ANTD.VN - Đầu những năm 1920 thế kỷ trước, nhiều thanh niên Hà Nội yêu thích cải lương đã mua các đĩa cải lương do hãng thu âm Pathé và Béka sản xuất để học. Từ đó, nhiều nhóm cải lương nghiệp dư đã ra đời, trong đó đáng kể là nhóm Tài tử Đồng ấu và Tài tử phố Hàng Giấy. Nhưng đến năm 1926, Hà Nội vẫn chưa có gánh cải lương mang tính chuyên nghiệp.
Nghệ sĩ Sỹ Tiến và Bích Được trong phòng hóa trang rạp Chuông Vàng, trước giờ diễn vở Kiều (Ảnh tư liệu chụp năm 1962)
Năm 1927, Nghĩa Hiệp ban - gánh cải lương đầu tiên ở Sài Gòn ra Hà Nội biểu diễn ở rạp Quảng Lạc (nay là số 8 phố Tạ Hiện). Trong 4 đêm diễn ở rạp này, khán giả chen chúc mua vé. Chủ rạp Quảng Lạc thấy đây là cơ hội để thành lập gánh hát của riêng mình nên gây khó dễ bằng cách tăng tiền thuê rạp, đồng thời bí mật dụ dỗ, mua chuộc một số đào kép chính.
Chủ gánh Nguyễn Văn Đẫu bất bình liền sang thuê rạp Thăng Long (nay là Nhà hát cải lương Hà Nội phố Hàng Bạc) diễn luôn 7 tối. Thấy diễn cải lương đông khách nên chủ rạp chiều chuộng ông bầu Nguyễn Văn Đẫu bằng cách đổi tên Thăng Long thành Cải lương hí viện rồi Tố Như. Cay cú nhưng chủ rạp Quảng Lạc vẫn không từ bỏ ý đồ, ông tiếp tục lôi kéo đào kép và đã thành công khi Quảng Lạc là rạp đứng chân thường xuyên của các gánh hát từ Nam ra.
Năm 1932, gánh cải lương Phước Cương đi hát ở Paris về ra Hà Nội đã thuê rạp Philharmonique (nay là Nhà hát múa rối Thăng Long, phố Đinh Tiên Hoàng) để diễn. Người ta đổ xô mua vé xem cô Năm Phỉ “mặc váy nhảy Vals” đóng vai Bàng Quý Phi. Vì diễn ở Hà Nội khán giả luôn kín rạp nên nhiều gánh cải lương ở Sài Gòn năm nào cũng lưu diễn ở Hà Nội.
Đầu những năm 1930, nhiều thanh niên Hà Nội có giọng và mê mẩn nghệ thuật này đã khăn gói vào Sài Gòn theo các gánh học hát. Và một trong những người đầu tiên trở thành diễn viên chuyên nghiệp là Sỹ Tiến. Ông là diễn viên người Bắc duy nhất của gánh Tân Hí ban ở Sài Gòn. Biết rạp chuyên diễn chèo Sán Nhiên Đài (nay là Trung tâm giao lưu văn hóa phố cổ, 50 phố Đào Duy Từ) của ông bầu Trương Văn Tố cũng có ý thành lập gánh cải lương nên ông Đẫu đã nhường lại một số đào kép cho Sán Nhiên Đài và Nghĩa Hiệp ban tan rã.
Khi ông bầu xứ Đông là Nguyễn Đình Nghị thâu tóm Sán Nhiên Đài thì mọi chuyện bắt đầu khác. Nguyễn Đình Nghị quay lại diễn chèo, ông thay đổi phong cách diễn, có thêm phông màn, cảnh trí đồng thời soạn lại các tích cổ thành vở với lớp lang và gọi là chèo văn minh. Khán giả trở lại xem chèo nhưng rạp cũng chỉ đông được vài năm rồi lại vắng. Một lần nữa Nguyễn Đình Nghị lại chuyển sang chèo cải lương, nghĩa là hát chèo theo giai điệu của cải lương và sự đổi thay này khiến Sán Nhiên Đài lại trở thành tâm điểm của khán giả yêu thích chèo cải lương. Vì cứ diễn đi diễn lại một vài vở nên khán gia thuộc lòng đào kép trong các vai.
“Tẩu mã Tư Long
Hồi hùng Ba Tý
Hát lý con Liên
Đóng điên con Chín
Thằng Tín pha trò
Thằng Giò Tào Tháo”.
Để tiết kiệm chi phí và có ngay diễn viên tham gia vào các vở, chủ rạp đã nhờ chính các diễn viên, nhạc công của Tân Hí ban truyền nghề cho người có thanh có sắc ở Hà Nội muốn theo nghiệp. Và rồi cả Sán Nhiên Đài và Quảng Lạc đều có diễn viên miền Nam hát chung với diễn viên Bắc mà không hề chênh phô. Đó là những bước đi đầu tiên của cải lương Bắc ở Hà Nội.
Năm 1940, Sán Nhiên Đài trở thành nơi diễn chính của Nhật Tân ban, gánh hát này do các ông Doãn Bá Chính, Trần Quang Cầu lập khoảng năm 1935. Diễn tại Quảng Lạc có Quốc Hoa ban với những diễn viên: Tư Ban, Bá Quyền, Hải Tý, Bích Lộc, Phước Thọ, Tuấn Sửu, Bích Hợp, Mộng Dần, Lệ Thanh, Ngọc Dư, Bích Được...
Hầu hết các vở cải lương đều khai thác các đề tài có nội dung éo le, bi thảm, khốn khổ của phụ nữ nên thu hút rất đông các bà, các cô đi xem. Họ xem để chia sẻ và cảm thông với số phận đàn bà như họ. Có loại khán giả đắm đuối với cải lương đó là các cô đầu và cải lương sinh ra như dành riêng cho họ. Vì thế chỗ nào có nhiều nhà hát cô đầu, thế nào cũng có rạp cải lương.
Đối diện với ngõ Vạn Thái, ngõ nổi tiếng về hát cô đầu ở phố Bạch Mai có rạp Lý Vịt, thực ra tên rạp là Lạc Thành nhưng vì ông chủ họ Thành này là lý trưởng lại có lò ấp vịt giống nên người ta mới gọi như vậy. Năm 1938, xuất hiện một rạp cải lương ở cuối phố Đại La gần ngã tư Mơ vì khu vực này có vài chục nhà hát với hơn 200 cô đầu. Còn gần Cầu Mới (Ngã Tư Sở), năm 1941 xuất hiện rạp Thiên Xuân Đài, rạp đóng cửa năm 1946 vì chiến tranh. Đến năm 1943, Hà Nội đã có 16 gánh hát cải lương lớn nhỏ.
Tháng 12-1946, Pháp tái chiếm Hà Nội, dân phố tản cư về các vùng quê, nhiều nghệ sỹ cũng theo gia đình, các rạp phải đóng cửa, một số gánh hát về diễn ở nông thôn cầm cự. Thời kỳ này,các vở chủ yếu lấy tích cổ của Trung Hoa và Việt Nam. Năm 1951 thì mô phỏng theo phim Mỹ nên người ta gọi các vở này là La Mã diễm huyền. Hai đoàn Kim Phụng và Kim Chung khá đông khách.
Năm 1954, nhiều diễn viên và chủ gánh di cư vào Nam. Nghệ sĩ Mộng Dần ở đoàn Kim Chung ở lại và ông đã vận động một số diễn viên tiếp tục hát nên được gọi là Kim Chung mới. Năm 1957, Kim Chung mới đổi thành Chuông Vàng, còn Kim Phụng vẫn giữ nguyên tên và cả hai trở thành các đoàn cải lương quốc doanh. Sau năm 1954, Tuấn Sửu, Mộng Dần, Lệ Thanh, Ngọc Dư... tiếp tục hát và trở thành các nghệ sĩ cải lương nổi tiếng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét