Trần Khánh Dư là nhân vật lịch sử đầy tranh cãi. Chiến công và tài năng không ít nhưng bê bối đời tư và những tai tiếng thì cũng rất nhiều. Giữa chính sử và dã sử có cái nhìn rất khác về nhân vật này.
Tài năng quân sự của Trần Khánh Dư được thể hiện rõ trong việc viết lời tựa cuốn Vạn Kiếp tông bí truyền thư và đặc biệt là qua chiến công để đời tại Vân Đồn: tiêu diệt toàn bộ quân lương của giặc Nguyên.
Nhưng những tai tiếng của Trần Khánh Dư bị sử sách lưu danh không ít. Ngoài bê bối chuyện tình cảm với công chúa Thiên Thụy thì Trần Khánh Dư còn bị mang cái tiếng là tham quan. Có hai sự việc được chính sử chép lại khiến tên tuổi của Trần Khánh Dư không được lung linh trong mắt hậu thế như các tướng cùng thời.
Trước hết là phát ngôn. Năm 1296 khi bị dân kiện về tội “ tham lam, thô bỉ”, Trần Khánh Dư về kinh thành chầu vua Ạnh Tông. Sử chép Trần Khánh Dư nhân đó tâu với vua về đạo nuôi quân, mà rộng hơn là đạo trị quốc rằng: "Tướng là chim ưng, dân lính là vịt, dùng vịt để nuôi chim ưng thì có gì là lạ?".
Rồi Đại Việt Sử ký Toàn thư có viết lại một chuyện, khi Khánh Dư trấn giữ Vân Đồn, tục ở đó lấy buôn bán làm nghề nghiệp sinh nhai, ăn uống, may mặc đều dựa vào khách buôn phương Bắc, cho nên quần áo, đồ dùng theo tục người Bắc. Khánh Dư duyệt quân các trang, ra lệnh:"Quân trấn giữ Vân Đồn là để ngăn phòng giặc Hồ, không thể đội nón của phương Bắc, sợ khi vội vàng khó lòng phân biệt, nên đội nón Ma Lôi, ai trái tất phải phạt".
Nhưng Khánh Dư đã sai người nhà mua nón Ma Lôi từ trước, chở thuyền đến đậu trong cảng rồi. Lệnh vừa ra, sai người ngầm báo dân trong trang:"Hôm qua thấy trước vụng biển có thuyền chở nón Ma Lôi đậu".
Do đấy, người trong trang nối gót tranh nhau mua nón, ban đầu mua không tới 1 tiền, sau giá đắt, bán 1 chiếc nón giá 1 tấm vải. Số vải thu được tới hàng ngàn tấm. Thơ mừng của một người khách phương Bắc câu: "Vân Đồn kê khuyển diệc giai kinh" (Vân Đồn gà chó thảy đều kinh) là nói thác sợ phục uy danh của Khánh Dư mà thực là châm biếm ngầm ông ta. Khánh Dư tính tham lam, thô bỉ, những nơi ông ta trấn nhậm, mọi người đều rất ghét. Trần Nhân Tông chỉ tiếc ông có tài làm tướng, nên không nỡ bỏ mà thôi.
Ngày nay, có những quan điểm hiện đại nhìn thoáng hơn trong cách hành xử của Trần Khánh Dư. Rõ ràng, nếu chỉ nhìn vào một hai sự việc để đánh giá Trần Khánh Dư thì việc đó là vội vàng và chưa toàn diện. Nếu quả thực Trần Khánh Dư coi dân chỉ là vịt và tìm cách bóc lột dân thì chắc ông không được hậu thế thờ cúng nhiều.
Bên cạnh những việc bồng bột thời trẻ bị sử sách chê thì càng về sau, Trần Khánh Dư càng làm những điều gia ân với dân chúng, đáng được ngưỡng mộ. Có nhiều tài liệu chép năm 1323, Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư xin về trí sĩ, tại vùng ấp ông được phong, thuộc xã Dương Hòa, lộ Lý Nhân (Hà Nam).
Một lần, ông đi chơi đến Tam Điệp, Trường Yên (Ninh Bình), qua vùng đất thấy đồng cỏ bát ngát, sông nước hữu tình, ông bèn sai gia nhân đến khai khẩn, lập thành làng mới. Dần dần, người kéo đến làm ăn ngày càng đông. Ông đặt tên là trại An Trung. Sau đó, dân các vùng khác tiếp tục đến, lập thêm trại Động Khê và trại Tịch Nhi, thuộc hai xã Yên Nhân và Yên Đồng, huyện Ý Yên (Nam Định).
Ông ở lại những nơi mới khai phá này 10 năm. Sau đó, ông trở về ấp Dưỡng Hòa cũ và giao lại các trại mới lập cho hai gia tướng họ Bùi và họ Nguyễn coi sóc. Trong buổi đầu khai hoang lập ấp, ông đã bỏ tiền nhà ra giúp vốn cho dân, ông còn hướng dẫn dân trại Tịnh Nhi trồng cây cói và làm nghề dệt cói.
Sau khi ông mất, nhân dân trong vùng lập đền thờ ông ở trại An Trung, trên nền nhà xưa ông đã ở, để ghi tạc công đức của ông. Trong đền có bức đại tự: "Ẩm hà tư nguyên" (Uống nước nhớ nguồn).
Theo tương truyền được ghi trong cuốn Bách thần đất Việt tập 9 của nhà nghiên cứu Vũ Thanh Sơn, Dưỡng Hòa là nơi Trần Khánh Dư đóng quân sau khi đánh Chiêm Thành. Dưỡng Hòa cũng là nơi mà vua Trần ban cho Trần Khánh Dư làm thái ấp. Đây cũng là nơi Khánh Dư chiêu dân khai hoang lập nên 4 làng Đông, Nhì Tam, Tứ. Xưa bốn làng đều là người họ Trần vì đều là người theo Trần Khánh Dư về đây chiêu dân lập ấp.
Tạp chí Xưa và Nay số 230 tháng 7.2005, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Trò có ghi chép kỹ hơn về truyền thuyết Trần Khánh Dư ở ấp Dưỡng Hòa. Theo đó, thì sau khi đất nước sạch bóng quân thù, Trần Khánh Dư đã về ở đây, bấy giờ vùng này còn là rừng rậm nhưng bằng phẳng. Trần Khánh Dư đã cho đào sâu bốn xung quanh xuống để thả cá, vượt đất lên cho dân ở. Đầm rộng 300 thước (120m) sâu 10 thước (4m), nay nhiều chỗ đã thành ruộng lúa. Toàn bộ khu đất này rộng 1.399 mẫu 2 sào (502 ha) “thắt núm cà, sa đít rện” (Nghĩa là phía trên thắt lại hình núm cà, chí có một đường vào ở phía bắc, phía dưới phình ra như đít con nhện). Trần Khánh Dư ở giữa, phía bên đông là kho lúa nay còn có tên là vườn Kho. Bốn làng do ông chiêu dân lập ấp ở hai bên đông-tây song song với nhau… Phía đông có làng Đông còn gọi là Nhất Bát Đông và làng Nhì, phía tây có làng Tam và làng Tứ. Làng Tam trước kia ở chỗ chợ Đại bây giờ.
Ở ấp Dưỡng Hòa hằng ngày Trần Khánh Dư thường đi thuyền dạo chơi xung quanh ấp. Ở bốn làng ông cho làm 4 chòi gác, ở phía tây bắc thôn Tứ có chòi gác ở đình Ông, thôn Tam có chòi gác đền Bà Nhà, ở phía đông thôn Đông có chòi gác ở miếu Đông, thôn Nhì có chòi gác ở vườn Kho đầu làng.
Trần Khánh Dư ở trong ấp, còn quân lính đóng ở ngoài. Quân của ông đóng ở làng Tứ, làng Phố (tức làng Ninh Lão Trung) bên cạnh đường Thiên Lý xưa. Ai muốn vào ấp Dưỡng Hòa phải đợi ở đấy rồi có người chèo thuyền đưa sang chứ không có đường đi.
Ấp Dưỡng Hòa đang được xây dựng thì Trần Khánh Dư được vua Trần gọi về triều và giữ ông ở đấy. Ruộng đất ở ấp Dưỡng Hòa ông để lại cho dân làng. Cũng có truyền thuyết cho rằng Trần Khánh Dư ở ấp Dưỡng Hòa lúc tuổi già và mất ở đây. Nhân dân thương tiếc chôn cất ông ở sau chỗ ông ở, gọi là Mả Vua. Đến thời nhà Minh xâm lược, quân giặc đến đây giết người họ Trần, khai quật mồ mả của Trần Khánh Dư, nhân dân phải cải ra họ khác. Sau cuộc kháng chiến chống quân Minh, ấp Dưỡng Hòa được xây dựng lại. Hiện nay chỉ có thôn Tứ là nhiều họ Trần.
Ruộng đất ở ấp Dưỡng Hòa do Trần Khánh Dư để lại cho dân làng, cho nên trước 1945 đa số là công điền. Hằng năm trước đây, bốn làng ở xã Dưỡng Hòa đều có lệ chia công điền. Cứ đến ngày mồng một tết nguyên đán hay một ngày đẹp trời đầu năm mới, dân làng tổ chức chia công điền cho những chàng trai đến tuổi thành niên. Tưởng nhớ ông, hằng năm cứ đến ngày 24 tháng giêng, tương truyền là ngày ông mất, các làng lại vào đám, đồ tế là bánh dày và chè kho, vì ông đi tu, ăn chay.
Ở đây chúng ta có thể thấy độ vênh rất lớn trong cách nhìn nhận Trần Khánh Dư giữa chính sử và dã sử. Nếu chính sử chê trách Khánh Dư là kẻ tham quan, coi thường mạng dân lính thì dã sử lại ghi nhận ông như người dốc lòng vì dân lập nghiệp.
Trong nghiên cứu, chính sử thường được tin cậy hơn nhưng không phải lúc nào cũng đúng vì có thể trong bối cảnh nhất định và chịu sự thiên kiến nào đó mà sử gia có cách nhìn nhận hẹp hòi. Còn dã sử là do nhân dân viết, tuy không phải luôn chính xác hay toát lên vẻ hàn lâm nhưng thái độ của nhân dân thì luôn công bằng. Trong bài trước, chúng tôi cũng nêu những bất cập của chính sử khi nói về Huyền Trân công chúa và Trần Khắc Chung mà phải sau này mới sáng tỏ được.
Ấn tượng về Trần Khánh Dư thì mỗi chúng ta có thể cảm nhận khác nhau, tùy theo thế giới quan và nguồn thông tin tiếp cận. Chỉ tạm đưa ra một nghi vấn là: Nếu thực sự Trần Khánh Dư chỉ là tham quan hút máu dân thì làm sao lại được dân chúng thờ cúng và tin vào sự linh thiêng. Trong Lịch Triều hiến chương loại chí, sử gia Phan Huy Chú tuy chê Trần Khánh Dư vì mấy chuyện tham lam nhưng phải thừa nhận: "Sau khi ông mất, miếu thờ ở bến Linh Giang, có một chiếc ghế dài 2 thước, linh dị không ai đến gần".
Hưng Đạo vương là danh tướng số 1 thì Trần Khánh Dư xếp thứ mấy?
Chỉ riêng mấy câu: "Phàm người khéo cầm quân thì không cần bày trận, khéo bày trận thì không cần giao chiến, khéo giao chiến thì không thể thất bại, khéo thất bại thì không thương vong" đã toát lên cả triết lý quân sự mà Trần Khánh Dư, triết lý của một vị soái chứ không còn là một vị tướng bình thường nữa.
Trong thời kỳ vua tôi nhà Trần đánh bại các cuộc xâm lược của quân Nguyên Mông thì nước ta lúc đó xuất hiện nhiều danh tướng lừng lẫy. Ngoài Hưng Đạo vương thì phải kể đến Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái... Còn theo một số tài liệu, nhà sử học Phan Huy Chú xếp ông ở hàng thứ tư đời Trần, chỉ sau Hưng Đạo vương, Trần Nhật Duật và Phạm Ngũ Lão, đứng trên các tướng tài kiệt hiệt như Trần Quang Khải, Trần Bình Trọng, Trần Quốc Toản, Nguyễn Khoái, Trần Quốc Nghiễn, Trần Quốc Tảng... Tuy nhiên, Hưng Đạo vương đánh giá Trần Khánh Dư có lẽ còn cao hơn vị trí thứ tư đương thời.
Như đã đề cập trong bài trước, Hưng Đạo vương không để bụng chuyện Trần Khánh Dư có lỗi với gia đình ông khi tư thông với công chúa Thiên Thụy, vốn là con dâu của Hưng Đạo vương. Khi có chiến tranh, Hưng Đạo vương đã trao cho Trần Khánh Dư toàn quyền hành xử ở vị trí chiến lược Vân Đồn. Một phần, Hưng Đạo vương có thể thông cảm cho sai lầm trong chuyện tình cảm của Khánh Dư và quan trọng hơn là Hưng Đạo vương công tư phân minh, đánh giá cao tài năng quân sự của Trần Khánh Dư.
Sau khi chiến tranh kết thúc, Hưng Đạo vương có viết một cuốn võ kinh là Vạn Kiếp tông bí truyền thư hay gọi tắt là Vạn Kiếp binh thư. Khác với cuốn Binh thư yếu lược được viết phổ biến cho tướng sĩ, cuốn Vạn Kiếp tông bí được "đóng dấu mật", chỉ lưu hành nội bộ cho con em trong tôn thất. Nội dung được đồn là sưu tập binh pháp các nhà, làm thành bát quái cửu cung đồ được Hưng Đạo vương phân tích đúc kết. Đáng tiếc là về sau Vạn Kiếp binh thư không tìm ra được và người ta chỉ còn biết cuốn võ kinh này qua lời tựa.
Ai là người viết lời tựa cho Vạn Kiếp tông bí truyền thư của Hưng Đạo vương? Dù đương thời cả Chiêu Minh vương Trần Quang Khải hay Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật đều văn tường Khổng Mạnh, võ thạo Tôn Ngô nhưng người viết lời tựa lại là Trần Khánh Dư. Chỉ riêng lời tựa này cũng đáng là một tác phẩm bất hủ vì nó không chỉ đề cao giá trị của Vạn Kiếp binh thư, về tài năng quân sự của Hưng Đạo vương mà còn cho thấy tư duy quân sự đáng nể của Trần Khánh Dư.
Trần Khánh Dư viết bằng Hán văn và lời văn được dịch ra như sau:
"Phàm người khéo cầm quân thì không cần bày trận, khéo bày trận thì không cần giao chiến, khéo giao chiến thì không thể thất bại, khéo thất bại thì không thương vong. Xưa kia, Cao Dao làm chức sĩ sư mà mọi người không dám trái mệnh, Văn Vương và Vũ Vương nhà Chu là bậc thầy về văn và về võ, ngấm ngầm sửa đức để khuynh loát quyền bính của nhà Thương mà lấy nghiệp vương. Đó đều có thể gọi là những người giỏi cầm quân, không cần bày trận vậy. Vua Thuấn múa lá mộc và lông trĩ mà họ Hữu Miêu tự mình tìm đến, Tôn Vũ nước Ngô đem mỹ nhân trong cung thử tập trận mà phía tây phá nước Sở hùng cường, phía Bắc ra uy với nước Tần nước Tấn, nổi tiếng khắp chư hầu. Đó đều có thể gọi là những người giỏi bày trận, không cần giao chiến vậy. Cho đến Mã Ngập nước Tấn dựa vào bát trận đồ chuyển đánh nghìn dặm, phá được Thụ Cơ Năng mà lấy lại Lương Châu. Thế gọi là người giỏi giao chiến không bao giờ thất bại vậy.
Cho nên, trận nghĩa là bày ra, là khéo léo. Ngày xưa, vua Hiên Viên lập ra phép "tỉnh điền" để đặt binh chế, Gia Cát Lượng xếp đá bên sông để làm bát trận, Vệ công sửa lại làm trận Lục Hoa, Hoàn Ôn định ra trận Xà Thế, trước sau đều có trận đồ nổi tiếng, trình bày tuần tự, thành phép tắc rõ ràng. Nhưng người đương thời ít ai thông hiểu, muôn vàn đầu mối nhìn vào dường như rối loạn, chưa từng nắm được lẽ biến dịch bên trong. Ví như những phép tắc và suy luận của Lý Thuyên, người sau không ai hiểu nghĩa là gì.
Vì thế, Quốc công ta bèn so sánh, kê cứu trận đồ và binh pháp của các nhà, tổng hợp lại thành một bộ sách. Tuy chép cả những điều chi tiết, nhưng người sử dụng thì nên bỏ bớt những chỗ rườm, tóm lấy thực chất. Rồi lấy năm hành ứng với nhau, chín cung câu với nhau, phối hợp cương và nhu, xoay vần chẵn và lẽ, không làm hỗn loạn âm dương và thần sát, phương lợi và sao tốt, hung thần và ác tướng, ba cát và năm hung, việc nào việc ấy thực phân minh rõ rệt. Quốc công lại còn thêm bớt với chiến thuật của thời Tam đại, nhờ đó trăm trận trăm thắng. Cho nên đương thời phía bắc làm cho Hung Nô phải sợ, phía tây làm cho Lâm Ấp phải kinh. Rồi ông đem sách này dạy bảo con em làm gia truyền, không tiết lộ cho người ngoài biết. Lại có lời dặn rằng: "Sau này con cháu và bề tôi phò tá của ta có học được bí thuật này thì nên lấy đầu óc sáng suốt, linh hoạt mà thực hành và sắp đặt nó, chứ không nên lấy đầu óc cứng nhắc, tối tăm mà cất giữ và lưu truyền. Nếu trái đều đó thì sẽ mang vạ vào thân, lại hại lây đến cả con cháu. Đó gọi là tiết lộ cơ trời vậy".
Khoan nói về lời văn trôi chảy, khúc triết thể hiện tài năng của bậc trí giả, chỉ riêng mấy câu: "Phàm người khéo cầm quân thì không cần bày trận, khéo bày trận thì không cần giao chiến, khéo giao chiến thì không thể thất bại, khéo thất bại thì không thương vong" đã toát lên cả triết lý quân sự mà Trần Khánh Dư, triết lý của một vị soái chứ không còn là một vị tướng bình thường nữa. Trên thực tế, cách cầm quân, cách bày trận, cách giao chiến và cả cách thất bại sao cho khéo đã được Trần Khánh Dư thể hiện trong trận Vân Đồn phá tan đạo quân tải lương. Trần Khánh Dư giỏi dùng quân để đạt được mục đích thắng không chỉ một trận mà là thắng cả một chiến dịch dẫn đến thắng trong cả cuộc chiến.
Chúng ta không có điều kiện để so sánh tài năng cầm quân của Trần Khánh Dư với các danh tướng đương thời nhưng có lẽ tầm nhìn, tư duy và triết lý quân sự của Trần Khánh Dư rất tương đồng với thống soái quân đội Đại Việt khi đó, Hưng Đạo vương. Các vua Trần về sau cũng đều đánh giá cao Trần Khánh Dư, chẳng những đời Thánh Tông, Nhân Tông mà đến đời Anh Tông, Minh Tông cũng vậy. Những lần chinh phạt Chiêm Thành sau này, Trần Khánh Dư dù không được thăng chức lớn nhưng đều được trọng dụng thống lĩnh thủy binh. Vua Trần Minh Tông còn có lần ví Trần Khánh Dư như Phạm Lãi trong bàiDưỡng Chân Bình thôn tử Nhân Huệ vương trang với 2 câu kết:
Long chuẩn hà tằng đồng điểu chuế,
Biên chu hưu phiếm Ngũ hồ dao.
Biên chu hưu phiếm Ngũ hồ dao.
Nghĩa là: Ta có mũi rồng, không có cái mũi mỏ quạ (ý nói mình không giống Câu Tiễn), nên ông không phải bỏ ta mà đi ngao du Ngũ Hồ (ý nói Trần Khánh Dư không phải từ quan cho toàn mạng như Phạm Lãi khi xưa…)
Tuy có triết lý tư duy quân sự tương đồng với Hưng Đạo vương nhưng Trần Khánh Dư không được đời sau đánh giá cao vì cho rằng ông thiếu chữ Đức. Hưng Đạo vương được toàn bộ con dân nước Việt kính trọng ngoài tài cầm quân còn vì tấm lòng trung và đặc biệt là chữ Đức. Năm 1300, Hưng Đạo Vương ốm. Vua Anh Tông ngự tới nhà thăm, hỏi về đạo giữ nước thì Hưng Đạo vương nhấn mạnh: "Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy".
Trong khi đó, năm 1296 khi bị dân kiện về tội “ tham lam, thô bỉ”, Trần Khánh Dư về kinh thành chầu vua Ạnh Tông. Sử chép Trần Khánh Dư nhân đó tâu với vua về đạo nuôi quân, mà rộng hơn là đạo trị quốc rằng: "Tướng là chim ưng, dân lính là vịt, dùng vịt để nuôi chim ưng thì có gì là lạ?".
Hai câu nói để đời của hai danh tướng thời Trần với vua Anh Tông được sử sách chép lại đã khiến hậu thế nhìn Hưng Đạo vương và Trần Khánh Dư bằng con mắt khác nhau.
Nguyên Hán văn lời tựa cho Vạn Kiếp bí tông truyền thư do Trần Khánh Dư viết có nội dung là: "Phu thiện sư giả bất trận, thiện trận giả bất chiến, thiện chiến giả bất bại, thiện bại giả bất tử. Tích cao đào tác sĩ sư, nhi nhân bất can kỳ mệnh, cập chu võ thành vi văn võ sư, ẩm mưu tu đức, dĩ khuynh thương chính nhi hưng vương nghiệp, sở vị thiện sư giả bất trận hĩ. Thuấn vũ can vũ, nhi hữu, miêu cách, cập ngô tôn võ dĩ cung trung mỹ nhân thí lặc binh, nhi tây phá cường sở, bắc uy tần, tấn, hiển danh chư hầu, sở vị thiện trận giả bất chiến hĩ. Cập tấn mã ngập y bát trận đồ, phụ chiến thiên lý, phá thụ cơ năng, dĩ phục lương châu, sở vị thiện chiến giả bất bại hĩ. Cố trận giả trần dã xảo dã. Tích giả hoàng đế lập tỉnh điền dĩ chế binh, chư cát luy giang thạch dĩ vi bát trận đồ, vệ công tài vi lục hoa trận, hoàn ôn chế vi xà thế trận, hữu danh đồ tự liệt, chiêu nhiên thành pháp. Thời nhân thiếu hữu năng giả, thiên đoan vạn tự, đồ vi vặn loạn, vị thưởng biến dịch, như lý thuyên tắc định kỳ thôi, hậu nhân bất năng hiểu kỳ nghĩa. Cố ngã quốc công nãi hiệu soạn chư gia đồ pháp, tập thành nhất biên, tuy dĩ thu hào các lục sở dụng chi giả, yếu khứ kỳ nhũng, lược thủ kỳ thực, cụ dĩ ngũ hành tương ứng, cửu cung tương thôi, phối hợp cương nhu tuân hoàn, kỳ ngẫu bất tạp, ẩm dương thần sát, lợi phương cát diệu, hung thần ác tướng, tam cát ngũ hung, các dĩ chiêu chương, xuất nhập tam đại, bách công toàn thắng. Cố năng đương thời bắc chấn hung nô, tây uy lâm ấp, toại dĩ kỳ biên thụ thụ gia truyền, bất vi ngoại thế." Hựu hữu chúc ngữ vân: "Hậu ngã tử tôn bồi thần, đắc kỳ bí thuật giả, khả dĩ minh triết thi hành bố liệt, bất khả dĩ ngoan muội di văn truyền ngôn, phủ tắc thân chiêu ương cữu, họa cập tử tôn, thị vị tiết thiên cơ giả"
Anh Tú
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét