rằng: "Bệ hạ nên gấp quay xa giá trở về, chớ để làm hại núi rừng của đệ tư".
Hay lòng trung rõ nhất của Trần Thủ Độ thể hiện qua câu "chỉ là chó săn" của nhà Thái Tông. Ấy là khi Trần Liễu mất vợ dấy binh làm loạn ở sông Cái. Được 2 tuần, Trần Liễu tự lượng thế cô, khó lòng đối lập được, ngầm đi thuyền độc mộc giả làm người đánh cá, đến chỗ vua xin hàng. Thủ Độ thấy thế, vội vàng rút gươm, huy động quân đến vây thuyền rồng và quát: "Giết chết tên giặc Liễu!". Thấy thế vua lấy thân hình ra che và phân trần: "Phụng Càn Vương (Phụng Càn là tên hiệu cũ của Liễu hồi còn nhà Lý) đến hàng đầy!".
Thủ Độ tức lắm, ném gươm xuống sông nói: "Ta chỉ là con chó săn thôi, biết đâu anh em các người thuận nghịch thế nào?". Vua nói giải hòa, rồi bảo Thủ Độ rút quân về. Vì xã tắc nhà Trần, sau đó Trần Thủ Độ vẫn mở đường trọng dụng con trai của Trần Liễu là Trần Quốc Tuấn nắm giữ binh quyền. Sách sử sau hầu như không nhắc gì đến con cháu của Trần Thủ Độ.
Trần Thủ Độ có thể là quyền thần nhà Lý nhưng ông là khai quốc công thần nhà Trần. Tấm lòng trung thành của ông với người cháu họ Trần Thái Tông không có gì phải bàn cãi. Trần Trọng Kim đánh giá trong Việt Nam sử lược: "Thủ Độ là người rất gian ác đối với nhà Lý, nhưng lại là một người đại công thần của nhà Trần".
Hồ Quý Ly hơn Trần Thủ Độ ở học vấn, nhiều chữ nghĩa nhưng cách mà Hồ Quý Ly dùng để cướp ngôi nhà Trần cũng thủ đoạn tương tự. Khi nắm trong tay quyền lực, cài đặt hết thân tín vào triều đình thì Hồ Quý Ly cũng ép vua cũ đi tu, ép vua mới phải nhường ngôi. Nếu Thủ Độ ép vua Lý Huệ Tông đi tu ở chùa Chân Giáo thì Hồ Quý Ly ép vua Trần Thuận Tông đi tu ở đạo quán Ngọc Thanh. Sau để tránh hậu họa, cả Trần Thủ Độ và Hồ Quý Ly đều tận sát các cựu hoàng. Và nếu Trần Thủ Độ tìm cách ép Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Thái Tông thì Hồ Quý Ly ép cháu ngoại là Trần Thiếu Đế nhường ngôi cho mình.
Điểm khác cốt lõi của Trần Thủ Độ và Hồ Quý Ly trong vở kịch chính trị là Trần Thủ Độ không vơ ngai vàng về mình còn Hồ Quý Ly dù ngoài 60 vẫn phải ngồi lên ngai vàng thì mới thỏa tâm nguyện (trước khi nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương).
Lấy lăng kính của thời phong kiến mà soi thì người nhà Lý coi Trần Thủ Độ như dạng Tào Tháo hay Tư Mã Ý còn người nhà Trần lại nhìn Thủ Độ giống như Chu Công, Hoắc Quang (tấm gương điển hình về phò tá vua nhỏ thời đầu Tây Chu và Tây Hán). Riêng với Hồ Quý Ly nhìn đi nhìn lại thì đều giống như Vương Mãng cuối thời Tây Hán mà thôi.

Trần Thủ Độ chấp nhận mang tiếng ác vì cơ nghiệp nhà Trần 

Trần Thủ Độ bức tử Lý Huệ Tông - Ảnh minh họa
Nếu Trần Thủ Độ không làm triệt để thì tôn thất nhà Lý sau đó có cơ hội vùng lên cũng không để con cháu nhà Trần được sống yên ổn. Sau này, chúng ta cũng thấy được sự trả thù tàn khốc của con cháu nhà Lê dành cho nhà Mạc hay cụ thể hơn là Gia Long với con cháu nhà Tây Sơn khi giành lại được quyền lực.
Người có ảnh hưởng lớn nhất trong cuộc chuyển giao triều đại từ Lý sang Trần phải kể đến Trần Thủ Độ và hoàng thái hậu lưỡng triều Trần Thị Dung. Người được hưởng lợi nhất trong cuộc đổi ngôi này chắc chắn là vua Trần Thái Tông. Cho đến sau này, sử sách không hề có một lời chê bai Trần Thái Tông trong khi có rất nhiều lời phê bình cho Trần Thủ Độ.
Trần Thủ Độ thừa đủ khôn ngoan để hiểu các lời phê phán hậu thế dành cho các hành động của mình. Tuy nhiên, ông vẫn thực hiện mọi bước đi chính trị cứng rắn, thậm chí tàn khốc để bảo vệ cơ nghiệp nhà Trần. Thậm chí, có thể tin Trần Thủ Độ chấp nhận vơ vét hết tiếng xấu về mình để đảm bảo Trần Thái Tông giữ ngôi mà không hề có tì vết.
Khi Trần Thủ Độ nhận thấy có cơ hội đổi họ cho ngôi vua thì việc đầu tiên là lo sợ. Sử chép: Trần Cảnh lên 8 tuổi, đến phiên vào hầu, Chiêu Hoàng thấy Cảnh, đem lòng ưa thích, đêm đến, thường vời vào hầu, nô nghịch cười đùa. Trần Cảnh đem việc đó mách bảo Thủ Độ. Thủ Độ nói: "Nếu quả vậy, thì họ ta sẽ là họ nhà vua hay là cả họ sẽ bị giết sạch?".
Ngay trong câu nói này đã cho thấy Trần Thủ Độ nhắm Trần Cảnh làm vua nên mới dùng "họ ta" chứ không có bụng khác. Việc phản tặc cướp ngôi là phạm tội tru di tam tộc. Trần Thủ Độ đã quyết tâm liều 3 họ để đoạt ngôi nhà Lý nên hành động rất cẩn thận và dứt khoát. Cẩn thận đó thể hiện qua việc thà mang tiếng ác chứ không để hậu hoạ.
Việc trừ hậu họa đầu tiên là bức tử vua cũ Lý Huệ Tông. Sử chép: "(1226) Thượng hoàng nhà Lý ở chùa Chân Giáo, thường ngồi xổm nhổ cỏ ở trước cửa chùa. Thủ Độ đi qua trông thấy, nói: "Nhổ cỏ phải nhổ hết rễ sâu". Thượng hoàng đứng dậy, xoa tay, nói: "Lời của anh nói, ta đây biết rồi". Sau Thượng hoàng ra chơi chợ cửa Đông, nhân dân ganh nhau chạy ra xem, có người động lòng thương khóc. Thủ Độ sợ lòng người tưởng nhớ đến vua cũ, sẽ sinh ra sự biến loạn chăng, nên lại càng canh giữ dò xét nghiêm mật hơn trước". Cuối cùng, Trần Thủ Độ cũng bức tử mà sử chép: Thủ Độ sai người đem hương hoa đến dâng và nói rằng: " Quan Thượng phụ (tức Thủ Độ) có lời trần thỉnh". Lý Thượng hoàng giận lắm, nói rằng: "Ta tụng kinh xong sẽ tự tử". Rồi vào buồng ngủ, khấn rằng: "Thiên hạ nhà ta đã bị mày cướp mất, nay lại còn hãm hại ta, mai sau con cháu nhà mày cũng phải chịu như thế". Nói rồi liền thắt cổ ở vườn sau chùa. Thủ Độ bắt các quan đến khóc viếng, đào tường phía nam thành để làm cửa, di chuyển cữu ra phường An Hoa, dùng phép hỏa hóa, còn hài cốt thì đem chôn cất ở tháp chùa Bảo Quang".
Tuy Lý Huệ Tông đã đi tu nhưng Trần Thủ Độ có lý để lo lắng. Chừng khoảng 15 năm trước đó (1211), Lý Huệ Tông từng bỏ phe họ Trần để sang phe họ Đoàn (Đoàn Thượng và Đoàn Văn Lôi) khiến Trần Tự Khánh suýt bỏ mạng. Sau Lý Huệ Tông còn phong phản tướng của họ Trần là Nguyễn Nộn tước hầu để mượn tay chống họ Trần. Đến 1216, Lý Huệ Tông phải bất đắc dĩ quay lại nhờ cậy họ Trần mà thôi.
Thời điểm Lý Huệ Tông đi tu thì thiên hạ vẫn loạn lạc chứ chưa thống nhất trong tay họ Trần. Cục diện lúc đó họ Trần mạnh nhất rồi đến thế lực của Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng. Phải mãi đến 1228 thì Trần Thủ Độ mới dẹp được thế lực quân sự họ Nguyễn, họ Đoàn. Nếu chẳng may mà Lý Huệ Tông rơi vào tay của Nguyễn Nộn hay Đoàn Thượng thì các thế lực này lại có quân bài để kêu gọi Cần vương. Khi ấy thì e rằng cơ đồ của họ Trần vừa dựng sẽ lại tan theo dòng nước. Trong bối cảnh phải lựa chọn nhân nghĩa hay sự triệt để thì Trần Thủ Độ chọn phương án 2.
Một sự kiện nữa khiến Trần Thủ Độ mang tiếng ác là diệt tộc nhà họ Lý vào 1232. Sử chép: "Thủ Độ đã giết vua Huệ Tông, bọn tôn thất nhà Lý nhiều người ấm ức thất vọng. Nay nhân lúc họ làm lễ tế tiên tổ ở thôn Thái Đường xã Hoa Lâm, Thủ Độ cho người ngầm đào cái hố sâu, dựng nhà lên trên, rồi giật máy cho nhà đổ, chôn sống hết tôn thất nhà Lý".
Cũng có thuyết cho rằng chuyện này không có thật vì sau này vẫn có người họ Lý làm quan nhà Trần. Nhưng trên thực tế thì chúng ta có thể tin rằng việc Trần Thủ Độ thi hành chính sách tận diệt nhà họ Lý là có thật. Bằng chứng sống động hơn cả chính là việc hoàng tử nhà Lý là Lý Long Tường đã phải bỏ xứ mà đi cùng với 6.000 gia binh. Nếu tình hình giữa họ Trần - Lý khi đó không thực sự căng thẳng đến mức sống chết thì hoàng tử Lý Long Tường đâu đến mức phải bỏ cả sản nghiệp, đất phong để làm "thuyền nhân" vô định.
Tuy nhiên, cũng không trách được Trần Thủ Độ khi ông có những hành động cứng rắn. Nếu Trần Thủ Độ không làm triệt để thì tôn thất nhà Lý sau đó có cơ hội vùng lên cũng không để con cháu nhà Trần được sống yên ổn. Sau này, chúng ta cũng thấy được sự trả thù tàn khốc của con cháu nhà Lê dành cho nhà Mạc hay cụ thể hơn là Gia Long với con cháu nhà Tây Sơn.
Nhưng điểm cần chú ý là trong mọi việc làm này Trần Thủ Độ đều tự ý hành động mà không có ghi chép nào nói rằng ông phải thỉnh thị ý kiến từ Trần Thái Tông. Điều này tạo ra vẻ ngoài chuyên quyền của Trần Thủ Độ nhưng về sâu xa thì nó giúp Trần Thái Tông cách ly hoàn toàn với những tiếng xấu trong mắt người dân Việt khi đó.
Trần Thủ Độ không chỉ giúp Trần Thái Tông có ngôi báu mà còn giúp cho Trần Thái Tông danh tiếng sạch sẽ hoàn toàn. Điều đó giúp vị vua trẻ nhà Trần sau này có uy tín tuyệt đối với quân dân Đại Việt và nhờ đó thống nhất sức mạnh dân tộc trong cuộc chiến kháng Nguyên. Giả sử như việc Thái Tông lên ngôi có tì vết e rằng ông khó hiệu triệu người dân cả nước một lòng chống quân Nguyên.

Thử giải mã chuyện Trần Thủ Độ ép Trần Thái Tông lấy chị dâu

Tái hiện hình ảnh Trần Thái Tông - Lý Chiêu Hoàng trên sân khấu
Có thể nói vở kịch hôn nhân như vậy rất vụng về và rất rất tàn nhẫn với những người phải tham gia trong vở kịch đó. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh mà mọi sự nhân nhượng có thể trở thành mầm mống thảm họa diệt tộc sau này thì Trần Thủ Độ phải tiếp tục đóng vai người ác.
Chuyện Trần Thủ Độ chuyên quyền thao túng triều đình trong những năm cuối triều Lý, đầu triều Trần là điều không có gì phải bàn cãi. Việc Trần Thủ Độ để lại "tiếng ác" trong hậu thế qua việc bức tử vua Lý Huệ Tông hay thậm chí tìm cách tiêu diệt toàn bộ tôn thất nhà Lý cũng được nhiều người mổ xẻ. Nhiều người chấp nhận Trần Thủ Độ phải hành động quyết đoán và có phần ác độc là để bảo vệ vững chắc vị thế nhà Trần, tránh để bị nhà Lý sau này trỗi dậy trả thù thì có khi toàn gia bị diệt tộc mà nền móng xã tắc cũng lung lay. Trong số trước, chúng tôi cũng khẳng định Trần Thủ Độ chấp nhận mọi tiếng xấu xa về mình khi ra tay với tôn thất nhà Lý và tạo cho Trần Thái Tông sự trong sạch hoàn toàn để giữ uy tín trước toàn dân.
Tuy nhiên, có một hành động của Trần Thủ Độ khiến người đời sau hết sức thắc mắc vì sự quyết đoán, chuyên quyền của ông đã đi đến cực đoan. Đó là việc ép Trần Thái Tông phải bỏ vợ là Lý Chiêu Hoàng và lấy chị dâu. Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép: "Tháng giêng, mùa xuân (1237). Lập vợ Hoài vương là Lý thị làm Hoàng hậu, phế Chiêu Thánh hoàng hậu làm công chúa. Lúc ấy Chiêu Thánh chưa có con, mà Lý thị đã có mang được 3 tháng. Thủ Độ cùng Thiên Cực công chúa bày mưu riêng với nhà vua nên nhận liều lấy để có lợi về sau, vì thế mới đem Lý thị vào ở cung".
Hoài vương tức là Trần Liễu, anh trai của Trần Thái Tông còn Lý thị là công chúa Thuận thiên. Công chúa Thuận thiên không chỉ là chính thất của Trần Liễu mà còn là chị gái của Chiêu Thánh hoàng hậu (tức Lý Chiêu hoàng). Cả công chúa Thuận thiên và Lý Chiêu hoàng đều là con gái của Lý Huệ Tông và Trần Thị Dung (còn gọi là Thiên cực công chúa và sau là Linh từ quốc mẫu) mà Trần Thị Dung lại là cô ruột của Trần Thái Tông và Trần Liễu. Trong mối quan hệ trùng trùng lớp lớp đó thì Lý thị vừa là em họ, vừa là chị vợ và vừa là chị dâu của Trần Thái Tông.
Thời ấy, việc kết hôn với chị em họ cũng không bị phán xét hay cấm đoán gì cả. Thời phong kiến cho phép đa thê nên việc kết hôn với chị vợ cũng không phải là vấn đề gì to tát mà việc Hán Thành đế còn lấy cả 2 chị em Triệu Phi Yến, Triệu Hợp Đức là minh chứng. Tuy nhiên, việc lấy chị dâu thì bị coi là vi phạm luân thường đạo đức nghiêm trọng.
Cả Trần Thái Tông và Trần Liễu đều vô cùng phẫn nộ khi bị ép như vậy. Thế nên mới có chuyện: "Trần Liễu tức giận, tụ tập nhiều người ở sông Cái, nổi loạn" còn Trần Thái Tông chán nản đòi bỏ ngôi đi tu mà sử chép là "Nhà vua áy náy không yên lòng, đêm lẻn sang núi Yên Tử, vào ở nhà thờ Phật của Phù Vân Quốc sư".
Việc Trần Thủ Độ ép vua lấy chị dâu bị các sử gia chê bai hết lời. Sử gia Phan Phu Tiên - Tam cương ngũ thường, đó là luân lý trọng bàn đại của loài người. Thái Tông là vua sáng nghiệp, đáng nên lập ra phép tốt để cho đời sau theo, thế mà lại nghe mưu gian tà của Thủ Độ, cướp vợ anh làm vợ mình, như thế chả phải tự mình làm trái luân thường để mở đầu cái mối dâm loạn đấy ư? Trần Liễu khởi loạn, chính là do Thái Tông gây nên".
Còn sử gia nhà Nguyễn trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục sau này thông cảm với Trần Thái Tông hơn và cho rằng mọi xấu xa của vụ trái luân thường này là do Trần Thủ Độ. Khâm định Việt sử thông giám cương mục phê: "Nhưng bấy giờ Thái Tông hãy còn thơ ấu, mà Thủ Độ là người rất ngoan cố, phàm việc gì cũng do hắn chỉ sử, Thái Tông không theo cũng không được. Thế mà sử thần cứ chỉ trích riêng Thái Tông, như thế chưa phải là lời phê công bằng. Vả lại, lúc mới khai quốc, vua còn thơ ấu, lòng người còn nghi ngờ, Thủ Độ lại vốn là người không biết chữ, thế mà một mình kinh doanh, dựng lên được nghiệp lớn, thì thực là cương quyết, hiểm giảo, xưa nay ít có mấy người. Có lẽ vì lòng trời giúp ngầm nhà Trần mà được như thế chăng?"
Thực ra nói Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung thấy Lý Chiêu Hoàng lâu không sinh con mà tìm cách phế đi thì là điều rất không thỏa đáng. Lý Chiêu hoàng không hề mắc chứng vô sinh vì trong thời gian làm vợ của Trần Thái Tông đã sinh ra Thái tử Trần Trịnh nhưng chết yểu năm 1233. Từ lúc thái tử mất đến lúc Lý Chiêu hoàng bị ép khỏi ngôi hoàng hậu chỉ vỏn vẹn 4 năm. Sau này khi bà ngoài 40 tuổi vẫn còn sinh được 1 trai, Thượng vị hầu Lê Tông và 1 gái, Ứng Thụy công chúa Ngọc Khuê.
Giả sử Lý Chiêu Hoàng khi ấy khó sinh đi chăng nữa thì cũng không phải là cớ thuận để phế ngôi hoàng hậu. Vào thời phong kiến, vua có tam cung lục viện và nếu chẳng may hoàng hậu không thể sinh con trai thì vẫn có thể lập con của các phi tần khác chứ đâu việc gì phải phế hoàng hậu. Bằng chứng rõ nhất là sau này vua Trần Minh Tông dù chỉ là con của thứ phi (Huy Tư hoàng phi) nhưng vẫn được vua Trần Anh Tông truyền ngôi.
Vấn đề ở chỗ không phải Lý Chiêu Hoàng có thể sinh con hay không mà Trần Thủ Độ nhất quyết phải phải truất Lý Chiêu Hoàng khỏi ngôi hoàng hậu sớm. Nếu Lý Chiêu Hoàng ở ngôi hoàng hậu thì sao? Vạn nhất sau đó Trần Thái Tông mất sớm thì Lý Chiêu hoàng sẽ trở thành thái hậu, thậm chí bà với danh là cựu hoàng còn có thể trở lại ngôi vua. Dù Trần Thủ Độ ít học hành nhưng ông cũng phải sợ Lý Chiêu Hoàng có thể biến thành Lữ hậu nhà Hán hay Võ Tắc Thiên nhà Đường lắm chứ? Và gần hơn nữa thì các thái hậu thời Lý cũng khuynh đảo triều chính.
Trần Thủ Độ đã sợ Lý Huệ Tông trở lại và đòi nhổ cỏ thì phải nhổ tận gốc thì đâu thể khoanh tay trước viễn cảnh Lý Chiêu Hoàng có thể "trỗi dậy". Nhất định phải phế. Nhưng tại sao không đơn giản hơn là đầu độc Lý Chiêu Hoàng hay ép tự sát? Không thể được vì người tình của Trần Thủ Độ là Trần Thị Dung lại chính là mẹ của Lý Chiêu Hoàng. Trần Thị Dung không thể cho phép Trần Thủ Độ hại con gái của mình.
Thậm chí, Trần Thị Dung cũng không cho phép Trần Thái Tông lập người con gái nào khác lên làm hoàng hậu thì mất quyền lợi của mình nên Trần Thái Tông buộc phải lấy chị dâu là công chúa Thuận Thiên cũng là con gái của Trần Thị Dung. Sau này, khi công chúa Thuận Thiên có thành thái hậu đi chăng nữa thì ảnh hưởng và quyền lực của bà cũng không thể sánh bằng trường hợp Lý Chiêu hoàng thành thái hậu. Bản thân công chúa Thuận thiên vốn tính an phận nên chính vì thế mà vua Lý Huệ Tông không truyền ngôi cho bà dù bà là con gái trưởng. Trong khi đó, Lý Chiêu hoàng dù là em lại được truyền ngôi vì tính khí mạnh mẽ hơn.
Giải một bài toán phải loại bỏ Lý Chiêu Hoàng khỏi ngôi hoàng hậu để tránh trở thành thái hậu nhưng phải đáp ứng duy trì quyền lợi cho gia tộc, quyền lợi cho người tình là Trần Thị Dung thì Trần Thủ Độ cũng chỉ có cách ép Trần Thái Tông bỏ Lý Chiêu hoàng rồi lại lập em họ, kiêm chị vợ lại kiêm chị dâu là công chúa Thuận Thiên làm chính cung.
Có thể nói vở kịch hôn nhân như vậy rất vụng về và vô cùng tàn nhẫn với những người phải tham gia trong vở kịch đó. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh mà mọi sự nhân nhượng có thể trở thành mầm mống thảm họa diệt tộc sau này thì Trần Thủ Độ phải tiếp tục đóng vai người ác. Trái ngọt quý giá nhất trong vở kịch đó là việc Trần Thái Tông và công chúa Thuận Thiên sau này sinh ra Trần Thánh Tông - vị minh quân giúp dân tộc đánh bại hai cuộc xâm lăng quy mô của Nguyên Mông.
Anh Tú

Vai trò của Trần Thủ Độ trong cuộc chiến chống Nguyên lần thứ nhất
Cuối năm 1257, tướng Mông Cổ Uriyangqatai (Ngột Lương Hợp Thai) dẫn quân xâm phạm Bình Lệ Nguyên. Trần Thái Tông đích thân đốc chiến, thế giặc mạnh, nhà vua lui quân về sông Lô, rồi lui về sông Thiên Mạc. Nhà vua ngự thuyền đến hỏi Thái úy Trần Nhật Hiệu kế sách chống quân Mông Cổ, Nhật Hiệu chấm nước viết chữ lên hai chữ Nhập Tống. Thái Tông lại hỏi quân Tinh Cương, quân do Nhật Hiệu chỉ huy, Nhật Hiệu nói rằng "Không gọi được chúng đến".
Sau đó, Thái Tông lại dời thuyền đến hỏi Trần Thủ Độ, Thủ Độ tâu: "Đầu thần chưa rơi xuống đất, bệ hạ đừng lo gì khác". Ngày 24 tháng 12 năm đó, Trần Thái Tông tiến quân đến Đông Bộ Đầu, đánh bại quân Mông Cổ, khiến họ phải triệt thoái về Bắc

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét